Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận triết ý thức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.63 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Triết học hiện sinh với đời sống xã hội hiện đại
ở Việt Nam hiện nay
Học viên
Mã số
Lớp

: Nguyễn Duy Anh
: 21K401168
: 21.02.NHD

Hà Nội, tháng 12 năm 2019


MỤC LỤC


3

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là một vấn đề
cấp thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố về chủ thể, họ còn bị chi
phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng, tức
là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo


điều kiện thuận lợi cho phát triển cá nhân. Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất
yếu phải xây dựng ý thức xã hội.
Nước ta hiện nay đang trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, hội nhập đa
chiều trên tất cả các lĩnh vực cho nên việc xây dựng ý thức xã hội mới đúng đắn là
điều cần thiết, từ đó sẽ có những định hướng phù hợp đã phát triển đất nước về
kinh tế và xã hội.
Chính vì những lý do trên, em xin chọn nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề về ý
thức xã hội và vận dụng xây dựng ý thức xã hội mới tại Việt Nam thời kỳ hội
nhập”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề về ý thức xã hội trong triết học từ đó vận dụng lý
luận triết học này để đưa ra định hướng xây dựng ý thức xã hội mới tại Việt Nam
hiện nay.


4

3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lê nin.
Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành và liên ngành. Bên cạnh đó, tiểu luận sử dụng một số biện pháp nghiên cứu
cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Tiểu luận đã phân tích, tổng hợp tài liệu để
viết tổng quan, đánh giá những điểm các tác giả đi trước đã làm được và khoảng
trống khoa học mà tiểu luận cần tiếp tục giải quyết.
4. Mục đích nghiên cứu
Trước tình hình hội nhập đa chiều, có rất nhiều yếu tố có thể tác động đến ý
thức xã hội Việt Nam hiện nay. Vì vậy, cần nghiên cứu quan điểm triết học về vấn
đề ý thức xã hội, từ đó đưa ra những định hướng đúng đắn về xây dựng ý thức xã

hội mới tại Việt Nam hiện nay.
5. Tính mới của đề tài
Trước đây đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về ý thức xã hội trên mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đề phân tích sự thay đổi trong tâm
lý xã hội, ý thức xã hội Việt Nam hiện nay.
Nhưng việc chỉ ra rõ những định hướng cụ thể để xây dựng ý thức xã hội mới
như thế nào, cần đảm bảo những yếu tố cốt lõi gì chưa được đề cập sâu. Chính vì
lý do này, em xin đưa ra bài tiểu luận nghiên cứu một số vấn đề triết học về ý thức
xã hội, từ đó liên hệ, vận dụng đưa ra những định hướng phát triển ý thức xã hội
mới tại Việt Nam giai đoạn hội nhập.


5

B. NỘI DUNG
I. Giới thiệu chung
Bài tiểu luận ““ Một số vấn đề về ý thức xã hội và vận dụng xây dựng ý thức
xã hội mới tại Việt Nam thời kỳ hội nhập” góp phần làm rõ một số đặc điểm tiêu
biểu của ý thức xã hội trên góc nhìn triết học.
Bài tiểu luận cũng bước đầu đề ra những định hướng phát triền ý thức xã hội
mới một cách đúng đắn, trên cơ sở lý luận triết học về ý thức xã hội. Xây dựng một
ý thức xã hội phát triển, hiện đại, đúng đắn sẽ góp phần không nhỏ vào sựu phát
triển của đất nước.
Kết cấu bài tiểu luận gồm ba phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Trong đó nội
dung được chia thành
II.

Kết quả nghiên cứu

1. Ý thức xã hội

1.1.

Khái niệm ý thức xã hội

Trong lịch sử tư tưởng nói chung và lịch sử triết học nói riêng, việc nghiên cứu
ý thức xã hội không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Từ khi triết học ra đời đến nay,
xung quanh vấn đề ý thức xã hội luôn là nơi hội tụ những khác biệt, tranh luận, đấu
tranh giữa các trường phái tư tưởng.
Lấy ý thức xã hội làm đối tượng nghiên cứu của mình, một trong những nhiệm
vụ của triết học là trả lời câu hỏi: Ý thức xã hội là gì?
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,…của những cộng động xã
hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định.


6

Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
khác nhau của xã hội, bao gồm những trạng thái tâm lý xã hội, những quan điểm
chính trị, tư tưởng, đạo đức, triết học. Ý thức xã hội phát triển cùng với sự phát
triển xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất.
Cần thấy sự khác nhau tương đối giữa giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý
thức cá nhân phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải bao giờ cũng thể hiện quan
điểm, tâm trạng, tình cảm của một cộng đồng xã hội. Ý thức cá nhân và ý thức xã
hội tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, thâm nhập vào nhau, làm phong phú cho nhau.
Ý thức cá nhân được hình thành trên cơ sở môi trường, điều kiện sống của cá nhân
cụ thể, do kết quả của sự giáo dục, trường đời cá nhân trải qua.
Khi ý thức cá nhân vươn lên tầm khái quát, phản ánh được cái chung của một
cộng đồng người nhất định thì khi đó, ý thức cá nhân chuyển hóa thành ý thức xã

hội.
1.2.

Kết cấu của ý thức xã hội

Ý thức xã hội là hiện tượng phức tạp, có thể xem xét, phân loại thành những
cấp độ khác nhau.
- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội bao gồm ý thức chính trị,
ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ ...
- Theo trình độ phản ánh người ta chia thành ý thức thông thường và ý thức lý
luận. Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm, v.v
của những cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt
động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận. Ý
thức xã hội thông thường phản ánh trực tiếp sinh động đời sống hàng ngày của con
người vì vậy, nó đa dạng, phong phú, sinh động. Ý thức lý luận là những tư tưởng
quan điểm đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được


7

trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó có thể phản ánh được
bản chất đời sống xã hội.
Ngoài ra người ta còn phân ý thức xã hội thành hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ
tư tưởng.
Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của
một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác
động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống
hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những

mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu
sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người. Những quan niệm ở trình độ
tâm lý xã hội còn ở trình độ kinh nghiệm, những yếu tố trí tuệ, tình cảm đan xen
nhau. Tuy nhiên, tâm lý xã hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày
của con người.
Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành
lý luận, thành các học thuyết về xã hội.
Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực
tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. Hệ tư tưởng được hình thành một cách
tự giác.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau
trong quá trình tác động đến thực tiễn. Hệ tâm lý xã hội tác động đến hệ tư tưởng
thể hiện ở chỗ, nó tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho các thành viên
của giai cấp trong việc tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp mình. Nó giúp cho hệ tư
tưởng bớt xơ cứng, sinh động, phong phú hơn. Ngược lại, hệ tư tưởng khoa học


8

giúp cho tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho
tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học sẽ làm cho những yếu tố tiêu cực của
tâm lý xã hội nảy sinh. Tuy nhiên, hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý
xã hội. Hệ tư tưởng không phải là “sự cô đặc” của tâm lý xã hội.
1.3.
a.

Các hình thái ý thức xã hội

Ý thức chính trị


Hình thái ý thức chính trị là bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh những quan
hệ kinh tế, chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc
hay giữa các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà
nước trong xã hội. Ý thức chính trị chỉ xuất hiện khi trong xã hội có nhà nước, giai
cấp.
Ý thức chính trị bao gồm ý thức chính trị thực tiễn được nảy sinh trực tiếp từ
thực tiễn chính trị của các chủ thể, thể hiện ở tình cảm chính trị, tâm trạng chính
trị, v.v Những trạng thái tâm lý chính trị thường không bền vững nhưng đóng vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của quần chúng nhân dân. Hệ tư
tưởng chính trị phản ánh trực tiếp, tập trung lợi ích giai cấp của một giai cấp nhất
định, nó thường được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của đảng chính
trị, luật pháp, chính sách của nhà nước của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị
được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp truyền
bá. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với các tổ chức chính trị. Ý thức chính trị của
giai cấp thống trị thông qua nhà nước tác động trở lại tới kinh tế và các hình thái ý
thức xã hội khác. Sự tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức chính trị đến kinh tế
và tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết vào tính tích cực, tiến
bộ hay không của chủ thể mang ý thức chính trị.


9

Trong hiện thực xã hội, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị chi phối
toàn bộ hoạt động, đời sống chính trị - tinh thần của xã hội.
b.

Ý thức pháp quyền

Ý thức pháp quyền ra đời gắn với xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức pháp
quyền là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp

luật; về quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội, của nhà nước, các tổ
chức xã hội trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật và xã hội thừa nhận,
thể hiện về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người; cùng những
nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức, tư tưởng pháp quyền của giai cấp thống trị
được thể chế hóa thành các điều luật, các quy định; trở thành những nguyên tắc
buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo. Pháp luật, thể hiện rõ rệt ý chí,
mục đích của giai cấp thống trị. Do vậy, mỗi nhà nước, mỗi chế độ chỉ có một hệ
thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền.
c.

Ý thức đạo đức

Ý thức đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nó hình thành rất sớm
cùng với tồn tại xã hội loài người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri
thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị
thiện - ác; lương tâm - trách nhiệm; hạnh phúc, công bằng, v.v và về hệ thống
những quy tắc, chuẩn mực đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã
hội và cá nhân với cá nhân trong xã hội. Mặt khác, nó còn bao hàm cả những cảm
xúc, những tình cảm đạo đức của con người.
Những giá trị phổ biến chung của ý thức đạo đức thể hiện trong các khái niệm
thiện, ác, công bằng, lương tâm, trách nhiệm. Trong xã hội có giai cấp thì ý thức
đạo đức cũng mang tính giai cấp.


10
d.

Ý thức khoa học


Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức phản ánh
hiện thực dưới dạng lôgíc trừu tượng và được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối
tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy. Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật,
quy luật. Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác góp
phần hình thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó. Ví dụ, ý
thức chính trị và chính trị học; ý thức đạo đức và đạo đức học, v.v.
e.

Ý thức thẩm mỹ

Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ
với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo “cái đẹp”. Nghệ thuật là hình thức biểu hiện
cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã
hội, nhưng khác với khoa học, triết học, nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình
tượng nghệ thuật hết sức sinh động, cụ thể. Nghệ thuật nảy sinh rất sớm từ khi xã
hội chưa phân chia thành giai cấp.
Hình tượng nghệ thuật cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực
nhưng thông qua cái cá biệt, cụ thể, cảm tính, sinh động. Nghệ thuật phản ánh tồn
tại xã hội nhưng gián tiếp.
Trong xã hội có giai cấp thì ý thức nghệ thuật cũng mang tính giai cấp. Triết
học Mác-Lênin khi đề cập đến tính giai cấp của nghệ thuật, không hạ thấp mà còn
nhấn mạnh tính dân tộc và tính nhân loại.
f.

Ý thức tôn giáo

Bản chất của ý thức tôn giáo là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo. Thực
chất của quan niệm tôn giáo là người ta thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên,



11

quan hệ xã hội thành cái siêu nhiên, thần thánh Ý thức tôn giáo với tính cách là
một hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen
của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.
Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra
và truyền bá trong xã hội. Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo tác động, bổ
sung lẫn nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một sắc thái riêng,
một đặc trưng tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo củng cố, “chứng minh” cho các
hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng, làm cho chúng có tính tư tưởng tôn
giáo.
Ý thức tôn giáo thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng đền bù hư ảo. Điều này
nói lên rằng, tôn giáo có khả năng bù đắp những thiếu hụt nhất định mà trong hiện
thực con người chưa đạt được.
Tôn giáo trong hình thức phát triển của nó bao gồm:
- Niềm tin tôn giáo;
- Tín điều tôn giáo;
- Tổ chức tôn giáo (giáo hội).
Trong đó, niềm tin tôn giáo là cơ sở của ý thức tôn giáo. Giải quyết vấn đề tôn
giáo (niềm tin tôn giáo) là một quá trình lâu dài, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã
hội, khoa học - kỹ thuật và đời sống tinh thần xã hội.
2. Định hướng xây dựng ý thức xã hội mới tại Việt Nam thời kỳ hội nhập
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức
thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc



12

dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng
ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con
người mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội
mới.
Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã
hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng.
Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả
thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội.
2.1.

Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân- đây là tư tưởng cơ bản khẳng định
chủ thể tích cực cũng là đối tượng phục vụ chính của xã hội mới. Ý thức xã hội
mới phản ánh lợi ích của nhân dân và chính do nhân dân xây dựng. Tinh thần này
được thể hiện trong các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong các
chính sách cụ thể của từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, mọi chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân,
phản ánh lợi ích của nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây
dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
xây dựng, tuyên truyền, quảng bá, phát triển ý thức xã hội mới.
Như vậy, có thể nói, sự nghiệp đổi mới không thể thành công nếu thiếu sự đóng

góp của nhân dân; công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, bảo tồn giá trị truyền


13

thống dân tộc, kế thừa những cái tốt, lọc bỏ những thói hư tật xấu, chống sự xuyên
tạc, bóp méo của các thế lực thù địch không thể thành công nếu thiếu sự đóng góp
của nhân dân. Mặt khác, phải thấy rằng, việc xây dựng ý thức xã hội mới cũng
không thể thành công nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong
của giai cấp cách mạng, cũng là đội tiên phong của toàn dân tộc, bởi Đảng ta là
một tổ chức chính trị bao gồm những cá nhân ưu tú nhất của xã hội.
Tuy nhiên, để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm
nâng cao năng lực, sức chiến đấu mà trước hết là bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ
của Đảng.
2.2.

Xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho
văn hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành
nền tảng tinh thần của xã hội.

Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống tinh
thần. Đó là hai mặt không thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ
có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình
phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết định trong quá trình
phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất,
văn hoá đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng
đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn
hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được chuyển tải vào các lĩnh
vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. tạo thành môi trường

văn hoá nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong điều
kiện hiện nay, văn hoá còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế
thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt những mặt trái của kinh tế
thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản


14

sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn hóa
Việt Nam (năm 1943), trong các văn kiện sau đó của Đảng. Ngay trong Đề cương
văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh tế,
chính trị, văn hoá và ba mặt trận này có quan hệ biện chứng với nhau, tạo thành
động lực đưa cách mạng tới thành công. Và cũng ở đây, văn hoá được xác định
"gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Như vậy, văn hóa là cốt lõi của ý thức xã
hội và xây dựng nền văn hóa mới là cốt lõi của việc xây dựng ý thức xã hội mới.
Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương châm xây dựng văn hóa mới là:
dân tộc, khoa học và đại chúng.Đảng ta đã chỉ rõ, xã hội mà chúng ta xây dựng là
xã hội có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mốc đánh giá sự đổi mới
toàn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII - Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Trong Văn kiện này, Đảng ta đã khẳng định: trong quá trình xây dựng
nền văn hóa mới, chúng ta không chỉ chú ý giữ gìn, kế thừa những giá trị và bản
sắc văn hóa dân tộc, mà còn phải chú trọng tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa của
nhân loại.
2.3.

Xây dựng ý thức xã hội mới gắn với tăng cường học tập lý luận, tuyên

truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở
thành nền tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn
Đảng và nhân dân.

Bài học đầu tiên từ 5 bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra sau 20 năm đổi mới là:
"Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã


15

hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Đây không
phải là chủ trương mới, bởi tinh thần này đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu cách mạng. Năm 1939, khi đưa ra quan điểm
của mình về đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ
(1936-1939), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " Phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa
Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và chính trị cho các đảng viên"(3). Khi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai đoạn quyết định, trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Người đã khẳng định: "Học tập chủ
nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức - là những việc cần
kíp của Đảng"(4). Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, trong Diễn văn khai
mạc, một lần nữa, Người khẳng định: "Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác
- Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng"(5). Vấn đề này tiếp tục được
Đảng ta khẳng định qua các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay,
nó được coi là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Bởi lẽ, để
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bên
cạnh yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng, đảng viên còn
phải có phẩm chất chính trị tốt, kiên định lập trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội... Do vậy, xây dựng ý thức xã hội mới cần tiếp tục tăng cường hoạt động lý
luận, nghiên cứu sâu rộng và có những bổ sung về lý luận để làm phong phú kho

tàng tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới.
2.4.

Xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ
giữa “xây” và “chống”.

Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó không hình
thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây
dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới, thành động
lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì vậy, cần xây


16

dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới
và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con đường xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại, tri
thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học
và công nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta hiện
nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng
cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và
phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý
thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng chống tham
nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu
hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với
các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân
tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống

nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm không theo đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ
đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; không kịp thời và kiên quyết
phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái... Tại hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ chín, khoá IX, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Thường xuyên
chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư
tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh
không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá nhân, những biểu hiện cơ hội, thực dụng,
bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch, chủ động đối phó


17

với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân
quyền chống phá cách mạng nước ta"(6).
Không dừng ở góc độ hệ tư tưởng, trong tâm lý xã hội cũng cần có những biểu
hiện phải khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Thói quen và truyền
thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ”(7).
Hiện nay, chúng ta cần phải khắc phục những biểu hiện tâm lý vốn được coi là hậu
quả của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp - tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại,
xin cho, đối phó; khắc phục tâm lý của nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ lâu dài
của lịch sử và hiện vẫn còn tồn tại là tâm lý lạc hậu, kinh nghiệm chủ nghĩa, tuỳ
tiện, đố kỵ, coi thường pháp luật và cả những tâm lý vốn khá phổ biến ở những
nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, như tâm lý trọng nam khinh nữ, tâm lý
gia trưởng... Đặc biệt, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những tâm lý này
còn có nhiều biểu hiện, biến tướng và gây hậu quả nặng nề, biến họ thành những
kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, v.v..
3. Kết luận
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả,
chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới,
con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”(8). Ý thức xã hội mới
luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới.
Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất
của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời
gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong công tác tư tưởng, nhưng cũng
có nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế


18

mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết
quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hoá và con
người luôn có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
Thứ hai, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.
Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Đảng
cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa...
Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị
truyền thống của dân tộc. Đó không chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền
thống, mà còn phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên
ngoài. Quá trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở
nước ta hiện nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị
tinh thần truyền thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh

thần cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống, đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn kết dân tộc phải được thể
hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân và lợi
ích cộng đồng, xoá bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo vì một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục,
phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên
truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.


19

Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện
thông tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán
những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công tác giáo dục, tuyên
truyền chủ nghĩa Mác -Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình
thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác -Lênin hiệu quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính
chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc
phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của
các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình
thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi tính tự giác cao.
Vì vậy, thông qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những biểu
hiện của khuynh hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo đức.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ

quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất
bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo
thị hiếu thấp kém... Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các hình thức
dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã hội mới một
cách chủ động và trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng
góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể lãnh đạo,
quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng.


20

C. KẾT LUẬN
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc
phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của
các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình
thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi tính tự giác cao.
Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng
ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con
người mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội
mới.


21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.17 - 18.
(2) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 698.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr.139.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.167.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.201.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ chín, khoá IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.147.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 287.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr. 15.



×