Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tài liệu Tiểu luận triết học - Thực trạng thi cử của SV hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.37 KB, 16 trang )

- - -  - - -

Tiểu luận triết học:
Thực trạng thi cử của
SV hiện nay


MỤC LỤC

Tiêu luân triêt học:...................................................................................................1
̉
̣
́
Thực trạng thi cử của SV hiện nay........................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
Phần nội dung..........................................................................................................4
Chương I: “Thi được mở sách”, phải chăng đó là sự đổi mới tư duy rất
mạnh mẽ?.................................................................................................................4
1. Thực trạng việc thi cử ở nước ta hiện nay.......................................................4
2. Mối quan hệ giữa cách học và cách thi. Nhìn từ cặp phạm trù: Nội dung
và hình thức............................................................................................................5
3. Cải cách cách dạy, cách học và cách thi hiện nay..........................................7
Chương II: Một số biện pháp để thay đổi cách học và cách thi trong nhà
trường......................................................................................................................11
1. Áp dụng phương pháp dạy học tích cực.........................................................11
2. Tổ chức song song các hình thức thi...............................................................12
3. Một số biện pháp khác.....................................................................................14
Phần kết luận........................................................................................................15


PHẦN MỞ ĐẦU


Trong một lần gặp mặt hiệu trưởng các trường đại học ngày 28 tháng 8
năm 2007, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã đề cập đến
“Sứ mạng và những bài toán của giáo dục đại học Việt Nam”. Ông đã phát biểu:
“Sau khi tốt nghiệp đại học và đi làm không ai cấm chúng ta mở sách để thiết kế
một cái máy hay giải một bài toán kinh tế. Vậy tại sao ở bậc đại học, chúng ta lại
cấm mở sách khi thi? Hãy đào tạo như một môi trường đi làm”.
Vấn đề được đề cập lần đầu tiên bởi chính người đứng đầu trong việc
hoạch định những quốc sách cho nền giáo dục Việt Nam. Vậy ta thấy được tầm
quan trọng của vấn đề này. Từ trước đến giờ việc mở sách, tài liệu trong lúc thi
hay làm bài kiểm tra mặc nhiên bị coi là gian lận và được gọi chung bằng một từ
là “quay cóp”. Hiện tượng này đã thành một vấn nạn lan tràn trong giới học
sinh, sinh viên Việt Nam. Tác hại của vấn đề này hiển nhiên ai cũng rõ: đấy là
sự bất công trong thi cử, sự đối phó, rèn luyện học sinh, sinh viên thành người
gian lận và quen với sự gian lận.
Trong phạm vi tiểu luận này, em xin phép đề cập đến thực trạng thi cử của
chúng ta hiện nay, mối quan hệ giữa cách học, cách dạy và cách thi, bàn luận
vấn đề “Thi được mở sách” – Phải chăng đó là sự đổi mới tư duy rất mạnh mẽ?


Phần nội dung
Chương I: “Thi được mở sách”, phải chăng đó là sự đổi mới tư duy rất mạnh
mẽ?

1. Thực trạng việc thi cử ở nước ta hiện nay
Việc dạy và học của chúng ta hiện nay chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu
thi cử. Học để thi. Dạy để thi đua có thành tích thi cử tốt nhất. Do đó việc giảng
dạy ở đây chủ yếu là truyền thụ các kiến thức, luyện các kỹ năng làm bài kiểm
tra và bài thi mà ít để ý đến việc thông qua dạy kiến thức để dạy học sinh cách
suy luận khoa học, rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo cho học sinh, ít khuyến
khích các tìm tịi khám phá. Nói chung việc giảng dạy hiện nay chủ yếu là dạy

kiến thức mà ít dạy cho học sinh cách học, cách suy nghĩ, cách giải quyết các
vấn đề một cách thông minh, độc lập và sáng tạo.
Để đánh giá một q trình dạy và học, tất nhiên phải có kiểm tra, thi cử.
Thế nhưng do cách kiểm tra, thi cử hiện nay ở nước ta quá lạc hậu (từ cách thức
đến nội dung) nên dẫn tới việc dạy và học mang tính đối phó như đã nói trên.
Bên cạnh vấn đề thi cử thì nội dung chương trình, sau nhiều lần cải tiến, xem ra
vẫn quá nặng nề, ôm đồm tạo khó khăn cho việc dạy và học một cách khoa học.
Vậy thì chúng ta phải thay đổi theo hướng nào?
Thi và kiểm tra là để nhận biết đối tượng đã lĩnh hội kiến thức như thế
nào cũng như khả năng của họ. Mặt khác, thi và kiểm tra học sinh đồng thời
cũng là để người truyền đạt có dịp nhận thức lại năng lực của chính mình, để từ
đó tự điều chỉnh. đó là hai mặt của một vấn đề thi và vì bấy lâu nay ngành giáo
dục xem nhẹ một mặt nên các nguy cơ về giáo dục đã và sẽ xuất hiện.
Tôi đã phải chịu đựng thảm cảnh “thầy đọc, trò chép” triền miên. nhiều
khi thấy bức bối vô cùng mà không làm thế nào thay đổi được. Lối đào tạo như
thế bóp chết tính sáng tạo của người học mà chỉ sản sinh ra một thế hệ sinh viên
thụ động và chỉ biết tuân thủ mệnh lệnh. Nên chăng, huỷ bỏ cách giảng dạy đọc


chép nhàm chán hiện nay và thay thế bằng các phương pháp giảng dạy hiện đại
như thầy hướng dẫn trò, trọ tự học và nâng cao các buổi thảo luận, đối thoại, đi
thực tế…
Tuy nhiên, vấn đề này không thể giải quyết một sớm một chiều mà địi
hỏi phải có sự quyết tâm của chính phủ, sự đồng thuận của toàn xã hội và hơn
thế nữa là trái tim, khối óc của những nhà giáo Việt Nam.
Thực tế đã chứng minh, trong xã hội hôm nay những ý tưởng, chủ trương
đúng đắn phù hợp với thời cuộc luôn được dư luận xã hội đón nhận và cổ vũ.
những đổi mới mang tính cách mạng trong giáo dục có ý nghĩa hết sức to lớn
cho sự phát triển và hội nhập của nước ta.
Hãy tin tưởng vào cách làm mới này mặc dù có nhiều khó khăn. Khó khăn

vì đây là sự đổi mới tư duy rất lớn, một sự chuyển đổi từ triết lý giáo dục Nho
giáo Khổng tử sang một triết lý mới, một tư duy mới.
2. Mối quan hệ giữa cách học và cách thi. Nhìn từ cặp phạm trù: Nội dung
và hình thức
Đánh giá là một khâu quan trọng khơng thể thiếu được trong qúa trình
giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo
dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu
cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu thập và xử lý thơng tin về trình
độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và ngun
nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo
viên và nhà trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ
hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu
mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng
phát triển trí thơng minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt
các kiến thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm


xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia
đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học
tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên, việc kiểm tra, đánh
giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu
giáo dục của môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ
thực hiện các mục tiêu được xác định.
Hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học ở trường phổ thông, học sinh được
hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là
được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.
Hiện tại có một số hình thức thi, kiểm tra tồn tại song song. Mỗi hình thức

có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Và hình thức thi thế nào cũng ảnh
hưởng một cách tương đối đến cách học của người học.
Thi tự luận hiện nay với cách ra đề đòi hỏi người học phải học thuộc từng
câu, từng chữ trong sách giáo khoa là không phù hợp. Người học đối phó, nhồi
nhét một lớn kiến thức lớn trong một thời gian ngắn, học xong sẽ quyên ngay để
cịn nhồi nhét mơn khác. Do vậy, cách học và cách thi như vậy không khoa học.
Thi mở sách là một hình thức thi rất hay vì sẽ kích thích được khả năng
sáng tạo của mỗi sinh viên. Nhiều sinh viên có ý kiến: dù biết chắc câu hỏi trong
đề thi sẽ khó và khơng có trong sách nhưng cảm giác trước lúc đi thi rất thoải
mái, không lo lắng căng thẳng như các môn thi khác.
Tuy nhiên, không phải môn học nào chúng ta cũng áp dụng được cách
làm này. Với những môn học thuộc khối xã hội, nếu được mở sách sẽ tránh
được tình trạng học vẹt và tăng khả năng sáng tạo của sinh viên. Nhưng với
những mơn buộc phải nhớ cơng thức thì mới có thể làm bài tốt như toán, Lý,
Hoá… nếu được sử dụng tài liệu thì càng làm sinh viên ỷ lại, bỏ bê việc ôn tập.
Thi được mở tài liệu, sinh viên có thể chủ động tìm tài liệu tại internet,
sách báo, chứ khơng chỉ bó buộc những kiến thức trong sách giáo khoa, do vậy
đối với những sinh viên có ý thức học thì lượng kiến thức mà các bạn thu nạp


được sẽ rất lớn, sâu sắc và toàn diện hơn. Ngồi ra, sinh viên sẽ khơng cịn cảm
giác nặng nề bởi áp lực phải học thuộc từng câu, từng chữ trong sách giáo khoa,
nhờ vậy mà nâng cao khả năng sáng tạo của sinh viên rất nhiều.
Thi được mở sách, sinh viên phải học một cách thực chất, chứ không thể
học đối phó. Bởi vì, có mở sách mà khơng học thì cũng khơng biết chỗ nào mà
mở, khi mở được chỗ cần thiết thì cũng khơng đủ thời gian. vậy nên cách thi
kiểu này, sinh viên không thể ỷ lại hồn tồn ở tài liệu mà phải có kiến thức về
mơn học đó.
Tuy nhiên việc ra đề thi sẽ rất khó khăn. Mở sách khi thi, cách học chủ
động còn đòi hỏi cách dạy khác và cách ra đề khác.

Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học
tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá
khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm, chú ý hơn tới đánh giá cả
qúa trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực,
chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn
tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này địi hỏi giáo viên bộ mơn đầu tư nhiều cơng
sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát
hoạt động này.
Vấn đề đặt ra là thay đổi cách thi trước hay thay đổi cách học trước.
Không lẽ không thay đổi cách thi để học vẹt, thi dối tiếp tục diễn ra. Thực tế, thi
cử như thế nào sẽ quyết định các thức học ra sao. Câu hỏi này đặt ra khơng dễ
có lời giải đáp.
3. Cải cách cách dạy, cách học và cách thi hiện nay
a. Các đối tượng trong hoạt động cải cách cách dạy, cách học và cách thi::


Giáo viên: giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những

thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình. Giáo viên
vừa phải có kiến thức chun mơn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết
ứng xử tinh tế, biết sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, biết định hướng


phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự
do của học sinh trong hoạt động nhận thức.


Học sinh: dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được

những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như:

giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết
quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở
mọi nơi, mọi lúc, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, logic, hình tượng,
tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế..


Chương trình và sách giáo khoa: phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi

nhét, tạo điều kiện cho thầy trị tổ choc những hoạt động học tập tích cực, giảm
bớt những thông tin buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng
cường các bài tốn nhận thức để học sinh tập giải, giảm bớt những câu hỏi tại
hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí thông minh, giảm bớt những kết luận
áp đặt, tăng cường gợi ý để học sinh tự nghiên cứu phát triển bài học.


Thiết bị dạy học: thiết bị dạy học là điều kiện khơng thiếu được cho việc

triển khai chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai
đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học
sinh. đáp ứng yêu cầu này, phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận
lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập hoặc các hoạt động nhóm.


Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức

dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học
hợp tác.
b. Cải cách như thế nào?
Phương pháp cổ truyền mà hiện nay nước ta đang áp dụng phổ biến còn
khá nhiều những bất cập. Tuy nhiên cần khắc phục các khuyết điểm và khai thác

các yếu tố tích cực trong các phương pháp dạy học truyền thống:


Đối mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động

học tập của học sinh khơng có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các
phương pháp dạy học truyền thống, hay phải "nhập nội" một số phương pháp xa


lạ vào qúa trình dạy học. Vấn đề là ở chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích
cực của phương pháp dạy học hiện có, đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số
phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với hồn cảnh điều kiện dạy
và học cụ thể.


Phương pháp thuyết trình là một trong những phương pháp dạy học

truyền thống được thực hiện trong các hệ thống nhà trường đã từ lâu. Đặc điểm
cơ bản nổi bật của phương pháp thuyết trình là thơng báo - tái hiện. Phương
pháp này chỉ rõ tính chất thơng báo bằng lời của thầy và tính chất tái hiện khi
lĩnh hội của trị. Thầy giáo nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, chuẩn bị bài
giảng và trực tiếp điều khiển thông báo luồng thông tin tri thức đến học sinh.
Học sinh tiếp nhận những thơng tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo
lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
Như vậy, những kiến thức đến với học sinh theo phương pháp này gần
như đã được thầy "chuẩn bị sẵn" để chờ thu nhận, sự hoạt động của trò tương
đối thụ động. Phương pháp thuyết trình chỉ cho phép người học đạt đến trình
độ tái hiện của sự lĩnh hội tri thức mà thơi. Do đó, theo hướng hoạt động hóa
người học, cần phải hạn chế bớt phương pháp thuyết trình thơng báo - tái

hiện, tăng cường phương pháp thuyết trình giải quyết vấn đề. Đây là kiểu dạy
học bằng cách đặt học sinh trước những bài toán nhận thức, kích thích học
sinh hứng thú giải bài tốn nhận thức, tạo ra sự chuyển hóa từ qúa trình nhận
thức có tính nghiên cứu khoa học vào tổ chức qúa trình nhận thức trong học
tập. Giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi học sinh tự mình
giải quyết vấn đề đặt ra. Theo hình mẫu đặt và giải quyết vấn đề mà giáo viên
trình bày, học sinh được học thói quen suy nghĩ lơgic, biết cách phát hiện vấn
đề, đề xuất giả thuyết, thảo luận, làm thí nghiệm để kiểm tra các giả thuyết
nêu ra.


Thuyết trình kiểu đặt và giải quyết vấn đề thuần túy do giáo viên

trình bày cũng đã có hiệu quả phát triển tư duy của học sinh. Nếu được xen kẽ


vấn đáp, thảo luận một cách hợp lý thì hiệu quả sẽ tăng thêm. Trong phạm vi
chương một, chúng ta đã xem xét vấn đề ở một số góc cạnh khác nhau. Trên cơ
sở đó,em mạn phép đưa ra một số những biện pháp để khắc phục những bất cập
còn tồn tại và phát huy những ưu điểm.


Chương II: Một số biện pháp để thay đổi cách học và cách thi trong nhà trường
1. Áp dụng phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.

PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học
chứ khơng phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên
để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy
theo phương pháp thụ động.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt
động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thơng qua đó tự lực khám phá
những điều mình chưa rõ chứ khơng phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế,
người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra
theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, khơng rập theo những khn
mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên khơng chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà
cịn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh
biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.


Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì
sẽ tạo cho họ lịng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt
hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập
thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường
phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có
sự hướng dẫn của giáo viên.

Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ
đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi
học sinh.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ khơng cịn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời
hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên khơng cịn
đóng vai trị đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học
sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình.
2. Tổ chức song song các hình thức thi
Dân gian có câu: “Thi gì học nấy”. Cách đánh giá, chấm điểm ở cuối mỗi
học phần ĐH sẽ định hướng cách học và rèn luyện của sinh viên. Nếu bài thi chỉ
kiểm tra kiến thức đã học trong học phần thì sinh viên sẽ tập trung vào việc học
thuộc lòng kiến thức đã học để hy vọng đạt điểm cao. Cách tổ chức thi cuối học
phần hiện giờ ở ĐH Việt Nam phổ biến là kiểm tra viết (hoặc trắc nghiệm).
Cách thi ấy có ưu điểm: Chi phí tổ chức ít. Dễ thực hiện. Có thể thực hiện đánh
giá một lúc nhiều sinh viên.
* Nhược điểm của cách kiểm tra viết (hay trắc nghiệm):


Chỉ kiểm tra được khả năng nhớ của sinh viên, khó kiểm tra khả năng
sáng tạo vì thời gian kiểm tra quá ít (từ 45 phút đến 180 phút). Cách kiểm tra
này chỉ khuyến khích sinh viên trau dồi bộ nhớ, khơng khuyến khích sinh viên
sáng tạo. Nhu cầu sáng tạo của sinh viên dần mất đi. Khả năng học vẹt dần tăng
lên.
Những khuyết điểm của cách kiểm tra viết cộng với chương trình học lạc
hậu nhiều năm, phương pháp giảng dạy cũ (đọc - chép), không tinh thông ngoại
ngữ khiến sinh viên theo chương trình đào tạo đại học Việt Nam kém hẳn khả

năng cạnh tranh trong thị trường nhân lực chất lượng cao.
Khả năng thua trên thị trường nhân lực của sinh viên Việt Nam khó tránh
khỏi so với sinh viên được đào tạo theo chương trình đào tạo của nước ngoài,
đặc biệt khi chúng ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Bộ GD-ĐT cho các trường ĐH có quyền đổi mới chương trình dạy. áp
dụng nhiều hình thức linh hoạt trong cơ chế kiểm tra, đánh giá sinh viên: Kết
hợp thi viết (5 điểm) với làm tiểu luận theo từng đề tài do giảng viên hướng dẫn
(5 điểm). Kết hợp thi viết (5 điểm) với điểm trung bình bài thu hoạch hằng tuần
(5 điểm). Giảm số giờ lên lớp.
Hướng dẫn sinh viên tập trung vào tự học, tìm kiếm tư liệu trên mạng,
trên sách tham khảo, làm việc theo nhóm. Học tập chuyên cần là bổn phận của
sinh viên. Lớp trưởng điểm danh từng buổi học, báo cáo với giảng viên. Tùy
mức độ chuyên cần, giảng viên có thể trừ bớt điểm ở kết quả cuối học phần.
Sinh viên ra trường chỉ nhận bằng tốt nghiệp nếu có trình độ ngoại ngữ (TOEFL,
IELTS, TOEIC...) theo quy định thống nhất.
Mỗi giảng viên cần lập một trang web cá nhân, giới thiệu mơn học mình
giảng dạy, các tài liệu tham khảo, giáo trình chính của mơn học, những yêu cầu
cơ bản về học tập và cách đánh giá của bộ môn, lịch thi dự kiến.


3. Một số biện pháp khác
Thực tế cho thấy, người học không thể hoặc không cần gian lận trong thi
cử nếu tổ chức học tập và thi cử nghiêm túc, hợp lý. Để làm tốt vấn đề này, cần
phải:


Thay đổi hồn tồn cách đánh giá theo q trình cơng tác và học

tập chứ không phải chỉ kết quả và không chỉ bằng điểm số, có những nhận xét
của từng giảng viên đối với từng sinh viên cụ thể. Môn nào sẽ phụ trách từ a đến

z kể cả coi thi và chấm điểm.


Lấy người học làm trung tâm, tăng cường tự học, phát huy tính chủ

động, sáng tạo của người học. Điều này giúp cho người học chủ động tiếp thu
được kiến thức, và vì thế họ khơng cần phải gian lận trong thi cử. Thực hiện
điều này đòi hỏi phải đổi mới phương pháp giảng dạy. Để người thầy có thể đổi
mới phương pháp giảng dạy, ngồi những vấn đề về điều kiện trang thiết bị dạy
học, cần phải có đánh giá, xếp loại khách quan từ phía nhà trường và người học
về giáo viên.


Tổ chức thi cử nghiêm túc, đúng quy chế và phù hợp. Cần xử lý

nghiêm túc người coi thi và người thi vi phạm quy chế thi cử. Thực tế cho thấy,
giáo viên coi thi khơng nghiêm túc thường khơng bị xử lý gì, hoặc chỉ xử lý nhẹ
nhàng. Và người thi cũng vậy. Điều này làm cho những người coi thi và thi
nghiêm túc bị ảnh hưởng theo, và dần dần “lơi lỏng” kỷ cương, nề nếp. Thay đổi
phương pháp đánh giá kết quả học tập, làm sao để có thể đánh giá được suốt cả
q trình học tập, để người học khơng phải và khơng thể đối phó, gian lận khi
thi cử.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản, theo tôi, để có thể hạn chế được vấn
nạn tiêu cực thi cử trong giáo dục hiện nay. Rất mong sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và các bạn để nền giáo dục của chúng ta được thực chất hơn, phát triển
hơn.


Phần kết luận
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học cũng đã được xác định

trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được
cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15
(4 - 1999). Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Có thể nói cốt lõi của việc đổi mới dạy, học và thi là hướng tới hoạt động
học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Khi bắt đầu việc học thì mỗi người đều mong muốn có một kết quả tốt
nhất, đó là mong muốn chính đáng và mang lại lợi ích khơng chỉ cho bản thân
mà cịn cho cả xã hội.
Trong phạm vi nghiên cứu của tiểu luận, em chỉ mạn phép đề cập đến một
vấn đề mà xã hội đang quan tâm. Qua đó cũng bày tỏ quan điểm của em là đối
với mỗi người học chúng ta nên lựa chọn cho mình một cách học tập thật tốt,
phù hợp với bản thân để khơng phí hồi thời gian học tập. Cách học như thế nào
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thi, dù hình thức thi như thế nào.




×