Chương 2: Dinh dưỡng, thuốc men và các vấn đề khác
41. Làm gì để tránh ngộ độc thức ăn?
"Thấy nhiều người bị ngộ độc thức ăn, bị tiêu chảy phải đi cấp cứu, chúng em hoảng quá, hè này
chẳng dám đi chơi xa".
Các em hãy xem kỹ lại mấy khâu sau đây, nếu đánh giá là đạt yêu cầu rồi thì sẽ không phải lo lắng
gì hết.
- Có thường xuyên rửa tay không, nhất là trước khi ăn bất cứ thứ gì? Đã bỏ hẳn được thói quen xấu
là nhấm nước bọt vào ngón tay khi đọc sách?
- Trước bữa ăn, có giúp mẹ, giúp chị nhúng tất cả bát đũa vào nước sôi không (hay vẫn chỉ dùng
giẻ lau như trước)?.
- Có giúp gia đình kiểm tra lại thức ăn để vứt bỏ các thứ đã bắt đầu ôi thiu không, kể cả những thứ
để trong tủ lạnh? Nhớ rằng nếu không được tổng vệ sinh thường xuyên, tủ lạnh sẽ là nơi dung
dưỡng và phát tán vi khuẩn đáng gờm.
- Trước khi mua bất cứ thức ăn thức uống gì, có xem nó đảm bảo vệ sinh hay không (có bị ruồi,
gián, thạnh sùng "sờ" vào, có tay bẩn của những ai mó vào, nước đá thứ thiệt hay làm từ nước
giếng, thậm chí nước sông) và tìm cách khắc phục trước khi ăn (đặt lại ổ bánh mì trên chảo nóng
chẳng hạn...)?
Nếu bệnh tả xảy ra thì thật kinh khủng, vì những cái bàn cầu (hố xí) di động của ngành đường sắt
vung vãi trên đường sẽ là trợ thủ đắc lực cho mầm bệnh dịch tả trong các chuyến chu du nam bắc.
Tuy nhiên, trong tình huống không may đó, nếu các em đạt "điểm 10" về mấy vấn đề trên thì vẫn
đi du lịch được trong dịp hè, vẫn tắm biển an toàn nếu cư dân các vùng này không có thói xấu
phóng uế lung tung.
42. Ăn quá mặn rất nguy hiểm
"Ông bác ruột của cháu làm thợ mộc, có thói quen ăn mặn vô tư. Cháu đọc báo thấy nói ăn mặn là
không tốt, nhưng ông nói ăn mặn mới khỏe người. Xin cho biết thực hư".
Ăn mặn là một thói quen không tốt mà con người mắc phải trong quá trình tiến hóa, vì sự thực cơ
thể không cần một lượng muối lớn như hằng ngày chúng ta ăn vào. Tuy nhiên, trước đây, người ta
chưa biết đến hậu quả tai hại của việc sử dụng quá mức muối ăn (NaCl) đối với sức khỏe con
người.
Cách đây khoảng 20 năm, ở phương Tây bắt đầu có những cảnh báo đầu tiên của giới khoa học về
chuyện này, nhưng lập tức bị các ông chủ chuyên chế biến thực phẩm tìm cách chống lại và chối
bỏ. Vì sao vậy? Rất đơn giản là vì vấn đề lợi nhuận. NaCl là chất giữ ẩm trong sản phẩm; càng
nhiều muối, trọng lượng của sản phẩm cũng tăng theo, mà trọng lượng của sản phẩm thực phẩm
tương đương với vàng ròng! Muối còn được coi như một chất "gây nghiện" làm cho người sử dụng
gắn bó với thực phẩm. Đó là chưa kể đến lợi lộc của các ông chủ chuyên sản nước đóng chai (ăn
mặn khát phải uống nước thêm). Chỉ cần giảm 30% lượng muối trong thực phẩm là mỗi năm, các
ông chủ "ăn theo" này sẽ thất thu tới 40 tỷ frăng Pháp.
Nhưng chân lý là chân lý. Các nhà khoa học có bằng chứng cho thấy việc sử dụng nhiều muối làm
tăng huyết áp, buồng tim trái to ra (thất trái phì đại), các chứng bệnh về tim mạch phát triển, làm
tăng nguy cơ loãng xương và ung thư dạ dày.
Năm 1990, chính phủ Phần Lan đã buộc các nhà sản xuất thực phẩm giảm một nửa lượng muối
đưa vào cơ thể mỗi ngày (từ 12 g/người xuống còn 6 g), làm cho tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch
sau đó giảm một nửa. Điều này khiến Phần Lan quyết định phấn đấu hạ xuống còn 4 g cho đến
năm 2002.
Chính phủ Anh hưởng ứng ngay, quyết định giảm mức tiêu thụ muối mỗi ngày xuống còn 5
g/người; và năm 2002, tai biến về tim mạch ở Anh giảm xuống còn 22%. Từ năm 2000, ngày 30/1
ở Anh được gọi là "ngày không dùng muối". Riêng ngày này năm 2001 đã loại trừ 1.000 tấn muối
đáng lẽ được dùng cho thực phẩm.
Pháp vẫn chưa nhúc nhích gì vì cuộc tranh luận chưa ngã ngũ, trong khi người dân nước này sử
dụng muối gấp 10 lần nhu cầu của cơ thể. Ở Pháp đã có tới 25.000 trường hợp tử vong vì các
chứng bệnh có liên quan đến muối.
Như vậy, cháu có thể tranh thủ lúc người bác thoải mái, đọc giải đáp này cho bác nghe, may ra ông
sẽ bớt ghiền muối, vì ai trên đời này chẳng muốn sống thêm được dài dài mà vẫn mạnh khỏe.
Ngoài ra, nếu gặp bất cứ bà mẹ nào đang nuôi con nhỏ, cháu nên cho họ biết thêm một số liệu sau
đây. Một nghiên cứu tiến hành trên 476 trẻ sơ sinh 6 tháng tuổi tại thủ đô Amsterdam của Hà Lan
cho thấy: huyết áp ở những trẻ dùng sữa bò chứa 0,1 g muối/ngày thấp hơn ở nhóm dùng sữa bò
chứa 0,15 g muối/ngày.
43. Không ăn tối có hại gì không
"Bạn cháu đứa nào cũng mập nên chỉ ăn sáng và trưa, còn tối thì nhịn. Xin cho biết như vậy có hại
gì không?".
Tại một số vùng ở miền Bắc nước ta, người dân quê nhịn bữa tối và đi ngủ bình thường, năm này
qua năm khác mà không thấy gì nguy hại. Có lẽ do lao động mệt nhọc nên tối đến họ lên giường
sớm, tuy bụng rỗng không mà vẫn ngủ say.
Trường hợp các cháu, nếu còn đi học thì ban đêm phải làm bài, nếu để bụng quá đói e không lợi.
Các cháu nên tính toán xem lượng và chất ăn vào hằng ngày bao nhiêu là vừa (không cho tăng cân
nhiều), rồi chia đều ra làm ba bữa. Nếu thấy bụng "lỏng lẻo" quá thì độn thêm rau xanh, rau củ, hoa
quả (trừ chuối vì chuối cũng có thể gây béo) cho chặt dạ dày, nhằm "đánh lừa và an ủi nó" trong
khi mình cần thức để học.
Phải kiểm tra thể trọng hằng tuần để tránh một chế độ ăn thiếu calo và chất dinh dưỡng, có hại cho
sức khỏe.
44. Phải ăn sáng thật tốt mới được
"Hai chúng em là nữ sinh lớp 11, đều thuộc loại chẳng thon thả gì, lại không được cao ráo nên
định nhịn ăn sáng để bớt mập. Xin cho biết có nên không?".
Nhịn ăn sáng chẳng những không làm bớt mập mà còn khiến em ăn hăng hơn vào các bữa ăn khác,
lại hay ăn thêm nhiều mỡ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nếu muốn giảm hoặc không tăng cân, tốt
nhất là ăn sáng và ăn trưa đầy đủ, còn bữa tối ăn nhẹ.
Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng, với số calo như nhau, một bữa ăn phong phú dùng ban sáng
giúp giảm thể trọng hơn dùng ban tối.
Ngoài ra, việc ăn sáng tốt giúp đạt kết quả học tập cao hơn: Trong những năm đầu của thập niên
1980, tại Mỹ đã có những nghiên cứu cho thấy, ở những học sinh ăn đều đặn hoa quả hoặc nước ép
hoa quả trong bữa sáng, số điểm học tập tăng 16%.
Đầu năm 1999, một nghiên cứu tại Boston (Mỹ) cũng cho thấy, những học sinh được ăn sáng tử tế
sẽ có kết quả học tập cao hơn (nhất là về môn toán), lại bớt lo lắng, bớt nghịch ngợm và vui tính
hơn so với những em không ăn sáng.
45. Tác dụng của cà rốt
"Đọc báo, cháu thấy nói một chất trong cà chua chín có tác dụng làm giảm sự phát triển của một
số dạng ung thư đường ruột, tuyến tiền liệt... Cà rốt cũng có màu đỏ như cà chua, vậy nó có chất
chống bệnh ung thư không?".
Một công trình nghiên cứu tại Mỹ được thực hiện trên 13.000 phụ nữ cho thấy, ở những người ăn
cà rốt ít nhất 2 lần mỗi tuần, nguy cơ ung thư vú giảm 44% so với những người không ăn. Cà rốt
chứa một lượng lớn chất carotenoid, có tác dụng ngăn ngừa ung thư (ngay sau khi được nấu chín,
hàm lượng chất chống ôxy hóa tăng gần 35%, vì vậy ăn cà rốt nấu chín tiết kiệm hơn ăn sống). Cà
rốt lại không gây béo phì.
Ngoài cà rốt, cải bina (épinard) cũng có tác dụng như trên.
46. Nên ăn nhiều cà chua nấu chín
"Ăn cà chua có tốt không, và nên ăn sống hay nấu chín?".
Đầu năm 1999, Mỹ đã công bố kết quả 35 công trình nghiên cứu cho thấy, ở những người ăn nhiều
cà chua và chất chế biến từ cà chua, nguy cơ ung thư giảm 40% so với những người ăn ít. Kết quả
rõ rệt nhất đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi và ung thư dạ dày.
Cà chua ăn sống cung cấp nhiều vitamin hơn do không bị nhiệt độ phá hủy trong quá trình xào nấu
cổ điển; vả lại, ăn nó cũng khoái khẩu hơn.
Còn về cà chua chín thì gần đây, kết quả một nghiên cứu ở châu Âu trên hàng nghìn người cho
thấy, cà chua đã chế biến (xào nấu, nhất là sốt cà chua) cung cấp một lượng lycopene dồi dào.
Lycopene có tác dụng làm giảm sự phát triển của một số dạng ung thư đường ruột, ung thư tuyến
tiền liệt, chống chứng nhồi máu cơ tim. Nó không cho các gốc tự do phá hủy các tế bào lành mạnh
của cơ thể.
Lượng lycopene trong cà chua tăng nhiều nếu được nấu chín (chẳng hạn, sốt cà chua có lượng
lycopene cao gấp 5 lần so với cà chua sống). Nhiệt độ cao giúp giải phóng lycopene dễ dàng, và
chất béo dùng trong quá trình chế biến tạo thuận lợi cho việc hấp thu nó.
Công trình nghiên cứu nói trên cũng cho thấy, cà chua chín cây có nhiều lycopene hơn cà chua chín
sau khi hái. Ngoài cà chua, lycopene còn có trong dưa hấu, bưởi điều, tôm, cua...
47. Lợi ích của mật ong
"Mẹ em bị ốm nặng, đang hồi phục, được bồi dưỡng và uống mật ong, nhưng có người bảo uống
mật ong chỉ nuôi thêm bệnh. Em nên nghĩ thế nào?".
Ăn mật ong không hề nuôi thêm bệnh, trái lại, mật ong giúp cho cơ thể thêm sức mạnh chống bệnh
và chóng hồi phục. Mật ong chứa 65-70% đường trái cây (glycose và levulose), một số muối
khoáng, axit hữu cơ, các men tiêu hóa, các vitamin A, D, E...
Ngoài tính chất bổ dưỡng, mật ong còn có tác dụng tiêu diệt một số vi khuẩn có hại, chữa đỡ hoặc
khỏi một số bệnh gan mật, thần kinh, loét dạ dày - tá tràng, cao huyết áp, táo bón, nhức đầu, ngủ
kém... Cuối năm 1998, một nhóm nghiên cứu Mỹ ở bang Illinois cho biết, trong mật ong, nhất là
mật ong màu sẫm, có chất chống ôxy hóa, giúp cơ thể chống tác hại của các gốc tự do.
Ở một số nước, kể cả phương Tây, mật ong còn được dùng phối hợp với bột quế (cinnamon) để
chữa mệt mỏi, cảm cúm, viêm khớp, cholesterol máu cao, béo phì, sức nghe giảm, bệnh tim, dạ
dày, vô sinh, đau nhức (kể cả răng), rụng tóc, mụn nhọt, eczema, hôi miệng.
48. Cháo dinh dưỡng ăn liền lina
"Gần đây trên thị trường có loại cháo dinh dưỡng Lina ăn liền, được quảng cáo là có tảo
Spirulina giàu đạm, khoáng và vitamin. Có thật vậy không?".
Nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu và phát triển Spirulina platensis, loài tảo dễ nuôi trồng,
phát triển nhanh và chứa nhiều chất dinh dưỡng. Nó có hàm lượng protein (chất đạm) cao gấp 3 lần
thịt bò hoặc thịt gà, 18 axit amin, trong đó có 8 thuộc loại không thể thay thế, nhiều vitamin A, B,
E, PP... Đặc biệt, hàm lượng vitamin B12 trong tảo Spirulina cao gấp đôi gan bò, lượng beta-
caroten cao gấp 10 lần cà rốt.
Với những đức tính quý báu này, tảo Spirulina có triển vọng được sử dụng rộng rãi trong dinh
dưỡng và điều trị như một loại thuốc bổ và chữa bệnh, vừa tốt vừa rẻ tiền.
Ở nước ta, việc nghiên cứu tảo Spirlina được tiến hành từ hơn 20 năm nay. Gần đây, từ kết quả
nghiên cứu của Trung tâm Dinh dưỡng trẻ em TP HCM, cơ sở thực phẩm Đồng Tâm đã sản xuất
một loại cháo dinh dưỡng mang tên Lina, ăn liền, đóng thành gói 35 g, gồm chủ yếu là tảo Spirlina.
Cháo cung cấp 138 calo; 4,5 g chất đạm; 3,5 g chất béo, 22 g chất ngọt, các vitamin và chất
khoáng.
49. Có nên ăn rươi?
"Mẹ cháu bị cảm cúm, bà nói là không thể ăn rươi (con rươi thường nổi lên ở cánh đồng ngoài bãi
quê cháu vào tháng 9-10). Vậy bị bệnh gì thì không được ăn rươi?".
Về ăn uống, trong Tây y, người ta thường chỉ đề cập đến tính chất của thức ăn (giàu hay nghèo
protein, chất mỡ, chất xơ..., nhiều hay ít các vitamin và chất khoáng nào, có hay gây dị ứng không,
nên ăn chín, tái hay sống...) để sử dụng phù hợp cho từng đối tượng. Theo đó, mẹ cháu không nhất
thiết phải kiêng rươi. Tuy nhiên, do rươi có thể gây dị ứng như tôm, cua (gây đau bụng, tiêu chảy,
nổi mề đay...) nên phải cẩn thận, đầu tiên hẵng ăn ít đã.
Rươi chứa nhiều protein, rất bổ dưỡng, không nên bỏ phí, có thể làm thành mắm rươi để ăn dần.
50. Mực khô
"Ăn mực khô lợi hay hại, và có nên ăn nhiều không?".
Mực khô cung cấp một lượng protein (chất đạm) đáng kể. Ngoài ra, nó còn chứa một số chất
khoáng mà chỉ các loài sống ở biển mới có, trong đó có chất iốt. Cháu là nữ, nếu trong gia đình
thường xuyên dùng muối iốt, nay thỉnh thoảng ăn thêm mực khô nữa thì sẽ không lo bị bướu cổ.
Tuy nhiên, khi nướng mực chớ để cháy, chẳng những ăn không ngon mà còn có hại. Báo chí đã
nhiều lần nhắc các bà nội trợ đừng để cháy thịt cá khi rán và hạn chế việc cho chồng con ăn thịt cá
nướng, để phòng ngừa nguy cơ ung thư ruột.
Ăn gì quá nhiều cũng đều không tốt, huống chi mực khô là loại hải sản đắt tiền. Còn đang đi học
mà đã có thói quen ăn mực khô "xả láng" thì e rằng khi thành cán bộ lương sẽ không đủ xài!
51. Có nên ăn mía và cá ngừ?
"Ăn mía nhiều hằng ngày có mắc bệnh tiểu đường không? Có phải cá ngừ độc, ăn vào là tức ngực
và đau người?"
Ăn nhiều mía không gây bệnh tiểu đường, nhưng nên ăn vừa phải và theo dõi thể trọng để không
trở thành béo phì.
Cá ngừ giàu chất dinh dưỡng và các muối khoáng, lại không độc. Nên chọn kỹ để tránh cá ươn. Và
khi ăn bất cứ hải sản nào cũng phải xem chừng phản ứng của cơ thể, nhất là những người "yếu
bụng"; ví dụ, ăn tôm cua có thể nổi mẩn hoặc đau bụng, lên cơn hen...
Các nhà khoa học đã phát hiện tác dụng tốt của các loại cá béo (cá trích, cá thu, cá hồi, cá vược, cá
ngừ...) do chúng chứa các axit béo không bão hòa (nhất là omega-3, làm giảm triglycerid trong
máu). Chúng có tác dụng tốt trong việc phòng ngừa một số bệnh tim mạch.
52. Ăn thịt cá nướng có lợi hay hại
"Một hôm chúng em rủ nhau đi picnic. Sẵn có cá ở vùng đó, chúng em đốt lửa nướng ăn, ngon
lắm. Thật buồn cười, có một bạn nhất định không đụng đến, nói là ăn đồ nướng sẽ mắc bệnh ung
thư. Xin cho biết bạn ấy đúng hay sai?".
Không buồn cười đâu, chuyện nghiêm túc đấy. Bạn của em vừa đúng lại vừa sai. Đúng nhiều và sai
chút xíu. Đúng ở chỗ bạn đó có đọc sách báo hoặc nghe nói về tác hại của thói quen ăn đồ nướng
trên lửa, trên than, hoặc nướng trong lò, quay. Lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng cảnh báo
rằng, khi nướng thịt hoặc cá trên than ở nhiệt độ 500-600 độ C, mỡ giọt xuống than hồng sẽ hình
thành các phân tử hydrocarbure thơm đa vòng (HAP); đó là những chất gây ung thư.
Còn trong lò, ở nhiệt độ 80-100 độ C, chất creatin (hoặc creatinin) trong thịt cá là sẽ trở thành amin
thơm dị vòng (AHA). Chất này khi vào tới gan thì biến thành chất độc, sau đó đi xuống ruột, tạo ra
nguy cơ ung thư đại tràng. Những chất tiết ra lúc đầu, nước thịt nước cá dính lò (mà ta thường thu
gom lại) rất dễ chuyển thành AHA. Nếu vì khoái khẩu hoặc tiếc rẻ mà ăn vào, sau một thời gian
dài, ta dễ có nguy cơ mắc ung thư. Ở nhiệt độ trên 200 độ C, nhiều loại AHA khác có thể hình
thành do sự phân hủy axit amin. Những AHA này nằm tại chỗ thịt quay bị cháy.
Cho nên, đun nấu thức ăn bằng nước, bằng hơi nước, xào rán vừa lửa, không để cháy là an toàn
nhất. Ăn thịt cá nướng thường xuyên là điều nguy hiểm, tuy ngon miệng nhưng hậu quả thật khó
lường. Bạn của em đã nhận thức đúng.
Nhưng bạn ấy sai khi từ chối tham gia bữa tiệc đó. Chỉ ăn một bữa cá nướng, cho dù ăn hết cỡ
chăng nữa, thì làm sao bị ung thư được! Mấy khi được gần nhau, lẽ ra cứ... chịu khó cùng ăn cho
"vui vẻ cả nhà"!
53. Ăn gì có thể gây dị ứng?
"Mẹ em hay bị nổi mề đay, được bác sĩ chẩn đoán là bệnh dị ứng, cho đơn thuốc và căn dặn không
được ăn tôm, cua, rươi. Em muốn biết mẹ em cần kiêng thêm những gì nữa?".
Dị ứng có thể hiểu nôm na là "phản ứng một cách dị thường đối với một số tác nhân nào đó", như
hoa lá (phấn hoa, nhựa cây), vật lạ (bụi bặm, lông mèo, lông chim), thuốc men (penicillin,
novocain), đồ ăn uống (tôm cua, bia rượu), mỹ phẩm (kem thoa mặt, thuốc nhuộm tóc), thời tiết
(độ ẩm, nhiệt độ, áp suất không khí)...
Bảng liệt kê các tác nhân gây dị ứng khá dài. Nhưng may mắn thay, người bị bệnh dị ứng không
phản ứng một cách dị thường với mọi tác nhân, mà chỉ đối với một số tác nhân nhất định thôi.
Chẳng hạn, có người hay nổi mề đay khi thay đổi thời tiết có thể ăn nhậu thoải mái mà không hề
hấn gì; có người nhấp một ngụm bia đã thấy toàn thân nổi mẩn ngứa, nhưng có thể không sợ gió
mùa đông bắc rét buốt.
Khi đã biết mình dị ứng với tác nhân nào thì phải tránh thật xa tác nhân đó. Dù nó vô hại đối với
người khác nhưng rất có thể gây cho mình một cơn sốc phản vệ rất khó cứu chữa (phản vệ có thể
hiểu nôm na là "phản lại sự tự bảo vệ của cơ thể").
Ngoài ra, người có cơ địa dị ứng phải hết sức cẩn thận khi tiếp xúc lần đầu với một tác nhân mà
mình chưa trải nghiệm, vì có thể sẽ phản ứng một cách dị thường với nó.
Một chuyên gia về văn hóa (người phương Tây) khi đến công tác ở nước ta thường đưa cho người
phục vụ ăn uống xem một mảnh bìa ghi bằng tiếng Việt: "Tôi bị dị ứng đối với mỡ động vật, gừng,
hạt tiêu và lạc. Xin đừng cho vào đồ ăn của tôi những thứ này để tránh nguy hiểm đến tính mạng
tôi".
Đầu năm 1999, Viện nghiên cứu dị ứng, hen và miễn dịch của Mỹ cho biết, khoảng 1% dân số của
nước này bị dị ứng với lạc, trong số tử vong vì ngộ độc thức ăn hằng năm, phần lớn bị dị ứng với
lạc. Trước tình hình đó, một số hàng hàng không trên thế giới đã hạn chế việc bán lạc rang hay
bánh kẹo chế biến từ lạc, sợ rằng hành khách có thể hít phải bụi lạc tung ra từ trong bao gói!
Các nhà khoa học Mỹ cũng đã phát hiện ra một gene nghi là thủ phạm gây dị ứng, đó là gene
pCMVArah2. Họ đang sử dụng nó vào việc chế tạo một vacxin để tiêm phòng.
Trường hợp của mẹ em, vì thư nói không chi tiết, nên không biết mẹ dị ứng với những tác nhân
nào và bằng con đường nào (ăn uống, hít thở hay do thay đổi thời tiết...). Tuy nhiên, có thể giúp cơ
thể mẹ em bớt dần dị ứng bằng một vị thuốc uống khá hữu hiệu, dễ kiếm và rẻ tiền.
54. Rau sản phụ
"Tôi thấy một số người hay ăn rau sản phụ, như vậy có tốt không? Rau thai chữa được những
bệnh gì? Có cách gì chế biến nó để tiện dùng?".
Rau sản phụ rất giàu protein (chất đạm), mà lại là protein của người, dễ hấp thu hơn cả, có thể nói
là loại thịt bổ nhất trên đời; tiếc rằng trước nay ta thành kiến cho nó là bẩn nên chôn mất. Trẻ bị
suy dinh dưỡng, người mới ốm dậy, người gầy yếu ít ngủ dùng rất tốt. Theo các tài liệu cổ, rau sản
phụ có tác dụng đại bổ khí huyết, dùng chữa gầy yếu, hen suyễn, ra nhiều mồ hôi, đau nhức xương,
di tinh, hoạt tinh.
Cách chế biến:
-Rau bỏ màng ối và cuống rốn, thấm khô, đặt vào tủ sấy cho khô giòn, đem nghiền thành bột, đựng
vào lọ kín dùng dần.
- Ngâm rau vào mật ong một thời gian cho tan ra, vứt bỏ bã. Khi dùng, có thể thêm chút rượu thuốc
cho dễ uống. Phải mật ong thật thì rau mới tan. Trong thời gian ngâm, không nút lọ quá kín để khỏi
nổ vỡ.
- Ngâm rau vào rượu.
Người béo không nên dùng.
55. Thừa sắt lợi hay hại
"Tôi còn nhớ trước đây cơ quan dược phẩm ở phía Bắc có sản xuất viên sắt dùng cho người thiếu
máu, vì sao hiện nay không thấy bán? Con gái đầu lòng của tôi có thai lần đầu, tôi muốn cháu có
thêm chất sắt cho khỏe cả con lẫn mẹ".
Đầu tiên, xin trao đổi với bác về chuyện thai nghén. Ta hay nghĩ giản đơn và lệch lạc là hễ có thai
thì cái gì ít nhất cũng phải "gấp đôi", phải thuốc men, tẩm bổ, dù tốn kém mấy cũng vui lòng, để
được mẹ tròn con vuông.
Trong khi đó, khoa học lại thấy rằng cơ thể của thai phụ và thai nhi biết cách điều chỉnh hợp lý để