Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

CHƯƠNG III THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN TỊ TRƯỜNG TRONG TƯƠNG LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.16 KB, 42 trang )

1
CHƯƠNG III THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT
NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TRONG TƯƠNG LAI
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1. Khái quát về thị trường bán lẻ Việt Nam
1.1 Các loại hình kinh doanh bán lẻ khá phong phú đa dạng
1.1.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn chiếm ưu thế
Thị trường bán lẻ Việt Nam nhìn chung là thị trường phân tán và quy mô
còn khá khiêm tốn nếu xét trên quy mô dân số. Chợ và các cửa hàng theo kiểu hộ
gia đình vẫn chi phối cả thị trường. Mặc dù quy định mới về việc cấm bán hàng
rong tại một số quận nội thành ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã được ban
hành từ tháng 2/2008, loại hình này vẫn giữ vai trò đáng kể trong thói quen mua
sắm của người Việt Nam.
Đặc biệt ở khu vực nông thôn nơi có hơn 70% dân số Việt Nam đang sinh
sống, hệ thống bán lẻ truyền thống chiếm vị trí gần như áp đảo.
1
1
2
Theo thống kê của RNCOS, trong thời kỳ từ 2006 đến nay, doanh thu từ hệ
thống bán lẻ truyền thống đang giữ khoảng 90% tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa
trên thị trường. Riêng tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, nơi xuất hiện ngày
càng nhiều các mô hình bán lẻ hiện đại, thị phần của hệ thống bán lẻ truyền thống
vào khoảng 75-80% (RNCOS 2008, tr.62).
1.1.2 Các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại khá phong phú, đa dạng
Hệ thống bán lẻ hiện đại hiện đang tồn tại ở Việt Nam dưới rất nhiều hình
thức khác nhau: trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại, đại siêu thị, siêu thị,
siêu thị nhỏ, cửa hàng tiện ích, cửa hàng chuyên doanh,…
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi siêu thị đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam.
Tháng 10 năm 1993, siêu thị đầu tiên được mở là một siêu thị thuộc sở hữu nhà
nước. Tính từ thời điểm đó tới nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia


tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự tăng trưởng mạnh mẽ của
ngành du lịch nội địa đã thúc đẩy các mô hình bán lẻ hiện đại nở rộ ở Việt Nam.
Sự tăng lên về số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại ở 6 thành phố lớn là Hà Nội,
Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Hồ Chí Minh có thể được thể hiện
trong bảng sau trong tương quan với số lượng các cửa hàng thuộc kênh bán lẻ
truyền thống.
KÊNH BÁN LẺ 2006
2007 2008
SỐ
LƯỢNG
TỶ LỆ
TĂNG (%
SO VỚI
2006)
SỐ
LƯỢNG
TỶ LỆ
TĂNG (%
SO VỚI
2007)
Hiện đại (các loại
hình siêu thị và cửa
hàng tiện ích)
230 368 60 425 15,5
Truyền thống 88.035 96.957 10 99.687 2,8
2
2
3
Bảng III.1: Số lượng cửa hàng bán lẻ theo loại hình tại 6 thành phố
lớn nhất Việt Nam

Nguồn: Global Agriculture
Information Network – GAIN 2010, tr.3-11
Hệ thống bán lẻ hiện đại của Việt Nam ngoài việc phân chia dựa trên mô
hình kinh doanh còn có thể phân loại dựa trên hình thức sở hữu. Theo đó, các cửa
hàng bán lẻ hiện đại có thể được phân thành ba loại với những đặc trưng sau:
• Thuộc sở hữu nhà nước: mặc dù siêu thị bán lẻ hiện đại đầu tiên của Việt Nam
là của nhà nước song các cửa hàng bán lẻ loại này đang ngày càng mất dần thị
phần trên thị trường bán lẻ. Tốc độ tăng trưởng của mô hình kinh doanh bán lẻ
thuộc sở hữu nhà nước cũng thấp nhất, chỉ đạt khoảng 12%/năm trong giai
đoạn từ 2002-2008(RNCOS 2008, tr.56).
• Thuộc sở hữu tư nhân hay các doanh nghiệp trong nước: loại hình này đang
dẫn đầu về số lượng các cửa hàng, chiếm vị trí áp đảo trên thị trường bán lẻ.
Tốc độ tăng trưởng hàng năm đều trên 20% (RNCOS 2008, tr.56).
Sài Gòn Co.op Mart – Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam
Ví dụ thành công nhất về nhà bán lẻ Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước là
chuỗi siêu thị Co.opMart. Từ khi siêu thị đầu tiên ra đời (Co.pMart Cống Quỳnh)
năm 1996, Saigon-Co.op đã không ngừng phát triển và trở thành hệ thống siêu thị
bán lẻ lớn nhất Việt Nam với hơn 40 siêu thị. Hệ thống siêu thị Co.opMart là một
trong những hệ thống siêu thị lớn trong nước với sự đầu tư hiện đại, công nghệ
quản lý chuyên nghiệp. Thành công của chuỗi siêu thị Sài Gòn Co.op Mart có
được là do những người lãnh đạo ngay từ thời kỳ đầu đổi mới đã nhanh chóng
thay đổi tư duy, học hỏi kinh nghiệm bán lẻ từ các thị trường phát triển trong khu
vực và trên thế giới, sớm phát triển mô hình kinh doanh theo hướng hiện đại, phù
hợp với xu thế phát triển chung của thị trường.
3
3
4
Thành công của Sài Gòn Co.op Mart đáng kể nhất là doanh nghiệp bán lẻ duy
nhất của Việt Nam được bầu chọn trong top 500 nhà bán lẻ hàng đầu châu Á trong
sáu năm liên tiếp(2004-2009)

• Thuộc sở hữu nước ngoài: mặc dù các mô hình kinh doanh này mới chỉ giữ thị
phần nhỏ trên thị trường nhưng tăng trưởng khá mạnh, gần 20%/năm và dự
đoán sau khi thị trường được hoàn toàn mở cửa thì sẽ đạt mức tăng lớn hơn
đáng kể (RNCOS 2008, tr.58).
Trên thị trường bán lẻ Việt Nam, Big C và Metro là hai tập đoàn bán lẻ đến từ
nước ngoài có hoạt động rộng khắp nhất. Hai tập đoàn này sẽ được trình bày trong
phần kế tiếp khi phân tích về sự phát triển của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu.
1.2 Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động
và chiếm lĩnh thị trường
Mặc dù phải đến thời điểm 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam mới mở
cửa cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo những cam kết
trong khuôn khổ WTO, trên thực tế, các cơ sở bán lẻ 100% vốn đầu tư nước ngoài
đã có mặt ở Việt Nam từ cuối những năm 1990.
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài lớn hiện đang hoạt động trên thị
trường Việt Nam gồm có chuỗi siêu thị Big C của tập đoàn Casino (Pháp), các đại
siêu thị bán buôn của Metro Cash & Carry (Đức), tập đoàn Parkson của Malaysia,
Dairy Farm của Hồng Kông, Lotte của Hàn Quốc,.v.v. Trong phần này em xin
được phân tích mô hình kinh doanh bán lẻ của một số tập đoàn nước ngoài tại Việt
Nam.
Big C
Big C thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Casino. Đây là một trong những tập
đoàn bán lẻ hàng đầu châu Âu với hơn 9.000 cửa hàng tại hàng chục các quốc gia
châu Âu và châu Á. Số lượng nhân viên của tập đoàn này lên tới 190.000.
Big C xuất hiện ở Việt Nam bằng việc mở siêu thị ở Đồng Nai vào năm
1998. Hiện nay, Big C đã mở rộng hoạt động của mình sang hầu hết các thành phố
4
4
5
lớn của Việt Nam, bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà
Nẵng, Biên Hòa, với tổng số 10 đại siêu thị và siêu thị bán lẻ. Big C ở Hà Nội

(Bourbon Thăng Long) là đại siêu thị lớn nhất trong chuỗi 10 trung tâm. Mỗi trung
tâm mua sắm của Big C phục vụ trên 50.000 mặt hàng với chủng loại vô cùng
phong phú. Ở các siêu thị của Big C, khách hàng có thể lựa chọn thực phẩm tươi
sống, hàng tạp hóa, quần áo, đồ trang trí nội thất, cũng như các mặt hàng điện máy
như đồ gia dụng và thiết bị nghe nhìn. Giá của các mặt hàng trong chuỗi các siêu
thị Big C đều có giá cả cạnh tranh và một số lượng lớn được bán với giá thấp hơn
giá bán tại các chợ truyền thống.
Metro Cash & Carry
Trung tâm Metro đầu tiên khai trương ở Việt Nam vào tháng 3 năm 2002 tại
thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến thời điểm cuối năm 2009, tập đoàn Metro đã có
9 đại siêu thị hoạt động ở Việt Nam: 3 trung tâm tại thành phố Hồ Chí Minh, 1
trung tâm tại thành phố Biên Hòa, 2 trung tâm ở thủ đô Hà Nội, và ở thành phố
khác là Cần Thơ, Đà Nẵng và Hải Phòng. Theo kế hoạch, trong năm 2010, 4 trung
tâm mua sắm của Metro sẽ tiếp tục ra đời trên thị trường bán lẻ Việt Nam.
Cash and Carry là trả tiền mặt và vận chuyển. Phương thức kinh doanh này
còn khá mới mẻ trên thị trường ViệtNam nhưng đã khá phổ biển và gặt hái được
thành công trên các thị trường phát triển. Nhóm khách hàng mục tiêu là các khách
hàng chuyên nghiệp, thường xuyên mua sắm với khối lượng lớn. Nhóm khách
hàng này bao gồm các nhà bán buôn, nhà phân phối, các đại lý, chủ các cửa hiệu
tạp hóa, nhà hàng, khách sạn,… Metro chỉ phục vụ cho những khách hàng có thẻ
hội viên.
Parkson
Parkson thuộc sở hữu của công ty Malaysia hiện đang quản lý hơn 70 trung
tâm ở Malaysia và Trung Quốc.
Tại Việt Nam, Parkson bắt đầu mở trung tâm mua sắm đầu tiên ở thành phố
Hồ Chí Minh vào năm 2005 và đến nay đã có tất cả 6 trung tâm mua sắm Parkson
5
5
6
ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Mô hình kinh doanh của Parkson là

chuỗi các trung tâm mua sắm tập trung những nhãn hiệu thời trang, mỹ phẩm và
các sản phẩm thời thượng nhất trên thế giới nhằm vào đối tượng khách hàng mục
tiêu là tầng lớp trung lưu và thượng lưu trong xã hội. Phương châm kinh doanh
của Parkson là đem đến cho khách hàng những trải nghiệm mua sắm thú vị và độc
đáo bằng việc thiết kế những gian hàng có tính thẩm mỹ cao, một bộ sưu tập vô
cùng đa dạng những nhãn hàng nổi tiếng nhất trên thế giới. Parkson luôn đưa ra
những chương trình khuyến mại giảm giá lớn vào mỗi dịp lễ, tết đặc trưng trên
mỗi thị trường.
Best Carings
Best carings là chuỗi siêu thị chuyên kinh doanh hàng điện tử gia dụng.
Chuỗi cửa hàng này ra đời là kết quả của hợp đồng nhượng quyền thương mại
giữa công ty Tiếp thị Bến Thành và tập đoàn bán lẻ điện tử của Nhật bản là Best
Denki.
Từ năm 1999, công ty Tiếp thị Bến Thành đã kinh doanh sản phẩm điện tử
gia dụng và liên tục giữ vị trí doanh nghiệp bán buôn sản phẩm điện máy lớn nhất
Việt Nam. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty luôn tăng trưởng ở mức
trên 50% suốt từ năm 2006.
Tập đoàn bán lẻ điện tử Nhật Bản Best Denki bắt đầu hoạt động trên thị
trường quốc tế từ năm 1985. Tính đến thời điểm hết năm 2009, tập đoàn này đã có
40 cửa hàng trên khắp châu Á.
Phương châm kinh doanh của Best Carings Việt Nam là kết hợp giữa thế
mạnh của sự hiểu biết về nhu cầu người tiêu dùng trong nước của Carings và
phương pháp tiếp cận khách hàng của doanh nghiệp Nhật Bản. Siêu thị Best
Carings đi vào hoạt động đầu tiên vào năm 2008 ở Hà Nội. Đây là siêu thị điện
máy đạt tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên ở thành phố này với công nghệ quản lý, phong
cách trưng bày và dịch vụ khách hàng đều theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Hiện nay
chuỗi siêu thị của Best Carings ở Việt Nam đã mở được 3 siêu thị ở 3 thành phố
6
6
7

lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Kế hoạch kinh doanh của Best
Carings là đến hết năm sẽ có 11 cửa hàng trên khắp Việt Nam và trở thành nhà bán
lẻ điện máy lớn nhất, hoạt động chuyên nghiệp nhất ở Việt Nam.
1.3 Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn yếu kém
1.3.1 Quy mô nhỏ
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nói chung đều gặp khó khăn về vốn. Có thể
lấy một ví dụ rất điển hình. Một siêu thị bán lẻ do một doanh nghiệp Việt Nam mở
thường chỉ được đầu tư số vốn chưa đến 10 tỷ trong khi đó nhà bán lẻ nước ngoài
có thể đầu tư gấp 13 lần, lên đến 130 tỷ. Một hệ quả khá rõ ràng là doanh thu bình
quân của một siêu thị Việt Nam chỉ bằng 35% một siêu thị của nước ngoài (Hồng,
Văn 2009).
Nguồn vốn hạn chế là một trong những thách thức lớn nhất mà doanh
nghiệp Việt Namphải đối mặt trong cuộc đua với những tập đoàn bán lẻ nước
ngoài. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán lẻ
nhưng còn mở rộng quy mô kinh doanh sang một số lĩnh vực khác như xuất nhập
khẩu nên vốn dành cho hoạt động bán lẻ lại càng bị hạn chế.
Do thiếu vốn, các nhà bán lẻ Việt Nam không thể đầu tư cho nghiệp vụ hậu
cần: bến bãi, kho hàng hay phương tiện chuyên chở. Điều này khiến cho các nhà
bán lẻ Việt Namngày càng tụt lại trong cuộc đua với những nhà bán lẻ nước ngoài
chuyên nghiệp. Vì đầu tư vào kho bãi rất nhỏ bé, họ không thể dự trữ số lượng
hàng lớn do vậy không thể nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu thị trường như các nhà
bán lẻ nước ngoài. Bên cạnh đó, phần lớn kho hàng của các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam đều rơi vào tình trạng khá lạc hậu, không được trang bị đầy đủ hệ thống
làm mát. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hàng hóa bán ra.
Hạn chế về phương tiện chuyên chở cũng làm giảm tính cạnh tranh của các
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Nếu trên các thị trường phát triển và trong các
chuỗi siêu thị bán lẻ của các nhà đầu tư nước ngoài, xe chuyên chở hạng nặng, lên
tới trên 30 tấn và xe container hay pallet xuất hiện ngày càng nhiều, các hệ thống
7
7

8
siêu thị của nhà bán lẻ Việt Nam vẫn sử dụng hệ thống xe hạng nhẹ dưới 7 tấn.
Năng lực chuyên chở hạn chế khiến các doanh nghiệp Việt Nam tốn nhiều thời
gian hơn và không thể đưa đến khách hàng những dịch vụ nhanh nhất, chất lượng
nhất.
1.3.2 Trình độ quản lý lạc hậu
Do lĩnh vực bán lẻ hiện đại của Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu vào khoảng
những năm 1990 nên kinh nghiệm các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có được khá
hạn chế. Đội ngũ quản lý thiếu cơ hội tiếp cận với những mô hình bán lẻ đã thành
công trên thế giới. Tỷ lệ những nhà quản lý có kinh nghiệm trên thị trường quốc tế
còn ở mức rất nhỏ. Mô hình quản lý ở hầu hết các cơ sở bán lẻ của Việt Nam đều
khá cứng nhắc, kém linh hoạt.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực làm quản lý cũng rất thiếu hụt. Trên thị
trường lao động nói chung, lượng cầu về những vị trí quản lý quan trọng (từ
trưởng phòng trở lên) luôn vượt quá lượng cung. Do vậy, các công ty trên thị
trường luôn phải tìm mọi cách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao bằng việc
đưa ra các ưu đãi về lương và các hình thức hỗ trợ khác. Các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam vì tiềm lực tài chính hạn chế, không có kinh nghiệm trong việc xây dựng
các chương trình đãi ngộ công nhân viên nên thường tỏ ra yếu thế trong việc tuyển
dụng những vị trí hàng đầu có khả năng chỉ đạo hoạt động kinh doanh, vạch chiến
lược dài hạn cho công ty. Đây là một cản trở rất lớn cho sự thành công của các
doanh nghiệp nước nhà.
1.3.3 Chất lượng nguồn nhân lực nói chung còn thấp
Nguồn lao động làm việc trong ngành bán lẻ hiện nay phần lớn đều không
được đào tạo bài bản. Nguyên nhân chính là do ở Việt Nam hiện chưa có một
chương trình đào tạo chính quy nào về ngành bán lẻ. Nhân viên làm việc trong các
siêu thị hầu hết chỉ tốt nghiệp phổ thông.
Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng không tỏ ra thực sự hiệu quả
trong quá trình đào tạo nhân viên của mình. Tình trạng thường thấy ở các siêu thị,
8

8
9
cửa hàng tiện ích do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ là hiểu biết của nhân viên về
các loại hàng hóa thường rất hạn chế. Số lượng nhân viên có đủ kiến thức để giải
đáp mọi thắc mắc của khách hàng chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ. Một hạn chế nữa của
đội ngũ nhân viên làm việc cho các nhà bán lẻ Việt Nam là trình độ ngoại ngữ
(tiếng Anh) rất yếu kém. Phần lớn không đủ khả năng giao tiếp với khách hàng
ngoại quốc. Điều này dẫn đến tình trạng là ngày càng nhiều khách hàng nước
ngoài e dè khi đi mua sắm trong các siêu thị của Việt Nam. Đây là một điều rất
đáng tiếc vì đối tượng này thường là những khách hàng khá tiềm năng, sức mua
trung bình lớn hơn khách hàng Việt Nam và do vậy có thể đem lại khoản doanh
thu đáng kể.
1.3.4 Hoạt động liên kết hạn chế
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vào thời điểm hiện nay vẫn chưa nhận
thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc liên kết. Trên cả nước hiện mới chỉ ghi
nhận hai tổ chức của các nhà bán lẻ trong nước. Đó là Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt
Nam (AVR) và công ty cổ phần cổ phần Đầu tư và phát triển hệ thống phân phối
Việt Nam (VDA).
Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam – AVR.
AVR được thành lập vào tháng 7 năm 2007 sau khi Việt Nam trở thành
thành viên WTO. Trước tình hình các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài xâm nhập
vào Việt Nam với tốc độ ngày càng tăng, 100 doanh nghiệp hoạt động trong ngành
bán lẻ và các lĩnh vực liên quan đến bán lẻ đã tập hợp nhằm cùng nhau phát triển
trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Vào thời điểm thành
lập, hiệp hội có 100 thành viên. Hiện nay số lượng thành viên đã lên hơn 150.
Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam
Theo sáng kiến của 4 doanh nghiệp phân phối hàng đầu Việt Nam là Tổng
công ty Thương mại Hà Nội (Hapro), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra),
Liên hiệp Hợp tác xã thương mại thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) và Công
ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái (Phu Thai Group), VDA được thành lập ra vào ngày

9
9
10
01 tháng 02 năm 2007. Số vốn ban đầu là 1.500 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng
thương mại, trong đó có hệ thống tổng kho với các trang thiết bị hiện đại. Mục tiêu
của công ty là trở thành tậpđoàn phân phối số 1 Việt Nam(Kiều, Hương 2007).
Lợi ích của liên kết để cạnh tranh với các công ty nước ngoài là khá rõ
ràng. Tuy nhiên, trên thị trường bán lẻ Việt Nam hiện nay, ngoài hai liên kết nói
trên thì gần như chưa xuất hiện liên minh đáng chú ý nào giữa các doanh nghiệp
nội địa hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên có thể
kể tới đầu tiên là do phần lớn các doanh nghiệp chưa nhận thức được sức mạnh
đến từ việc liên kết. Rất nhiều doanh nghiệp lo sợ bí quyết kinh doanh của họ có
thể bị doanh nghiệp khác đánh cắp.
Do chưa hiểu rõ được vai trò của liên kết, và những liên kết trên thị trường
mới chỉ hạn chế ở mục đích hỗ trợ thành viên về vốn hay xây dựng thương hiệu,
các tổ chức liên kết của các nhà bán lẻ Việt Nam chưa phát huy được ý nghĩa to
lớn của mình.
2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động thị trường bán lẻ
Cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO:
• Những dịch vụ phân phối Việt Nam cam kết mở cửa khi gia nhập WTO, bao
gồm dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ (kể cả hoạt
động bán hàng đa cấp) và dịch vụ nhượng quyền thương mại.
• Những loại hàng hóa nhà đầu tư nước ngoài được phép phân phối tại Việt
Nam:
Từ ngày 11/1/2010, không có bất cứ sự hạn chế nào về hàng hóa nhà đầu tư
nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam, miễn là hàng hóa đó được sản xuất
tại Việt Nam hoặc được nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
• Các hình thức nhà đầu tư nước ngoài có thể thực hiện hoạt động phân phối ở
Việt Nam:
10

10
11
 Lập liên doanh với đối tác Việt Nam: từ ngày 1/1/2008 không còn bất
cứ hạn chế nào về tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài.
 Lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (thực hiện từ sau
1/1/2009)
Hạn chế chung cho cả hai hình thức này là họ chỉ được phép cung cấp dịch
vụ bán lẻ thông qua các cơ sở bán lẻ (siêu thị, cửa hàng tiện ích,…). Tuy nhiên,
các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được tự động mở một cơ sở
bán lẻ. Việc mở thêm cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở thứ nhất phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép.
Như vậy, kể từ thời điểm 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam đã mở cửa
cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động. Quá trình thực hiện
theo đúng cam kết của WTO này đã có tác động trực tiếp và mạnh mẽ lên những
chủ thể chính trên thị trường bán lẻ Việt Nam.
2.1 Tác động tích cực
2.1.1 Đối với thị trường bán lẻ Việt Nam nói chung
Kể từ thời điểm 1/1/2009, hầu như mọi rào cản trên thị trường bán lẻ Việt
Nam đều được dỡ bỏ. Việc này đồng nghĩa với việc đầu tư của doanh nghiệp bán
lẻ nước ngoài sẽ không ngừng tăng lên. Trên thị trường bán lẻ Việt Nam, cạnh
tranh sẽ trở nên sôi động hơn. Bên cạnh đó, hình thức các loại doanh nghiệp cũng
trở nên đa dạng hơn, tình hình liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài và các
doanh nghiệp nội địa cũng như giữa các doanh nghiệp nội địa với nhau càng trở
nên phổ biến. Kết quả là nhiều hình thức sở hữu mới ra đời làm cho thị trường bán
lẻ của nước ta càng trở nên phong phú. Thị trường sẽ ngày càng hướng tới các mô
hình kinh doanh tiên tiến trên thế giới.
Khi thị trường bán lẻ Việt Nam được mở cửa hoàn toàn, hàng loạt các trung
tâm mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng tiện ích,… sẽ ra đời. Điều này chắc
chắn sẽ dẫn đến nhu cầu tìm kiếm một số lượng lao động khổng lồ. Ngành bán lẻ
hiện nay vẫn dẫn đầu là ngành sử dụng lao động nhiều nhất trong nền kinh tế toàn

cầu. Việc mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam còn tạo điều kiện cho lao động Việt
11
11
12
Nam được làm việc trong môi trường có tính quốc tế cao, được đào tạo bài bản và
tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới.
2.1.2 Đối với các chủ thể trên thị trường bán lẻ trong nước
• Đối với doanh nghiệp bán lẻ nội địa
Sau khi thị trường bán lẻ được mở cửa hoàn toàn, một số lượng lớn các nhà
bán lẻ toàn cầu sẽ đến Việt Nam, mang theo công nghệ mới, phong cách quản lý
hiện đại, chuyên nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam nhờ đó có cơ hội học hỏi kinh
nghiệm, tiếp thu những nét tiên tiến mà các doanh nghiệp nước ngoài mang lại.
Thông qua cách thức làm việc chuyên nghiệp mà những nhà bán lẻ lớn trên thế
giới đem lại, doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp thu để không chỉ áp dụng trên thị
trường nội địa mà vươn ra quốc tế.
Do cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn, các doanh nghiệp trong
nước muốn tồn tại phải không ngừng cải thiện, loại bỏ những phong cách làm việc
quan liêu, bao cấp do ảnh hưởng từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung. Họ sẽ quan
tâm hơn nhiều đến việc đổi mới mình nhằm giữ thị phần trước sự đe dọa của các
tập đoàn dày dặn kinh nghiệm đến từ các nước phát triển.
• Đối với nhà sản xuất trong nước
Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam chắc chắn sẽ
giúp mở rộng thị trường đầu ra cho hàng ngàn sản phẩm của các nhà sản xuất
trong nước. Mỗi hệ thống mua sắm hiện đại là nơi trưng bày và bán hàng loạt các
chủng loại sản phẩm khác nhau. Cơ hội cho nhà sản xuất trong nước hợp tác với
các nhà bán lẻ nước ngoài nhằm giới thiệu sản phẩm của mình qua các tên tuổi
hàng đầu thế giới là rất lớn.
Bên cạnh đó, nếu các nhà sản xuất trong nước khẳng định được tên tuổi của
mình bằng các sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá cạnh tranh, cơ hội
trở thành nhà phân phối độc quyền cho các nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hoàn toàn

có thể. Trong trường hợp đó, sản phẩm của họ chắc chắn sẽ có cơ hội xuất hiện tại
những thị trường phát triển nhất trên thế giới.
12
12
13
• Đối với người tiêu dùng
Lợi ích đầu tiên và rõ ràng nhất là người tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội lựa
chọn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân và gia đình. Các doanh
nghiệp nước ngoài vào Việt Nam chắc chắn sẽ giới thiệu một số lượng lớn các mặt
hàng mới, hiện đại và tiện ích hơn. Do đó, người tiêu dùng có thể chọn được
những mặt hàng chất lượng tốt nhất và giá cả cạnh tranh.
Việc các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới đặt chân vào Việt Nam sau khi
Chính phủ mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ giúp người tiêu dùng dần tiếp cận
với các phương thức kinh doanh hiện đại và thay đổi thói quen mua sắm của người
dân Việt Nam. Mặc dù trong thời gian gần đây, hệ thống bán lẻ hiện đại đã giành
được thị phần không nhỏ song kênh bán lẻ truyền thống vẫn chiếm ưu thế. Vì vậy,
cùng với việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ từ đầu năm 2009, số lượng các
cửa hàng, trung tâm bán lẻ hiện đại tăng lên sẽ đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa
phong cách mua sắm của đa số người dân, kể cả người dân có mức sống trung
bình hay một bộ phận lớn người dân sống sống ở vùng nông thôn.
Bên cạnh đó, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường bán lẻ Việt Nam
sẽ khiến các doanh nghiệp không ngừng đổi mới để tạo được lợi thế về giá cũng
như chất lượng sản phẩm hay dịch vụ khách hàng.
2.2 Tác động tiêu cực
• Các cửa hàng bán lẻ truyền thống
Trong khi hệ thống bán lẻ truyền thống (chợ và các cửa hàng tạp hóa, cửa
hàng tư nhân) vẫn đang chiếm tỷ trọng áp đảo trên thị trường bán lẻ Việt Nam, sự
xâm nhập thị trường của các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới chắc chắn sẽ đe dọa
vị trí của loại hình bán lẻ này. Hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn tồn tại và phát
triển cho đến ngày nay chính là nhờ lợi thế về giá. Tuy nhiên, khi các nhà bán lẻ

nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, họ hoàn toàn có khả năng chi phối nguồn
cung đảm bảo hàng hóa của họ có giá bằng hoặc thấp hơn ngoài chợ. Thêm vào
đó, hàng hóa ở các trung tâm bán lẻ hiện đại thường ít biến động hơn về giá cả sẽ
13
13
14
thu hút một lượng lớn khách hàng. Như vậy, công việc kinh doanh của một tỷ lệ
lớn các tiểu thương Việt Nam có nguy cơ bị phá sản.
• Đối với doanh nghiệp bán lẻ
Cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam với các đại gia bán
lẻ toàn cầu có thể là cuộc cạnh tranh một mất một còn và phần thắng có nhiều khả
năng sẽ thuộc về những tập đoàn đa quốc gia với tài chính khổng lồ và kinh
nghiệm dạn dày.
Nhiều nhà bán lẻ nước ngoài như Wal-mart, Metro có lợi thế về giá vì họ
nắm được thế chủ động trước các nhà sản xuất, phân phối dựa vào sức mạnh tài
chính của mình nên kiểm soát được nguồn hàng và đảm giá thấp hơn đối thủ cạnh
tranh. Đây có thể là nguyên nhân khiến khách hàng từ bỏ các cửa hàng mua sắm
quen thuộc để đến với các trung tâm bán lẻ hiện đại.
• Đối với nhà sản xuất nội địa
Cơ hội cho nhà sản xuất nội địa là rất lớn tuy nhiên thách thức cũng không
hề nhỏ.
Thứ nhất, để được trở thành nhà cung cấp sản phẩm cho các tập đoàn bán lẻ
hàng đầu thế giới, nhà sản xuất Việt Nam sẽ phải điều chỉnh hàng loạt các kế
hoạch sản xuất của mình để có thể cho ra những sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế. Những tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ khắt khe hơn những tiêu chuẩn mà
trong nước đang áp dụng.
Thứ hai, các nhà bán lẻ nước ngoài khi vào Việt Nam có thể sẽ mang theo
hàng hóa từ các nhà cung cấp độc quyền và lâu năm của họ từ nước ngoài. Những
hàng hóa này chưa tính đến khả năng được bán với giá thấp hơn sản phẩm cùng
loại sản xuất trong nước thì hoàn toàn có thể vượt trội về chất lượng, mẫu mã, bao

bì. Do đó, sản phẩm xuất xứ nội địa sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khá gay gắt
và có thể sẽ đánh mất thị phần.
Thứ ba, nếu các nhà sản xuất nội địa có thể trở thành nhà cung cấp cho các
chuỗi cửa hàng bán lẻ hiện đại thuộc sở hữu của các doanh nghiệp nước ngoài,
14
14
15
nguy cơ bị các doanh nghiệp này chèn ép không thể không tính đến. Các tập đoàn
bán lẻ luôn mong muốn hàng hóa bán trong chuỗi các cửa hàng của mình có giá cả
cạnh tranh nhất. Vì vậy, họ sẽ tận dụng tối đa ưu thế và tiềm lực tài chính của mình
để gây sức ép lên nhà cung cấp bằng việc ký kết các hợp đồng dài hạn với giá cả
thường bị cố định, khó thay đổi. Bên cạnh đó, nhà sản xuất Việt Nam nói chung
đều thiếu kinh nghiệm trên thị trường quốc tế và năng lực khởi kiện khá hạn chế.
Do đó họ khó có thể bảo vệ quyền lợi của mình trên thị trường trước các nhà bán
lẻ hùng mạnh.
• Đối với người tiêu dùng
Mặc dù cơ hội tiếp cận với nguồn hàng phong phú hơn, giá cả cạnh tranh và
ổn định hơn là không thể phủ nhận, nguy cơ từ việc mở cửa là hoàn toàn có thể
xảy ra. Người Việt Nam từ trước đến nay vẫn coi trọng những giá trị truyền thống
phương Đông. Trong khi đó, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu đang lên kế hoạch xâm
nhập thị trường Việt Nam chủ yếu đến từ Bắc Mỹ và Tây Âu. Khi hoạt động ở Việt
Nam họ sẽ liên tục giới thiệu những mặt hàng mới, kể cả những mặt hàng chỉ phù
hợp với lối sống phương Tây nên khó tránh khỏi ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam,
tác động tiêu cực và làm mờ đi những giá trị truyền thống hàng ngàn năm của
người Việt.
3. Thuận lợi và khó khăn trong tương lai
3.1 Thuận lợi
3.1.1 Tốc độ tăng dân số cao, cơ cấu dân số trẻ, sức mua lớn
• Tốc độ tăng dân số
Việt Nam là quốc gia có số dân đông thứ ba trong khu vực ASEAN và đứng

thứ 13 thế giới. Dân số Việt Nam theo thống kê vào tháng 4 năm 2009 đã ở mức
trên 85,7 triệu người. Trong thời kỳ 10 năm từ 1999 đến 2002 dân số Việt Nam
tăng trung bình 1,2%/năm. Dù trong thời gian gần đây dân số Việt Nam đã có
những dấu hiệu tăng trưởng chậm lại so với 50 năm cuối thế kỷ 20 song vẫn cao
hơn tỷ lệ tăng dân số thế giới 1,16% hàng năm(Tổng cục thống kê 2009).
15
15
16
Cùng với việc dân số tăng lên hàng năm, tốc độ đô thị hóa cũng đang diễn
ra ở Việt Nam khá mạnh mẽ, tốc độ trung bình năm 2007 và 2008 đều ở mức trên
2,5%. Chúng ta có thể thấy rõ hiện tượng gia tăng dân cư thành thị qua biểu đồ
sau:
Biểu đồ III.1: số lượng dân cư sống ở các đô thị lớn ở Việt Nam 2004-2009
Nguồn: Tổng cục thống kê 2009
• Cơ cấu dân số
Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, Việt Nam vẫn là một nước có dân số trẻ:
dân số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người. Vì vậy, so với một số
quốc gia khác trong cùng châu lục như Singapo hay Nhật Bản, sức mua của dân số
Việt Nam được đánh giá cao hơn và đầy tiềm năng. Bên cạnh đó, tỷ lệ dân số Việt
Nam biết chữ thuộc vào khoảng 98%, đây là một trong những tỷ lệ cao nhất thế
giới. Điều này khá thuận lợi cho các doanh nghiệp bán lẻ hoạt động trên thị trường
Việt Nam trong việc thực hiện các chiến lược marketing, quảng cáo, xúc tiến mua
hàng.
• Sức mua hàng hóa
Thu nhập khả dụng của người dân ViệtNam liên tục tăng với tốc độ trung
bình 7%/năm trong những năm gần đây và được ước tính sẽ tiếp tục tăng trong
những năm tới. Sự tăng trưởng của thu nhập khả dụng tính theo đầu người của
người Việt Nam đã khiến sức mua của người dân nói chung tăng.
Bên cạnh đó, thu nhập khả dụng tăng cũng kéo theo chi tiêu của người dân
vào các loại hàng hóa bán lẻ cũng tăng mạnh, tạo đà tăng cho thị trường bán lẻ.

Theo dự báo, chi tiêu của người Việt Nam từ nay đến năm 2012 sẽ tăng khoảng
gần 15%/năm. Sự gia tăng về thu nhập khả dụng tính trên đầu người và chi tiêu
của người dân Việt Nam nói chung giai đoạn 2002-2012 sẽ được biểu hiện rõ qua
biểu đồ sau:
16
16

×