Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.99 KB, 34 trang )

MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC CỦA TRUNG
QUỐC
2.1.1. Khái niệm và vai trò của tập đoàn kinh tế đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất giữa các quốc gia về TĐKT.
Tuỳ theo điều kiện, trình độ phát triển kinh tế, môi trường xã hội và hệ thống luật
pháp, TĐKT cũng khác nhau về hình thức tổ chức, cũng như trình độ và cấp độ
liên kết nội bộ. Tuy nhiên tựu chung lại, có thể định nghĩa TĐKT như sau: Đó là tổ
hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một ngành hay
những ngành khác nhau, có quan hệ với nhau về vốn, tài chính, công nghệ, thông
tin, đào tạo, nghiên cứu và liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp
tham gia liên kết, trong đó thường có một “công ty mẹ”nắm quyền lãnh đạo, chi
phối hoạt động của “công ty con” về tài chính và chiến lược phát triển .
Thực tế cho thấy TĐKT đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế
của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Vai trò đó được thể
hiện trên các mặt sau:
- Sự hình thành và phát triển của các TĐKT làm tăng khả năng kinh tế của
cả tập đoàn và các công ty thành viên, nó cho phép các nhà quản lý kinh doanh huy
động được tất cả các nguồn lực trong xã hội để phục vụ việc phát triển kinh tế, việc
tập trung các công ty vào trong một đầu mối làm cho họ có điều kiện thuận lợi khi
cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài.
- Đối với các nền kinh tế mới phát triển, nền công nghiệp trong nước còn
manh mún thì các TĐKT là một biện pháp hữu hiệu để chống sự thâm nhập một
cách ồ ạt của các công ty khổng lồ trên thế giới và giúp cho sản xuất trong nước có
thể đứng vững và từng bước vươn ra được các thị trường khu vực và thế giới.
- Các TĐKT sẽ khắc phục được khả năng hạn chế về vốn của từng công ty
riêng lẻ, việc các tập đoàn có công ty tài chính sẽ cho phép thống nhất trong tích tụ
và tập trung vốn; khi có nguồn vốn lớn các tập đoàn sẽ đầu tư vào các dự án có
hiệu quả cao nhất, từ đó sẽ góp phần tăng nguồn thu và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
- TĐKT có tác dụng rất lớn trong việc cung cấp trao đổi thông tin và những


kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ
vào sản xuất. Sự hợp tác về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong tập
đoàn còn cho phép các công ty thành viên có khả năng nhanh chóng đưa các kết
quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn, nâng cao hiệu quả của
hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn nhanh. Nhờ đó các tập đoàn giảm
được hao mòn vô hình, sự thống nhất trong việc nhập các thiết bị sẽ tránh trùng lắp
và có thể chỉ cần một số loại thiết bị trong một dây chuyền, giảm chi phí và tránh
bị ép giá. Sự thống nhất trong tập đoàn sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công
nghệ ra nước ngoài cũng như việc thay đổi cơ cấu sản xuất một cách hợp lý. Nó là
cầu nối để tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học trên thế giới, làm thu hẹp
khoảng cách về trình độ giữa các nước chậm phát triển, thúc đẩy công nghiệp hoá
và hiện đại hoá các nền kinh tế.
- Việc hình thành các TĐKT sẽ làm thay đổi bộ mặt xã hội cho từng địa
phương hay một quốc gia, nó giải quyết được việc làm cho một phần dân cư tại
khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề, thúc
đẩy phát triển các đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp và làm tăng khả năng lớn
mạnh của nền kinh tế.
2.1.2. Quan điểm của chính phủ Trung Quốc về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế.
Tập đoàn kinh tế Trung Quốc theo quan điểm của Trung Quốc là: Tổ chức
kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, nó đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá
xã hội chủ nghĩa và của nền sản xuất xã hội hoá. Doanh nghiệp nòng cốt của nó là
nòng cốt của tập đoàn, là thực thể kinh tế có tư cách pháp nhân, tự chủ kinh doanh,
hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh. Bằng các hình
thức nắm giữ cổ phần khống chế, tham gia cổ phần, hiệp tác, doanh nghiệp nòng
cốt gắn bó với một loạt doanh nghiệp ở mức độ chặt chẽ nửa chặt chẽ và liên kết
lỏng lẻo. Những doanh nghiệp này đều có tư cách pháp nhân độc lập. Như vậy quan
điểm của các nhà lãnh đạo và các doanh nghiệp Trung Quốc về TĐKT là nhất quán
và tương đối đồng nhất với quan điểm chung trên thế giới.
Năm 1978, khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện cải cách DNNN đồng chí
Đặng Tiểu Bình đã vạch ra rằng: “ Thành lập tập đoàn kinh tế thì sẽ tạo ra được

sức mạnh, thông tin thông suốt, nhanh nhạy hơn”. Muốn nâng cao tố chất chỉnh thể
của DNNN thì không những phải cải cách từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà còn phải
căn cứ vào yêu cầu xã hội hoá, để liên hiệp các doanh nghiệp lại với nhau, lập ra
các tập đoàn kinh tế, tạo ra cơ cấu tổ chức tốt hơn giữa các doanh nghiệp. Nếu nói
rằng kinh doanh theo chiều sâu mà chủ yếu là nâng cao trình độ kinh doanh trong
nội bộ doanh nghiệp thì liên kết các doanh nghiệp lại với nhau, đặc biệt là thành
lập ra các tập đoàn kinh tế là nâng cao trình độ tổ chức lực lượng sản xuất trong
phạm vi xã hội. Chỉ có phát triển theo hướng tập đoàn hoá thì các DNNN mới thực
sự trở thành vật tải lực lượng sản xuất hiện đại, mới trở thành chủ thể thứ nhất của
nền kinh tế thị trường, mới có thể triệt để phát huy được lợi thế của mình.
Trung Quốc cho rằng đổi mới về thể chế tổ chức doanh nghiệp, hình thành
nên các TĐKT có thể khắc phục được các bất cập của thị trường trong quá trình
chuyển đổi kinh tế, do quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc vẫn
đang tiếp tục, nên các chức năng của thị trường vẫn còn yếu kém và đôi khi phải
chịu nhiều phí tổn. Bằng việc hình thành các tập đoàn kinh tế, mỗi doanh nghiệp
thành viên có thể tận dụng các thông tin tốt hơn, có khả năng đối phó với những rủi
ro đi kèm với cơ cấu thị trường chưa phát triển và có khả năng tiếp cận với các
khoản tín dụng mà bình thường phải rất tốn kém hoặc không thể có được. Điều
quan trọng hơn là việc thành lập các tập đoàn kinh tế có thể tạo điều kiện cho quá
trình cải cách DNNN khi việc tư nhân hoá hàng loạt không phải là giải pháp được
lựa chọn. Đồng thời các tập đoàn có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Trung Quốc so với các tập đoàn đa quốc gia khi tham gia vào tổ
chức thương mại thế giới (WTO).
Nền kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, với sự
hoạt động của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó thành phần kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Muốn làm được điều này phải có các doanh nghiệp nhà
nước thực sự lớn mạnh, hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế thay thế cho hình
thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả đã tồn tại trong một thời gian
dài. Do vậy cần phải xây dựng các tập đoàn kinh tế theo hướng đa sở hữu trong đó
sở hữu nhà nước chiếm tỷ trọng lớn.

Việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế là một vấn đề lớn ảnh hưởng
đến trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…do vậy Trung Quốc
chủ trương tiến hành thực hiện từng bước. Nhà nước sẽ tiến hành thử nghiệm nhằm
xác định được mô hình quản lý hiệu quả đồng thời áp dụng và điều chỉnh linh hoạt
các chính sách qua từng thời kỳ nhằm tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế phát
triển.
2.1.3. Những đặc điểm của tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc.
* Đặc điểm về cơ cấu tổ chức.
Đặc điểm đầu tiên và nổi bật nhất thể hiện ở chỗ các TĐKT ở Trung Quốc là
những cụm doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ đan xen giữa các doanh nghiệp
thành viên trong đó lấy chế độ công hữu về TLSX làm chủ thể. Các doanh nghiệp
nòng cốt, các doanh nghiệp ở cấp độ trực tiếp của tuyệt đại đa số các TĐKT lấy
chế độ sở hữu toàn dân hoặc sở hữu tập thể về TLSX làm chủ thể, không giống
như các TĐKT ở các nước tư bản lấy chế độ sở hữu tư nhân làm chủ thể.
Đặc điểm thứ hai, là các tập đoàn được tổ chức trên cơ sở tự nguyện , cùng
có lợi, cùng phát triển, không phải theo phương thức “cá lớn nuốt cá bé” của các
nước tư bản.
Các TĐKT Trung Quốc ra đời trong điều kiện một mặt là, giữa các doanh
nghiệp có sự thống nhất về lợi ích căn bản, mặt khác trên thực tế thì tài sản của các
DNNN là tài sản của các doanh nghiệp thuộc chính quyền địa phương, thuộc các
ngành, cho nên giữa các doanh nghiệp ấy có sự khác nhau về lợi ích. Do vậy, các
doanh nghiệp Trung Quốc liên hiệp với nhau trên cở sở được các chính quyền các
cấp và các ngành hướng dẫn bằng chính sách, chỉ đạo theo quy hoạch, bắc cầu, tổ
chức phối hợp , tự nguyện liên kết, cùng có lợi, cùng phát triển, đồng thời thông
qua các hình thức thôn tính, sát nhập, mua cổ phiếu, thầu, thuê để giao dịch,
chuyển nhượng có bồi hoàn về quyền sử dụng doanh nghiệp hoặc quyền kinh
doanh. Ở Trung Quốc việc thôn tính, sáp nhập, thầu, thuê doanh nghiệp và mô hình
cổ phần khác một cách căn bản ở các nước tư bản ở chỗ đông đảo công nhân viên
chức ở các doanh nghiệp bị thầu, thuê, bị nắm giữ cổ phần khống chế vẫn là chủ
nhân của doanh nghiệp, chẳng những quyền lợi của họ được pháp luật bảo vệ,

được bố trí sắp xếp thích đáng trong phạm vi tập đoàn mà còn được nhiều thực lợi
hơn, như những sự đãi ngộ về tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi, bảo hộ lao động…
dần được nâng cao.
Đặc điểm thứ ba, là mục đích của việc thành lập TĐKT của nhà nước, của
các đơn vị thành viên và của công nhân, viên chức về cơ bản là thống nhất với
nhau. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của chế độ XHCN ở Trung Quốc. Chính
quyền các cấp căn cứ vào đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế để hướng
dẫn các DNNN tăng cường liên kết, hợp tác, lấy dài bù ngắn, bổ sung lợi thế cho
nhau, phát huy tốt hơn nữa tác dụng của các yếu tố lực lượng sản xuất, nâng cao
hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống công nhân viên chức. Chính quyền các cấp là
người đại biểu cho quyền sở hữu tài sản tại các doanh nghiệp có vai trò quan trọng
trong việc giao dịch quyền sử dụng tài sản trên thị trường quyền sử dụng tài sản.
Một là, căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế và xã hội để định ra chính sách
ngành nghề, hướng dẫn việc lưu động và phân phối hợp lý tài nguyên, thúc đẩy
việc tổ chức lại các yếu tố sản xuất một cách hợp lý. Hai là, căn cứ vào nguyên tắc
xác định quyền tài sản để định ra quy tắc quản lý thị trường, cung cấp các dịch vụ
pháp luật, công chức quản lý hành chính, bảo đảm cho giao dịch diễn ra bình
thường. Ba là, cung cấp thông tin, thúc đẩy hạ giá thành giao dịch, thúc đẩy giao
dịch có kết quả, giúp cho việc nâng cao hiệu qủa và ngạch giao dịch. Bốn là, khi
cần thiết thì dùng các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế để điều tiết giao
dịch quyền sử dụng tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, ngăn chặn các hành vi làm
tổn hại đến lợi ích của nhà nước.
* Đặc điểm về mô hình tổ chức.
Hình thức thứ nhất, là TĐKT tổng hợp nhiều cấp: Đây là loại TĐKT nắm
trong tay nhiều lĩnh vực: khoa học công nghệ, thương mại, tài chính, dịch vụ và lấy
vốn làm nút liên kết chủ yếu. Chúng được tổ chức thành 4 cấp, thực hiện nhất thể
hoá kinh doanh bằng cách thôn tính, sáp nhập, xoá bỏ tư cách pháp nhân của các
doanh nghiệp cũ “lập ra TĐKT trong đó công ty có tư cách pháp nhân làm nòng
cốt (tức là công ty mẹ) bằng cách nắm giữ cổ phần khống chế, thầu khoán, thuê các
doanh nghiệp có liên quan, doanh nghiệp nòng cốt sẽ nắm quyền lãnh đạo đối với

các doanh nghiệp này trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, sản
xuất, cung ứng, tiêu thụ….biến chúng thành những doanh nghiệp ở cấp dưới trực
tiếp (tức là công ty con) của tập đoàn. Các doanh nghiệp này vẫn bảo lưu tư cách
pháp nhân của chúng, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách độc
lập tương đối. Bằng cách tham dự cổ phần, doanh nghiệp nòng cốt biến những
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân này thành các doanh nghiệp ở cấp nửa trực tiếp
(tức là công ty cháu) của tập đoàn; thông qua việc ký kết hợp đồng với những
doanh nghiệp có quan hệ tương đối chặt chẽ về nghiệp vụ doanh nghiệp ở cấp nòng
cốt, xây dựng quan hệ hiệp tác với các doanh nghiệp này biến chúng thành các
doanh nghiệp ở cấp lỏng lẻo (tức là công ty chắt của) tập đoàn.
Tóm lại: Loại TĐKT này phần nhiều là các tổ chức liên hiệp giữa các pháp
nhân doanh nghiệp, bản thân tập đoàn không phải là tổ chức pháp nhân. Nó giúp
điều chỉnh kết cấu tổ chức doanh nghiệp, bổ sung lợi thế cho nhau, sử dụng hiệu
quả, hợp lý các yếu tố sản xuất, kinh doanh đa dạng, cùng có lợi….
Hình thức thứ hai, là tập đoàn theo mô hình liên kết dây chuyền: Loại này
chủ yếu là tổ chức liên hiệp lỏng lẻo, lấy sản xuất làm nút liên kết. Chúng thường
lấy một doanh nghiệp lớn làm nòng cốt của Tập đoàn, lấy sản phẩm nổi tiếng độc
đáo của Tập đoàn này làm đặc trưng, áp dụng hình thức chuyên môn hoá, hiệp tác
sản xuất kinh doanh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hình thức thứ ba, là Tập đoàn phối hợp đồng bộ: Loại Tập đoàn lấy hợp
đồng đồng bộ nhận thầu công trình làm nút liên kết. Chúng hình thành chủ yếu dựa
vào một số doanh nghiệp công nghiệp lớn, đơn vị nghiên cứu, thiết kế, lấy việc liên
doanh nhận thầu đồng bộ hạng mục công trình lớn làm hình thức chủ yếu. Dưới sự
lãnh đạo của hội đồng giám đốc, doanh nghiệp đầu đàn loại lớn tổ chức thành công
ty liên doanh thống nhất, lớn mạnh, lập ra các đơn vị thành viên có tư cách pháp
nhân nhằm đạt được mục tiêu vì lợi ích chung.
Hình thức thứ tư, là Tập đoàn hoà nhập nghiên cứu khoa học với sản xuất
kinh doanh: Lấy liên kết phát triển kỹ thuật mới làm nút liên kết. Loại tập đoàn này
lấy những đơn vị nghiên cứu khoa học trong cùng ngành hoặc xí nghiệp công
nghiệp lớn làm chủ thể, bổ sung cho nhau lợi thế khoa học kỹ thuật và vốn nhằm

phát triển sản phẩm kỹ thuật cao từ đó chế tạo sản phẩm có giá trị cao, nâng cao
năng lực cạnh tranh.
Hình thức thứ năm, là Tập đoàn liên kết mạng lưới cùng ngành: Đây là hình
thức biến tướng của những liên hiệp các xí nghiệp đặc biệt lớn có cùng ngành
nghề, nó xuất hiện khi cải cách thể chế kinh tế kế hoạch. Chúng chính là sản phẩm
của sự cải cách thể chế liên doanh cũ thành Tập đoàn liên kết màng lưới cùng
ngành, gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực trong đó chế độ công hữu làm
chủ thể.
Hình thức thứ sáu, là Tập đoàn theo mô hình cổ phần: Loại TĐKT này lấy
công ty của nhà nước có thực lực rất mạnh nắm giữ cổ phần khống chế làm nòng
cốt. Doanh nghiệp nòng cốt thể hiện sự khống chế của mình với doanh nghiệp khác
bằng cách mua cổ phần hoặc các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, các cá nhân khác…tự nguyện tham gia tập đoàn bằng hình thức tham dự cổ
phần. Toàn bộ tập đoàn lấy tài sản dưới hình thức cổ phần làm nút liên kết, hình
thành thể liên hợp các pháp nhân, triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh theo
hình thức cổ phần.
* Đặc điểm về hoạt động kinh doanh và quản lý điều hành của TĐKT
Trung Quốc.
Chiến lược hoạt động tác nghiệp của các TĐKT Trung Quốc là đa dạng hoá,
sản xuất kinh doanh theo chiều sâu và tiến tới quốc tế hoá. Các TĐKT không chỉ là
những Tập đoàn xuyên vùng, xuyên ngành mà còn nhiều hình thức, nhiều chức
năng sản xuất, thương mại, nghiên cứu khoa học, vận tải, tài chính, dịch vụ… Nó
thể hiện khá rõ ở chỗ:
Một là, các doanh nghiệp thành viên được chuyên môn hoá, tổ chức quản lý
phân công sâu sắc với nhiều chi nhánh, nhiều cấp độ. Hai là, sản phẩm đa dạng
hoá, sản xuất hàng loạt, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ liên quan xoay quanh
sản phẩm chuyên biệt có lợi thế. Ba là, biện pháp kinh doanh đa dạng với nhiều
hình thức phong phú như: liên kết đầu tư, đầu tư 100% vốn, liên kết kinh doanh,
kinh doanh chặt chẽ, nửa chặt chẽ, lỏng lẻo…
Xu hướng kinh doanh quốc tế hoá, xuyên quốc gia hoá cũng được các

TĐKT ở Trung Quốc chú trọng từ rất sớm. Năm 1988, được Quốc vụ viện chính
thức phê chuẩn, Tổng công ty xuất nhập khẩu công nghiệp hoá chất bắt đầu làm
thử kinh doanh quốc tế hoá, chuyển từ chuyên doanh xuất nhập khẩu sang kinh
doanh đa ngành đồng thời cũng là “doanh nghiệp đầu tiên bước lên vũ đài cạnh
tranh quốc tế ”. Tính đến cuối năm 1991, TĐKT Hoá chất Trung Quốc đã thành
lập 54 chi nhánh ở các nơi trên thế giới, đạt mức doanh thu 35 tỷ USD, đầu tư ra
nước ngoài 200 triệu USD, có lượng tích luỹ kinh doanh quốc tế 12,3 tỷ USD, thu
ngoại tệ cho nhà nước 11,6 tỷ USD, nộp ngân sách 10,8 tỷ NDT. Tổng đầu tư vào
mỏ sắt Slana ở Áo là 280 triệu đồng tiền Áo, trong đó Tổng công ty xuất nhập
khẩu luyện kim Trung Quốc góp 40% vốn (đây là mức đầu tư cao nhất Trung Quốc
tại thời điểm đó vào một hạng mục nước ngoài). Những năm gần đây, với ảnh
hưởng mạnh mẽ của xu hướng mở cửa, hội nhập, các TĐKT Trung Quốc đã nhanh
chóng vươn ra thị trường quốc tế, ví dụ: Công ty gang thép Bắc Kinh đã mua 70%
cổ phần của công ty công trình Maxta (Mỹ) – một xí nghiệp luyện kim nổi tiếng
thế giới, tạo nên một ưu thế mới trong cạnh tranh quốc tế; Công ty đầu tư tín dụng
quốc tế của Trung Quốc hợp tác với ba công ty của Nhật Bản lập ra công ty thương
mại chung vốn tại Tokyo; Ngân hàng Trung Quốc bắt tay với ngân hàng nước
ngoài lập ra Doanh nghiệp tài chính chung vốn ở Hồng Kông…
Đó là số ít trong những con số minh chứng cho sự phát triển xuyên quốc gia
mạnh mẽ của các TĐKT Trung Quốc. Cũng với chính sách mở cửa, cải cách rất
“thông thoáng” như hiện nay, đồng thời với việc Trung Quốc ra nhập WTO chắc
chắn các TĐKT Trung Quốc sẽ còn tiến nhanh, mạnh và vững chắc trên con đường
hội nhập quốc tế của mình.
Về quản lý và cơ chế điều hành trong TĐKT Trung Quốc cũng tương đối
phức tạp với nhiều hình thức khác nhau, có thể khái quát thành ba dạng chủ yếu
sau:
Loại thứ nhất: Đối với TĐKT có quy mô cực lớn, thi trường hướng nội,
thường áp dụng hình thức công ty – tập đoàn, thể chế quản lý hai cấp đối với công
ty con. Công ty tập đoàn là một cổ đông lớn, thông qua việc nắm giữ cổ phần
khống chế và hội đồng quản trị để nắm quyền quản lý vỡi công ty con.

Loại thứ hai: TĐKT có quy mô tương đối lớn, thị trường hướng ngoại,
thường áp dụng thể chế quản lý ba cấp, kết hợp tập quyền và phân quyền,nhưng
trên thực tế các phòng nghiệp vụ là cầu nối công ty mẹ đối với công ty con.
Loại thứ ba: Là những TĐKT quy mô không lớn, thị trường hướng ngoại,
thường áp dụng thể chế quản lý kiểu song song, ở trong nước thì có 2 cấp Công ty
tập đoàn – công ty con; ở nước ngoài thì quản lý kiểu 3 cấp, Công ty tập đoàn –
phòng nghiệp vụ ở nước ngoài – công ty con.
*So sánh mô hình TĐKT của Trung Quốc với TĐKT của một số nước
Châu Á khác.
- Mô hình TĐKT của Hàn Quốc :
Đầu những năm 70 của thế kỷ XX, để thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công
nghiệp hoá, Chính phủ Hàn Quốc đã tăng cường đáng kể vai trò can thiệp của mình
vào quá trình kinh tế. Trọng điểm là tập trung đầu tư phát triển các ngành công
nghiệp nặng và hoá chất đồng thời hình thành các tổ hợp công nghiệp lớn (thường
gọi là các Chaebol): Có hai yếu tố dẫn đến sự phát triển của Chaebol là vay nợ
nước ngoài và những ưu đãi đặc biệt của chính phủ. Với nguồn vốn hạn hẹp trong
nước chính phủ Hàn Quốc đã dựa vào nguồn vốn nước ngoài và cấp vốn cho một
số doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển
kinh tế ở Hàn Quốc thực chất là dựa vào “ Chủ nghĩa tư bản mệnh lệnh”. Theo
phương thức này, hệ thống doanh nghiệp tự do được chính phủ khuyến khích và
chịu sự can thiệp gián tiếp. Điều đó có nghĩa là chính phủ giành quyền kiểm soát
các dự án và hướng các Chaebol vào thực hiện các dự án đặc biệt. Chính phủ đảm
bảo việc thanh toán nợ nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp đó không giành
được quyền vay nợ từ các ngân hàng trong nước. Hơn nữa, chính phủ còn ưu đãi
giá cả, chính sách thu nhập, chính sách thuế cho các Chaebol. Dưới sự giúp đỡ mở
rộng của chính phủ hầu hết các ngân hàng đều được lệnh cung cấp nhiều vốn hơn
nữa cho các Chaebol. Ngoài ra , những ưu đãi đặc biệt về ngoại thương cũng được
áp dụng, chính phủ còn thực hiện các biện pháp ưu đãi khác như, cho vay bằng
ngoại tệ, trợ cấp tài chính quota xuất khẩu.
Cơ cấu Chaebol: Trước hết, Chaebol là sở hữu gia đình. Hầu hết các

Chaebol đều có nguồn gốc từ gia đình quy mô nhỏ, trong một ngành công nghiệp
cụ thể, sau này, khi đã hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn mối quan hệ gia đình
và theo đẳng cấp vẫn được duy trì. Mọi quyết định quan trọng đều được chỉ định ở
cấp cao nhất. Mỗi Chaebol đều có vai trò chi phối các thành viên khác trong hội
đồng chủ tịch. Mối quan hệ giữa người quản lý và công nhân không phải là mối
quan hệ giai cấp mà là “quan hệ cha con”. Quyền kiểm soát Chaebol được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Đặc thù về quy mô và hoạt động tác nghiệp: Tiềm lực của các Chaebol lớn
mạnh tới mức họ kiểm soát cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và những lĩnh vực
phi kinh tế. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, 30 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc chiếm
tới 90% GDP Hàn Quốc. 4 Chaebol lớn nhất là Huyndai, Samsung, LG, Deawoo
chiếm tới 84% GDP và 60% giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc.
Xét về quy mô, các Chaebol không chỉ gây ảnh hưởng trong nước mà còn
trên phạm vi toàn cầu. Ngay thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hoá, nhiều Chaebol
đã vươn ra thị trường quốc tế và khẳng định vai trò vị trí của chúng. Ví dụ Huyndai
có 45 công ty chi nhánh ở nước ngoài, tổng số tài sản 54,6 tỷ USD, doanh số kinh
doanh 75 tỷ USD, là một tập đoàn sản xuất ôtô lớn nhất, đóng tàu lớn nhất và là
một trong những công ty xây dựng hàng đầu Hàn Quốc; Samsung là một tập đoàn
lớn thứ 12 trên thế giới, có 140 chi nhánh ở nước ngoài, sản xuất trên 3000 mặt
hàng khác nhau, là công ty sản xuất chất bán dẫn, điện tử, thương mại, bảo hiểm
lớn nhất Hàn Quốc. Deawoo có khoảng 1000 chi nhánh ở nước ngoài, hiện chiếm
khoảng 10% thị phần các sản phẩm điện tử, ôtô trên thị trường thế giới và phát
triển mạnh khắp các châu lục.
Các nhà kinh doanh Hàn Quốc quan niệm rằng mỗi Chaebol có ít chi nhánh
mà lại có mặt ở tất cả các ngành công nghiệp thì phạm vi quốc tế hoá sẽ rộng hơn
rất nhiều so với các Chaebol có nhiều chi nhánh mà chỉ tập trung vào một số ngành
công nghiệp. Tóm lại: Phạm vi hoạt động của các Chaebol là vô cùng rộng lớn và
đa dạng, nó hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế, sản xuất, kinh doanh từ những sản
phẩm nhỏ nhất như cái kim, sợi chỉ đến những ngành công nghiệp bậc cao, các
ngành công nghiệp điện tử, hàng không, vũ trụ, đến các ngành tài chính, bảo

hiểm…
-Mô hình TĐKT của Đài Loan:
Ở Đài Loan phần lớn các công ty, tập đoàn có quy mô vừa và nhỏ là chủ
yếu, chiếm tới 98% về số lượng và 70% lao động, tạo ra hơn 50% GNP. Số lượng
các tập đoàn lớn không nhiều nhưng chúng cũng đã đóng góp những thành tựu
đáng kể cho nền kinh tế phát triển. Đài Loan chủ yếu hình thành “Thể chế trung
tiểu doanh nghiệp ” lấy trung tiểu doanh nghiệp làm trung tâm của tăng trưởng
kinh tế. Như vậy, thể chế doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện ở Đài Loan mang tính
lịch sử tất yếu, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Cơ cấu sản xuất trong thời gian dài
sau chiến tranh đều là lấy loại hình sản xuất tập trung lao động làm chủ yếu trong
phát triển, thích ứng với vốn và kỹ thuật thấp, thích hợp với quy mô tương đối nhỏ
của Đài Loan lúc đó, tức là không cần nhiều vốn và kỹ thuật mà vẫn xây dựng
được nhà xưởng, đầu tư sản xuất và xuất khẩu. Phần lớn các xí nghiệp, tập đoàn
Đài Loan đều thuộc gia tộc. Hiện nay có khoảng trên 100 xí nghiệp gia tộc lớn,
được xây dựng trong quan hệ huyết thống. Riêng tổng doanh thu của 4 tập đoàn:
Lâm Viên, Hoà Tín, Đài Tố, Tâm Quang đã đạt 25.000 tỷ đài tệ, chiếm 1/3 tổng tài
sản của 100 tập đoàn kinh tế lớn.
Thành công của các xí nghiệp, tập đoàn trên là do họ rất coi trọng vai trò của
việc xây dựng thể chế tập đoàn. Thể chế này có vai trò quyết định sự thành bại đối
với hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Điển hình ở Đài Loan là tập đoàn Trung
Cương, được hình thành từ năm 1971, áp dụng cách quản lý theo tinh thần chữ “ái”
kiểu nho gia, và “kỷ luật sắt” kiểu pháp gia đã mang lại kết quả bước đầu trong
hoat động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt công tác quản lý theo tinh thần chữ “ái”,
lấy xưởng làm nhà, lấy xưởng làm trường học…và luôn áp dụng 4 phương pháp:
tinh thần quên mình, lấy mình làm gương, quan tâm đến công nhân viên, yêu cấp
dưới như con, đã tạo nên sự gắn bó giữa các thành viên trong tập đoàn. Tuy nhiên
ai vi phạm kỷ luật sẽ bị xử phạt không chút nơi tay và luôn lấy kỷ luật làm nền
tảng quán triệt chấp hành, nên thúc giục mọi người phải làm việc hết mình. Do vậy
tập đoàn đã xây dựng được thể chế quản lý linh hoạt như: chế độ tiền thưởng đã
khuyến khích được công nhân viên, phúc lợi ưu đãi đã hấp dẫn được nhân tài ưu

tú, tạo điều kiện cho mọi người đều được hưởng các quyền lợi, tạo nên sự gắn kết
trên dưới một cách chặt chẽ. Phương pháp tự quản được thực hiện, tức là quản lý
từ dưới lên, không dựa vào mệnh lệnh, mà trong phạm vi công tác cá nhân phát
hiện đề xuất rồi tìm cách giải quyết. Nó tạo cho con người tính tự giác, tự giải
quyết vấn đề trong việc làm rất cao. Qua chế độ quản lý của tập đoàn ở Đài Loan ta
thấy được sự duy trì của mối quan hệ gia đình, huyết thống rất chặt chẽ. Do đó
quyền lực của chủ tịch tập đoàn bị hạn chế nhiều so với các Chaebol của Hàn
Quốc.
Như vậy, có thể thấy sự khác biệt lớn nhất giữa TĐKT của Trung Quốc với
TĐKT của TĐKT của Hàn Quốc và Đài Loan đó là vấn đề sở hữu của các tập
đoàn. Các TĐKT Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước hoàn toàn hoặc công ty mẹ
trong tập đoàn là DNNN, do vậy mọi hoạt động kinh doanh của tập đoàn đều
hướng đến mục tiêu hiệu quả kinh tế xã hội, tập đoàn trở thành phương tiện để nhà
nước điều tiết kinh tế vĩ mô, nhà nước gián tiếp thông qua tập đoàn để định hướng
phát triển kinh tế. Trong khi đó TĐKT ở Hàn Quốc và Đài Loan đều thuộc sở hữu
gia đình. Các Chaebol ban đầu là các tổ hợp công nghiệp thuộc sỡ hữu gia đình
nhờ sự “ cưng chiều” của chính phủ mà phát triển nhanh chóng và trở thành lực
lượng nòng cốt đưa nền kinh tế Hàn Quốc phát triển hùng mạnh. Nhưng chính sự
cưng chiều của chính phủ Hàn Quốc đã làm nảy sinh những tác động không tốt của
Chaebol đối với nền kinh tế như: làm mất cân đối cơ cấu kinh tế, bất chấp trách
nhiệm xã hội và nảy sinh tệ quan liêu. “Bàn tay hữu hình” của chính phủ trong quá
trình công nghiệp hoá đã đem lại sức mạnh cho các Chaebol, tạo nên sự độc quyền
thị trường dẫn tới sự thải loại các công ty vừa và nhỏ khỏi nền kinh tế. Những ưu
đãi mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra cho các Chaebol là tập trung phần lớn sinh lực
và tài nguyên quốc gia vào tay một nhóm người trong xã hội, tạo nên sự bất bình
đẳng và những bất ổn trong nền kinh tế. Sự phá sản cuả các Chaebol từ năm 1997
đến nay là kết quả tất yếu của tư tưởng quy mô hoá và đa dạng hoá, dẫn đến sự
khủng hoảng trong các khoản vay và thanh toán tín dụng và phá vỡ những lợi thế
tương đối “giả tạo” mà chính phủ đã đưa ra cho các Chaebol. Ngược lại trong khi
Hàn Quốc quá chú trọng đến sự phát triển cảu các Chaebol thì Đài Loan phổ biến

phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ có mói quan hệ mật thiết với các tập đoàn lớn,
trong đó lấy tập đoàn lớn làm bộ khung và các xí nghệp vừa và nhỏ là chủ thể.
Chính vì vậy trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua nền kinh tế Đài
Loan vẫn tăng trưởng 6% và các xí nghiệp vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất, ít chịu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Cũng từ những ưu nhược điểm của các mô hình
TĐKT như vậy chính phủ Trung Quốc đã phát triển những TĐKT của nhà nước
đồng thời sử dụng chúng như một chỗ dựa cho hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nước, đây có thể coi là ưu điểm vượt trội của các TĐKT Trung Quốc.
Tuy nhiên, xét về tiềm lực kinh tế và khả năng cạnh tranh quốc tế thì các
TĐKT của Trung Quốc vẫn thua kém các TĐKT của các nước trên. Do các TĐKT
của nhà nước vốn xuất thân từ một thành phần kinh tế kém năng động nhất lại
được đặt trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao nên chưa thể một bước thực
hiện được mục tiêu lý tưởng mà chính phủ Trung Quốc đã đề ra. Hơn nữa ngay
trong quá trình hình thành và phát triển TĐKT ở Trung Quốc cũng tồn tại nhiều
vấn đề cần khắc phục.
2.2. THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC CỦA
TRUNG QUỐC.
2.1.2. Các nguyên tắc thành lập tập đoàn.
Tập đoàn được thành lập với mục đích tăng cường hiệu quả quản lý, nâng
cao khả năng cạnh tranh, tranh thủ những lợi thế về quy mô và kết hợp các ưu thế
của sự chuyên môn hoá với hoạt động kinh doanh da dạng.Với đặc điểm nền kinh
tế thị trường XHCN, Trung Quốc đề ra nguyên tắc thành lập thành lập đoàn là:
+ Trong những ngành, lĩnh vực không mở cửa, không cho phép nước ngoài
hoặc khu vực tư nhân đầu tư thì có thể thành lập một số tập đoàn để tránh độc
quyền và tăng chất lượng sản phẩm, hiệu quả hoạt động tốt, không cho phép chỉ
lập một tập đoàn hoặc một Tổng công ty trong một ngành (vì dẫn đến độc quyền)
+ Trong những ngành, lĩnh vực có tính cạnh tranh cao (tức là cho phép nước
ngoài hoặc khu vực tư nhân cùng đầu tư với DNNN) hoặc ngành, lĩnh vực cần
chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thì có thể cho phép thành lập một tập đoàn kinh
tế mà nhà nước giữ địa vị chi phối.

+ Công ty mẹ trong tập đoàn phải là một doanh nghiệp lớn có vốn đăng ký
trên 100 triệu NDT và có ít nhất 5 công ty thành viên.
+ Ưu tiên lựa chọn những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề, lĩnh vực
quan trọng, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân để phát triển thành các
tập đoàn kinh tế.
2.2.2. Các giải pháp, chính sách đối với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong thời kì đầu của cải cách doanh nghiệp, chính phủ Trung Quốc đã nhận
thấy tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong sản xuất,
marketing và đổi mới công nghệ. Điều này là để thích ứng với sự phân tách nặng
nề về ngành và thị trường giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Các hoạt động
trong nhiều ngành thường được thực hiện theo kế hoạch chứ không phải là hoạt
động tự thân của các doanh nghiệp, do đó không cần phải có các tập đoàn kinh tế.
Kể từ khi thực hiện cải cách, hệ thống kế hoạch hoá tập trung bắt đầu bị phá bỏ
cùng với mức độ cải cách kinh tế và mở cửa ngày càng sâu rộng, Trung Quốc đã
thực hiện một số biện pháp nhằm sớm hình thành và phát triển TĐKT.
* Thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước.
Từ đặc điểm chung của các tập đoàn kinh tế trên thế giới là có quy mô lớn
về vốn, lao động, phạm vi hoạt động rộng, các doanh nghiệp trong tập đoàn liên
kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm công nghệ, chiến lược phát triển…Trung
Quốc đã thực hiện các biện pháp để thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế giữa các
doanh nghiệp DNNN nhằm hình thành nên các tập đoàn kinh tế.
Trong giai đoạn đầu cải cách khi hệ thống luật pháp về doanh nghiệp chưa
hoàn thiện, chính phủ Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp hành chính để bắt
buộc các doanh nghiệp sáp nhập lại với nhau. Đây thường là các doanh nghiệp nhà
nước đã có sẵn mối liên kết theo ngành từ trước nhưng cũng có khi chính phủ dựa
trên nhu cầu, định hướng của nền kinh tế để sáp nhập các doanh nghiệp không
cùng ngành lại với nhau.
Để tập đoàn kinh tế hoạt động thực sự hiệu quả sự tự nguyện, cùng có lợi
giữa các bên tham gia là yếu tố quyết định. Năm 1993, Trung Quốc đã ban hành
luật công ty, nhằm “thiết lập hệ thống DNNN hiện đại với quyền và trách nhiệm về

tài sản được xác định rõ ràng; tách bạch DNNN khỏi quản lý nhà nước với cơ cấu
quản lý hiện đại phù hợp với nền kinh tế thị trường”. Theo đó các doanh nghiệp

×