Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ ĐIỀU KIỆN VAY VỐN CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH LÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.45 KB, 19 trang )

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ ĐIỀU KIỆN VAY VỐN CỦA NGÂN
HÀNG LIÊN DOANH LÀO-VIỆT (CHI NHÁNH HÀ NỘI)
Trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp tại
Ngân hàng liên doanh Lào-Việt nói riêng và các Ngân hàng thương mại nói chung
còn có nhiều khó khăn, vướng mắc. hiện đã và đang có rất nhiều ý kiến tranh cãi
của các chuyên gia thuộc lĩnh vực này. để giải quyết tận gốc rễ của vấn đề thì cần
phải có sự đồng tâm, hiệp lực, phối hợp giữa nhiều ngành, nhiều cơ quan khác
nhau. Trong thời gian thực tập ngắn ngủi có điều kiện nghiên cứu về vấn đề này
trong thực tế cũng như sách vở tuy lượng kiến thức còn hạn chế nhưng em cũng
mạnh dạn đưa ra một số ý kiến. Các ý kiến có thể còn nhiều bất cập nhưng em
mong rằng đó sẽ là những ý kiến mang tính xây dựng, góp phần tháo gỡ một phần
nhỏ khó khăn mà các Ngân hàng gặp phải.
I. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH LÀO-VIỆT
1.Giải pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản thế chấp.
Mở rộng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản thế chấp là yêu cầu đầu tiên nhằm
tăng hiệu quả nghiệp vụ này. với một khối lượng tín dụng nhỏ nhoi như hiện nay
không thể khẳng định nó có hiệu quả mặc dù có thể chất lượng rất cao. Để mở rộng
tín dụng trước hết Ngân hàng có thể áp dụng các giải pháp:
*Thay đổi chính sách tín dụng của Ngân hàng theo hướng mở rộng cho
vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Hiện nay chính sách Ngân hàng chủ yếu hướng hoạt động cho vay vào khu
vực kinh tế quốc doanh. Với định hướng như vậy, khu vực kinh ngoài quốc doanh
không được sự chú ý của Ngân hàng, trong khi lượng vốn huy động được không sử
dụng hết. Đây là một thiệt thòi cho Ngân hàng, cho nền kinh tế và cho cả doanh
nghiệp nữa. Tất nhiên cho vay ngoài quốc doanh đòi hỏi mọi quá trình đều phức
tạp hơn (vì thông thường thì cho vay doanh nghiệp Nhà nước gần như được Nhà
nước bảo đảm nên ít rủi ro hơn), đòi hỏi tài sản bảo đảm nhưng không vì thể mà
khẳng định là không an toàn. thiệt nghĩ thay đổi chính sách của Ngân hàng theo
hướng mở rộng tín dụng với mọi thành phần kinh tế là xu hướng chung của mọi
Ngân hàng trong kinh tế thị trường.
*Tăng cường hoạt động Marketing


Công tác chiến lược khách hàng tuỳ kết quả tốt nhưng chưa hoàn thiện Ngân
hàng với số nhân viên ít ỏi giống như mọi Ngân hàng trong cả nước vấn chưa có
một phòng Marketing hoàn chỉnh. Hoạt động Marketing ở đây phải được hiểu đúng
như bản chất vốn của nó gồm cả bốn chính sách về qía cả, về sản phẩm, về phân
phân phối và về khuyến mại khuyếch trương. Đối với Ngân hàng nó mới được thực
hiện như một hình thức đơn giản nhất là thông qua tiếp xúc của Ngân hàng. Các
hợp đồng được ký kết do khách hàng tìm tới Ngân hàng. Một bộ phần Marketing
có chuyên môn giỏi chắc chắn sẽ đẩy mạnh hoạt động toàn Ngân hàng nói chung
mở rộng doanh số cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp.
*Tăng số lượng CBCNV
Hiện này Ngân hàng có quá ít cán bộ tín dụng đặc biệt là cán bộ phụ trách
cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Chỉ với số lượng như vậy Ngân hàng
khó lòng đảm bảo một doanh số cho vay lớn vì họ không thể một mình thực hiện
và quản lý cho vay nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đòi hỏi lãnh
đạo Ngân hàng phải làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ đồng thời bồi dưỡng
nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ đủ năng lực và quyết đoán trong nghề nghiệp.
*Không ngừng chú trọng tới các mối quan hệ giữa các hoạt động của
Ngân hàng.
Như mối quan hệ của tín dụng với thanh toán, mối quan hệ giữa các hình
thức cho vay. Chúng luôn tác động tới nhau tích cự hoặc tiêu cực. Nếu các nghiệp
vụ về thanh toán, được thực hiện tốt sẽ dẫn tới hoạt động tín dụng cũng thực hiện
tốt hoặc nếu cho vay bằng tín chấp hoặc cầm cố thuận lợi thì hoạt động cho vay có
bảo đảm bằng tài sản thế chấp cũng có xu hướng phát triển bởi đứng trên góc độ
của khách hàng, Ngân hàng phải là tổng thể các hoạt động. Điều tất yếu Ngân hàng
phải tự mình cải tiến phương tiện làm việc và nâng cao chất lượng mọi mặt, mọi
nghiệp vụ của Ngân hàng. hiện nay mọi quan hệ giữa nghiệp vụ tín dụng và thanh
toán còn có sự chênh nhau lớn cả về doanh số và hiệu quả làm cho Ngân hàng mất
cân đổi giữa các Ngân hàng mất cân đổi giữa các nghiệp vụ.
Yếu tố cạnh tranh giữa các Ngân hàng hay với bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng vô cùng quan trọng. Trong hoàn cảnh hiện nay khó mà cạnh tranh bằng các

bước đột phá trong công nghệ Ngân hàng mà Ngân hàng cần phải nâng cao uy tín
bằng các nhân tố cơ bản nhất như thái độ nhân viên, cùng cách phục vụ, chất lượng
dịch vụ. Nhân viên tín dụng cần nhiệt tình hơn nữa trong quá trình tham gia thẩm
định khách hàng, phối hợp cùng khách hàng xử lý vướng mắc của doanh nghiệp.
Quy mô vốn cũng là yếu tổ giúp nâng cao uy tín. Vốn của Ngân hàng chưa phải là
lớn do với các Ngân hàng khác. Vì vậy Ngân hàng nên lựa chọn biện pháp nào đó
thuận lợi nhất nhằm tăng vốn với cơ cấu hợp lý.
*Ngân hàng cần trao cho cán bộ quyền tự quyết cao hơn nữa.
Về việc trao cho cán bộ quyền tự quyết cao hơn điều này không chỉ tạo cho
cán bộ tâm lý thoải mái mà còn giúp cán bộ có trách nhiệm hơn với công việc.
Quyền tự quyết thể hiện bằng quyền quyết định doanh số cho vay tài sản thế chấp
và các điều khoản khác phù hợp với quy định. Hiện nay thậm chí các khoản cho
vay lớn Ngân hàng còn phải thông qua trung tâm điều hành chứ chưa nói là cán bộ
tín dụng.
2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
*Nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định khách hàng
Trước mặt để có món vay có hiệu quả Ngân hàng cần đánh giá các yêu tố về
khách hàng một cách chính xác. Giải pháp này chủ yếu chủ trọng vào nhân tố con
người có nghĩa là Ngân hàng cần bồi dưỡng cho được các cán bộ có trình độ và sự
nhảy cảm nghề nghiệp. Tuy Ngân hàng cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp
chưa gặp một “sự cố” nào song nó không đồng nghĩa với việc Ngân hàng sẽ không
gặp những khách hàng không có năng lực hoặc thiếu đạo đức. Khi đó rủi ro với
Ngân hàng rất lớn, dù có tài sản thế chấp cũng không thể bù đáp hết được.
*Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp vay vốn.
Việc kiểm tra một cách thường xuyên giúp Ngân hàng đảm bảo bằng doanh
nghiệp sử dụng vốn đúng theo mục đích trong hợp đồng, giúp Ngân hàng sớm
nhận ra những khó khăn của doanh nghiệp để phối hợp giải quyết. đối với tài sản
thế chấp Ngân hàng cần tích cực hơn nữa trong việc kiểm tra lại tài sản đề phòng
khách hàng sử dụng tài sản đã thế chấp trái luật định. Ngân hàng cũng có thể thực
hiện việc kiểm tra chéo giữa các cán bộ tín dụng. Như vậy để sớm phát hiện ra các

sai sót sửa chữa kịp thời.
*Tập trung giải quyết nợ quá hạn:
Đối với nợ quá hạn có tài sản thế chấp, có đẩy đủ giấy tờ hợp lệ do Ngân
hàng giữ mà nguyên nhân là do khách quan, Ngân hàng có thể đồng ý cho giảm nợ
hoặc gia hạn nợ. Gia hạn nợ sẽ giảm bất gánh nặng cho doanh nghiệp, tạo điều
kiện để Ngân hàng thu nợ sau này. Nếu nguyên nhân do chủ quan Ngân hàng cần
chủ ý đến các biện pháp xử lý tài sản thế chấp sao cho có lợi cho cả hai bên. trong
thời gian qua hoạt động Ngân hàng chưa từng xử lý tài sản thế chấp nào song cũng
cần có các biện pháp đề phòng đặc biệt là xử lý với các tài sản chưa đủ giấy tờ
hoặc có liên quan đến các vụ án dân sự khác. Đây là bài học từ rất nhiều Ngân
hàng.
*Thiết lập chế độ tài chính phù hợp giải quyết các chi phí phát sinh trong
công tác cho vay có baỏ đảm bằng tài sản thế chấp.
Các chi phí phát sinh trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế
chấp gồm rất nhiều khoản ngoài chi phí thẩm định đánh gía do khách hàng chịu
còn có các chi phí do cán bộ quản lý tài sản đó, chi phí phát sinh khi xử lý tài sản
nếu có với toà án. Ngân hàng chưa có một quy định rõ ràng về hoạch toán các
khoản chi phí này.
*Phân định rõ ràng trách nhiệm của cán bộ tín dụng đối với tài sản thế
chấp.
Nếu khoản vay gặp sự cố chủ quan gây ra nhờ định giá tài sản thế chấp
không đúng hoặc cao hơn giá trị thực tế, tài sản thế chấp không đủ căn cứ pháp lý
hoặc khoản cho vay vượt quá tỷ lệ qui định tính trên giá trị tài sản thì trước hết
người phạm lỗi phải chịu trách nhiệm. Trường hợp ngược lại do khách quan, Ngân
hàng nên hoạch toán vào kết quả kinh doanh coi đó là những rủi ro trong kinh
doanh tín dụng tránh hình sự hoá quan hệ tín dụng.
*Phải coi bộ phận thế chấp là một bộ phận cấu thành nguyên tắc tín dụng.
Đây cũng là chủ trương của Ngân hàng Nhà nước, nó tạo ra sự bình đẳng
giữa Ngân hàng và khách hàng. Trước đây Ngân hàng chỉ coi thế chấp là một bộ
phần của nguyên tắc có vật tư đảm bảo mà không trở thành một nguyên tắc độc lập

*Hạn chế phát sinh nợ quá hạn mới:
Đây là biện pháp phòng ngừa xa. Ngân hàng cần chủ ý để không tiếp tục đầu
tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà sản phẩm làm ra đã có dấu hiệu bão
hoà. Ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án lớn, có vốn đầu tư nước ngoài, có kỹ
thuật hiện đại.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
1. Đối với Nhà nước và cơ quan pháp luật
1.1.Nhà nước nhanh chóng chấn chỉnh và đồng bộ hoá các bộ luật văn bản
luật về thế chấp và phát mại tài sản...
Về sự hạn chế của pháp lý trong vấn đề thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế
chấp để thu hồi vốn là do các điều khoản luật ban hành cần phải chận chỉnh sửa
cho phù hợp với tình hình nền kinh tế chuyển dịch theo cơ chế thị trường. Mặt
khác, các văn bản luật đã ra không còn chưa đồng bộ và còn thiếu. Nên thời gian
vừa qua không riêng gì việc thu hồi nợ quá hạn mà khách hàng không trả được
phải xử lý bằng hình thức phát mại tài sản tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt mà
cả Ngân hàng thương mại khác cũng xảy ra hiẹn tượng khó khăn, phức tạp tương
tự.
Trước hết về tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất. Luật đất đai hiện nay
không công nhận quyền sở hữu đất của cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế
nhưng Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, các cá nhân, tố
chức kinh tế đã được giao đất có quyền chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng
đất.
Mặt khác, một số tổ chức trong Nhà nước cho thuê đất có quyền thế chấp giá
trị quyền sử dụng đất gắn liện với tài sản thuộc sở hữu của minh nên khu đất đó để
vay vốn Ngân hàng. từ đó chúng ta thấy có hai khái niệm về quyền sử dụng đất và
giá trị quyền sử dụng đất chứa đựng các nội dung khác nhau. Khái niệm quyền sử
dụng đất áp dụng cho các hộ gia đình, cá nhân khi có quyền sử dụng đất thì họ có
quyền định đoạt chuyển đổi, chuyền nhượng, cho thuê và thuế chấp. Và vì vậy
đương nhiên Nhà nước công nhận sự tồn tại của thị trường mua bán quyền sử dụng
đất áp dụng cho các tổ chức kinh tế được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất. Các

điều luật về đất đai không cho phép các tổ chức kinh tế có quyền chuyển nhượng
giá trị quyền sử dụng đất mà chỉ có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn
liện với các công trình xây dựng.
Chính vì thế, đã từ lâu việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ là phức tạp
do phải thực hiện hàng loạt các thủ tục hành chính. Mặc dù ngay từ năm 1997,
Chính phủ đã có Nghị định 86/CP quy định về việc bán đấu giá tài sản thế chấp,
phát mại tài sản theo chương trình tự phi tố tụng, đây là bước đột phá lớn đối với
hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Tuy vậy, quy chế này áp dụng vào thực tế
có nhiều bất cập. Mặc dù quy chế cho phép Ngân hàng bán đấu giá tài sản thế chấp
mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của người vay, song lại quy định sau khi
người mua tài sản đã trao đủ tiền thì Ngân hàng phải trao ngay các tài sản đó. Như
vậy, trên thực tế việc trao đổi ngay là rất khó mà con nợ không tự giác giao tài sản
cho họ trong khi chưa có quy định về vấn đề này. Do đó, không người mua nào
chấp nhận giao tiền rồi mà lại phải chờ đời không biết đến khi nào mới nhận được
tài sản.
Hơn nữa, việc phát mại tài sản thế chấp bằng quyền sủ dụng đất hiện nay có
quy định việc bán đấu giá quyền sử dụng đất thì hợp đồng uỷ quyền bán đấu gía tài
sản được ký kết khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép bán đấu giá. Để
thực hiện được điều này, cả bên thế chấp (khách hàng) và bên nhận thế chấp (Ngân
hàng) phải có đơn xin phép bán đấu giá, song lại chưa có quy định cụ thể, cơ quan
nào cấp giấy phép, nên trên thực tế các Ngân hàng, thực hiện vẫn không thực hiện
được mặc dù là thủ tục “phi tố tụng”.
Vì vậy để các Ngân hàng có cơ sở và điều kiện thuận lợi trong việc phát mại
tài sản thế chấp, cưỡng chế thu được nợ, để có sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ giữa
các ngành chức năng có liên quan trong một cơ chế thống nhất tránh sự rủi ro thiếu
mất vốn...thì Nhà nước nên sớm chân chỉnh và đồng bộ hoá luật định về thế chấp
tài sản và xử lý tài sản thế chấp sao cho các văn bản luật được rõ ràng, đầy đủ, từ
đó các bên hữu trách có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và đảm bảo được quyền lợi
của mình. Bởi biện pháp thế chấp tài sản đảm bảo nợ vay thành pháp định có hiệu
lực và mang tính cưỡng chế của pháp luật sẽ tạo thêm sự an tâm cho các Ngân

hàng khi vay tiền.
1.2.Cần có chính sách ưu tiên cho việc xử lý tài sản thế chấp.
Như chúng ta đã biết hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại
là huy động vốn để cho vay vào các mục tiêu, chủ yếu là sản xuất kinh doanh. Cơ
sở cho vay là hiệu quả các phương án kinh tế, hợp đồng tín dụng và tài sản thế
chấp. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cùng với sự tự do hoá các yếu tố

×