THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNGVÀ CÔNG TÁC QUẢN
LÍ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM
1. NGUYÊN NHÂN CỦA RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Ở nước ta, trong số tất cả các loại rủi ro của hoạt động ngân hàng thì rủi ro
trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đang diễn ra ở
mức độ đáng quan tâm.
Thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam phân tích theo nguyên nhân hình
thành, bao gồm các loại sau:
1.1 Rủi ro đạo đức:
1.1.1 Gian lận cổ phiếu:
Đây là một loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng đã xẩy ra không phải hiếm
ở nước ta. Nhưng rủi ro này liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng bởi cổ phiếu
khống, cổ phiếu định giá quá cao, giao dịch mua bán giả tạo, sử dụng cổ phiếu để
thế chấp vay vốn của chính ngân hàng, hoặc làm vốn điều lệ ngân hàng tăng lên
một cách giả tạo trên cơ sở đó tạo nguồn vốn để cho vay, hay áp dụng giới hạn tối
đa vốn cho vay một khách hàng. Trường hợp này đã từng xảy ra phổ biến ở nhiều
ngân hàng thương mại cổ phần. Tiêu biểu như xảy ra tại VP bank, Ngân hàng
TMCP Vũng Tàu, Ngân hàng TMCP Gia Định...
1.1.2 Vi phạm các quy chế liên quan đến ngân hàng để mưu lợi cá nhân, cố ý làm
trái quy trình tín dụng, thể lệ tín dụng xẩy ra phổ biến tại các ngân hàng thương
mại.
1.1.3 Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ ,nhờ người vay hộ, vay tiền ngân
hàng chuyển cho công ty TNHH của gia đình, xẩy ra tại ngân hàng TMCP Nam
Đô, Việt Hoa và nhiều NHTM khác.
1.1.4 Cán bộ tín dụng trực tiếp thu nợ gốc, nợ lãi không nộp, xâm phạm tiêu dùng
cho cá nhân: NHNo &PTNT Ninh Bình, Nam Định, Nam Hà, Thái Bình...
1.1.5 Tẩy xoá, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền với sự thông đồng
của nhân viên ngân hàng với bên ngoài. Loại rủi ro này đã xảy ra tại chi nhánh
NHCT Ba Đình... Một số người cấu kết và thông đồng với nhau lập khống các
cuốn sổ tiết kiệm. Bằng cách này, một số cán bộ chi nhánh NHĐT&PT Ba
Đồn(Quảng Bình) thông đồng với nhau, giả mạo sổ sách, chứng từ, rút 675 triệu
đồng của ngân hàng.
1.1.6 Cán bộ ngân hàng thông đồng với khách hàng làm trái, làm giả tài sản thế
chấp, giả mạo trong hồ sơ vay vốn ,hồ sơ thế chấp tai sản, chứng từ thanh toán...
rút tiền ngân hàng hay làm thất thoát tiền ngân hàng. Vụ án Epco Minh Phụng,
Tamexco, Thuận Hưng... Bị thất thoát tới hàng nghìn tỉ đồng là điển hình về rủi ro
đạo đức trong hoạt động ngân hàng, tập trung là tín dụng.
1.1.7 Các hành vi khác thông đồng với khách hàng để lừa đảo chiếm đoạt tiền
ngân hàng, hoặc trực tiếp lâý tiền quỹ ngân hàng bỏ trốn.
1.1.8 Ăn cắp qua vi tính: Loại rủi ro này không phải hiếm trên thế giới, với khối
lượng tiền bị ăn cắp rất lớn, nhưng cũng đã bắt đầu xẩy ra ở nước ta. Tiêu biểu là
trong năm 2001 tại chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Thủ Thừa – Long An,
người ta đã phát hiện ra kế toán trưởng chi nhánh ngân hàng này đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn và sự tín nhiệm của lãnh đạo, thực hiện thủ đoạn lập chứng từ khống
trên máy vi tính để tham ô 315.098.351 đồng. Thủ đoạn này được thực hiện từ
năm 1998 cho đến khi bị phát hiện.
1.2 Rủi ro chính sách:
1.2.1 Chính sách thuế, quy định về đất đai, nhà ở... làm đóng băng thị trường bất
động sản, kéo theo nợ đọng vốn vay ngân hàng.
1.2.2 Chính sách xuất nhập khẩu:
Chính phủ đột ngột thay đổi một số chính sách kinh doanh xuất nhập khẩu
mà trước đó ngân hàng đã cho doanh nghiệp vay. Chẳng hạn như ngân hàng cho
các doanh nghiệp vay vốn để thu mua lúa gạo xuất khẩu, khai thác và chế biến gỗ
xuất khẩu... nhưng sau đó, Chính phủ đột ngột có quyết định tạm dừng việc xuất
khẩu gạo, cấm xuất khẩu gỗ... làm cho hàng hoá bị tồn đọng ,vốn ngân hàng cũng
bị khê đọng theo. Tương tự, khi một chính sách bị thay đổi đột ngột, như tăng thuế
xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà trước đó ngân hàng đã mở LC bảo lãnh xuất
nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, nay do thuế tăng việc kinh
doanh bị thua lỗ, khách hàng không trả được nợ, ngân hàng cũng bị rủi ro theo.
Ngân hàng cho vay vốn làm hàng và thu mua hàng xuất khẩu sau đó chính
phủ cho dừng, cấm xuất khẩu. Ví dụ như: Xuất khẩu gỗ sơ chế xẩy ra năm 1995...
Bộ thương mại cấp giấy phép cho nhập khẩu vật tư hàng hoá trong nước
sản xuất được, gây ứ đọng, khó tiêu thụ, doanh nghiệp thua lỗ: đường, xi măng...
Nhập khẩu thiết bị cũ, lạc hậu, giá nhập khẩu cao, giá thành sản phẩm và
giá bán quá cao, không tiêu thụ được hoặc bán dưới giá thành, dẫn đến kinh doanh
thua lỗ, không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.
1.2.3 Kế hoạch, qui hoạch, dự báo thiếu khoa học, không chính xác, chủ quan duy
ý chí, có phạm vi ở các bộ, nghành Trung ương, có phạm vi do cấp tỉnh, thành phố.
Các quy hoạch, dự báo, định hướng chiến lược không phù hợp ... Sản phẩm mía
đường, bia, xi măng đều được tiến hành theo qui hoạch, xây dựng chiến lược và dự
báo của các bộ nghanh, bộ Kế Hoạch và Đầu tư ... Các dự án đầu tư đều được cấp
có thẩm quyền phê duyệt. Khi thực thi các khâu đó, đều tính toán trên cơ sở nhu
cầu sử dụng bình quân đầu người của Việt Nam so với các nước trong khu vực và
thế giới, dự báo sức tiêu thụ của thị trường nội địa... Song thực tế là chưa thực hiện
xong các chương trình, sản lượng sản xuất ra cung đã vượt quá cầu. Nên phát sinh
ra nhiều trường hợp: khó tiêu thụ, giá bán hạ.... Ngân hàng kiến nghị ngừng đầu tư
nhưng các địa phương đã hoàn chỉnh dự án cứ chaỵ hết các cấp nghành xin phê
duyệt và thúc ép ngân hàng cho vay, bảo lãnh. Rủi ro cuối cùng lại dồn lên vai
ngân hàng.
Tài sản nhà đất nằm trong qui hoạch. Khi thẩm định cho vay thì điều đó
chưa xảy ra, đến khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng phát mại, hoặc là
khi đó mới phát hiện ra, hoặc là khi đó mới có qui hoạch chính thức nên bán không
ai mua hoặc nhận đền bù với mức thấp. Trường hợp này gặp nhiều đối với các chi
nhánh NHTM tỉnh Thái Bình.
1.2.4 Chính sách cho vay chỉ định cuả nhà nước:
- Tôn nền nhà và làm nền nhà trên cọc ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Khắc phục hậu quả các cơn bão, hạn hán.
- Cho vay vốn đánh bắt xa bờ.
- Các rủi ro khác về chính sách
1.3 Rủi ro từ thực thi chức năng ,nhiệm vụ của cơ quan nhà nước:
1.3.1 Quản lý doanh nghiệp lỏng lẻo:
Ở TPHCM và một số nơi khác, cấp phép thành lập doanh nghiệp nhưng
không kiểm tra, một ngày cấp phép vài công ty TNHH cùng địa chỉ, doanh nghiệp
mất tích, làm trái chức năng, không đủ năng lực tài chính, không có vốn thực tế.
1.3.2 Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật, xảy ra tiêu biểu ở Vũng Tàu,
TPHCM và một số nơi khác.
1.3.3 Hình sự hoá các quan hệ kinh tế, quy trách nhiệm hình sự cho người
vay,người vay mượn cớ đó cố tình ỷ lại, trây ì, không trả nợ cho ngân hàng.
1.3.4 Xác định không đúng tư cách người vay, tập trung là UBND xã, phường.
Cơ quan chức năng xác nhận mất bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
đất, sau đó cấp bản sao, người vay cầm bản chính thế chấp ngân hàng này, dùng
bản sao thế chấp ngân hàng khác. Thí dụ xảy ra tại công ty TNHH Bảo Châu –
quận 11 TPHCM, vay vốn NHCT quận 4 và NHTMCP Vũng Tàu năm 1996 .
1.3.5 Cơ quan thi hành án hữu khuynh, hoặc thông đồng với người thi hành án,
không chịu thi hành án hoặc kéo dài thời hạn thi hành án, cố tình trây ỳ.
1.3.6 Trung tâm bán đấu giá tài sản thế chấp có tiêu cực, làm cho việc đấu giá tài
sản bị kéo dài, giá bán thấp, tiền thu được thấp hơn khoản cho vay.
1.4 Rủi ro thị trường của ngân hàng :
Biêu hiện tập trung là thị trường diễn biến bất thường ngoài dự kiến. Khi
định giá tài sản thế chấp để cho vay thì giá thị trường xuống chỉ còn 1/3 giá lúc
đầu. Thậm chí tài sản thế chấp bị mất giá rất lớn. Khi ngân hàng thẩm định cho vay
mà tập trung là nhà đất đang là giá cao, sau đó giá giảm mạnh, có khi giảm 3 - 4
lần,khách hàng không trả được nợ, ngân hàng xiết nợ nhưng không bán được vì giá
quá thấp so với khi định giá cho vay, hoặc là không có người mua, hoặc là tiền thu
về thấp hơn nhiều so với tiền cho vay. Ở Thanh Hoá có nhiều trường hợp, khi giá
nhà giảm quá thấp, người vay vốn chủ động mời ngân hàng đến nhận nhà thế chấp.
2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG Ở CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chính bởi những nguyên nhân trên mà rủi ro tín dụng đang tích tụ lại trong
các ngân hàng Việt Nam không phải là nhỏ. Biểu hiện lớn nhất của ruỉ ro tín dụng
là tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao. Ở các nước, nợ quá hạn được gọi chung là nợ
xấu, khi tỉ lệ này lên tới 5% tổng dư nợ được coi là báo động. Ở nước ta thường
được gọi là nợ quá hạn, trong đó còn được phân chia thành: nợ khê đọng, nợ khó
đòi... với khoảng thời gian quá hạn là trên 360 ngày, trên 180 ngày và trên 90 ngày.
Theo báo cáo của NHNN, năm 1999 tỉ lệ nợ quá hạn của các NHTM là
khoảng 13.6%, trong đó khối lượng tài sản thế chấp của các khoảng nợ đọng phải
xử lý là hơn 7000 tỷ đồng.
Mặc dù có những chấn chỉnh nhất định trong lĩnh vực tín dụng vào năm
1999, vào năm 2000 nợ quá hạn vẫn ở trên 14.5 % tổng dư nợ, tài sản cầm cố thế
chấp đóng băng lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có
37% làm ăn có hiêụ quả nhưng lại tiếp nhận 75% dư nợ tín dụng, rong khi đó chỉ
có 25% chảy vào khu vực tư nhân mà lí do chủ yếu là không đủ điều kiện về tài
sản cầm cố thế chấp.
Năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức 11.7% giảm hơn nhiều so với năm1999,
2000. Song, tổng số vốn bị nợ quá hạn tăng lên, bên cạnh đó xuất hiện một loạt các
khoản nợ khoanh mới không thể hiện trong tỷ lệ nợ quá hạn, xuất hiện các khoản
dư nợ được điều chỉnh kỳ hạn, được giãn nợ... cũng còn nằm ngoài tỷ lệ nợ quá
hạn. Các khoản nợ này tập trung ở vùng lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long, ở vùng
miền Trung; tập trung ở các doanh nghiệp xuất khầu gạo, thu mua và xuất khẩu cà
phê. S ố tài sản thế chấp của các khoản nợ đóng băng ngày càng xuống cấp, mất
giá, khó xử lý.
Hâù hết các khoản nợ quá hạn tồn đọng tại các NHTM hiện nay là những
khoản nợ khó đòi phát sinh từ những năm 1995 trở về trước, chưa được cấp có
thẩm quyền xử lý đúng mức, mặc dù Chính Phủ và nghành Ngân hàng đã có chủ
chương hỗ trợ các NHTM giải quyết các tồn đọng để làm trong sạch hoạt động tín
dụng ngân hàng. Có thể nói áp lực của xã hội đang đòi hỏi nghành ngân hàng
nhanh chóng khắc phục, xử lý nhanh để giảm thấp số nợ quá hạn. Tuy nhiên trong
cơ chế hiện nay thì đây là một vấn đề khá phức tạp, nan giải không thể ngày một,
ngày hai là có thể xử lý dứt điểm được và cũng không thể nội thân ngành ngân
hàng có đủ khả năng xử lý trong các trường hợp sau:
+ Đối với khoản nợ quá hạn cũ từ những năm trước của những doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp kinh tế Đảng, tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế tập
thể do cơ chế hiện nay tự giải tán, hiện vẫn còn treo nợ tại ngân hàng chậm được
cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý triệt để nhằm giúp ngân hàng nhanh chóng giảm
thấp số nợ trên để tiếp tục tái tạo nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh .
+ Đối với các khoản nợ cho vay thanh tóan công nợ của ngân hàng để các
doanh nghiệp thanh toán công nợ trong trong tổng kê khai công nợ toàn quốc, đến
nay thực chất đã quá hạn khoảng trên 50 tỷ đồng, có doanh nghiệp hiện nay không
còn hoạt động nhưng vẫn chưa có chủ trương của cấp có thẩm quyền cho biện pháp
xử lý dứt điểm.
+ Đối với khoản nợ được Chính phủ cho khoanh theo các thông tư liên bộ
11/TT-LB, 03/TT-LB khoảng 339,7tỷ đồng đến nay phần lớn đã quá thời hạn ,hầu
hết các doanh nghiệp có nợ đều rơi vào tình trạng phá sản, tự giải tán, giải thể
không có khả năng trả nợ, nhưng cũng chưa được các cấp, các nghành liên quan
cho phép xử lý.