Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Văn hóa tộc người Nùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.09 KB, 27 trang )

Văn hóa tộc người Nùng
2.1. Ẩm thực
Người Nùng ăn cơm tẻ là chủ yếu. Trong những ngày lễ, tết, đồng bào thường
làm nhiều loại bánh từ gạo và có tục uống rượu bằng thìa. So với người Tày, người
Nùng ăn Ngô nhiều hơn. Ngô xay thành bột nấu cháo đặc như bánh đúc. Trong bữa
ăn, ngoài rau, dưa, còn có thịt cá nhưng không nhiều. Thức ăn thường xào, rán ít
luộc. Các ngày lễ tết có nhiều loại bánh, khi có khách người Nùng thường chúc
rượu nhau bằng thìa. Đây là nét độc đáo trong phong cách ăn uống của đồng bào
Nùng. Người Nùng không ăn trầu như các dân tộc khác, thường khi nam nữ đến
tuổi trưởng thành đều bịt một chiếc răng vàng ở hàm trên.
2.2. Trang phục
Nam, nữ đến tuổi trưởng thành đều bịt một chiếc răng bằng vàng ở hàm trên
và như thế được xem là làm đẹp, là người sang trọng. Phụ nữ mặc áo năm thân và
cài một hàng cúc bằng nút vải phía bên nách phải. Tùy từng nhóm Nùng địa
phương mà áo dài, ngắn, rộng, hẹp khác nhau, nhưng ở đoạn cổ tay và lá sen bao
giờ cũng đắp một miếng vải và bốn túi áo không có nắp. Nam, nữ đều mặc một loại
quần nhuộm màu chàm, cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân. Phụ nữ Nùng
thường đeo tạp dề trước bụng, khi gồng gánh còn mang thêm miếng nệm vai. Điểm
khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách đội khăn và các loại
khăn trang trí khác nhau đôi chút. Nam mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, với một hàng cúc
vải và bốn túi không có nắp.
2.2.1. Nữ phục
Hiện tại, dân tộc Nùng sinh sống ở nước ta tự phân thành nhiều nhóm địa
phương, mà sự khác biệt giữa họ chỉ là sắc thái văn hoá thể hiện qua tiếng nói,
phong tục, lễ nghi, trong đó dễ thấy hơn cả là trang phục cổ truyền, đặc biệt là nữ
phục. Về phương diện loại hình các bộ phận trang phục, nữ phục Nùng gồm loại áo
cánh ngắn 5 thân và 4 thân, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu,…Tuy nhiên
bản thân người Nùng cũng như các dân tộc láng giềng khác vẫn dễ dàng nhận ra
đâu là người Nùng, trước hết nhờ vào màu sắc vải may mặc, một số chi tiết trong
cách thức may cắt, thói quen ưa mặc rộng hay hẹp và hoa văn trang trí trên trang
phục. Nữ phục Nùng Giang màu xanh nhạt, Nùng Dín màu xanh thẫm hay tím


than, Nùng Lòi màu xanh đen hơi ngả phớt màu. Phụ nữ Nùng mặc cả loại áo ngắn
5 thân và 4 thân. Áo ngắn 4 thân: cổ áo tròn, xẻ ngực, nẹp và gấu áo rộng, hai túi
nhỏ ở vạt trước, cài 9 hàng cúc vải ở nẹp áo. Loại áo này phần lớn dùng mặc trong
nhà, đi lao động hay mặc trong áo dài năm thân.Chỉ riêng nhóm Nùng Dín thì áo
ngắn 4 thân lại là loại áo mặc chính, còn loại áo 5 thân may ngắn, chỉ vừa che kín
bụng, dùng mặc trong nhà, khi đi ngủ, mặc lót trong loại áo 4 thân khi đi ra khỏi
nhà. Loại áo 4 thân của Nùng Dín may cắt khá độc đáo. Áo may thành hai lớp vải,
lớp ngoài vải dầy, lớp trong vải mỏng hơn. Ống tay áo rộng, dài tới cổ tay, gần cửa
tay có đáp thêm một khoanh vải khác màu. Nẹp áo ngực đơm hàng cúc bạc 13
chiếc. Phụ nữ Nùng An, Nùng Inh, Nùng Giang, Nùng Phàn Slình đều mặc loại áo
ngắn năm thân ở trong nhà cũng như khi ra ngoài đường. Nét tương đối khác biệt
của loại áo năm thân này là cổ áo thường may liền với nẹp áo xuôi về phía nách
bên phải, trên đó có thể trang trí những miếng vải khác màu hay dải hoa văn.
Loại áo dài năm thân của phụ nữ Nùng cũng như loại áo dài năm thân của nhiều
dân tộc láng giềng khác. Giữa các nhóm Nùng, loại áo dài này chỉ khác biệt đôi
chút, thể hiện ở độ dài ngắn, rộng hẹp, hoa văn trang trí,…Thí dụ, áo dài của Nùng
Giang, phần vải khác màu khâu đáp dọc nẹp áo ngực và cửa tay kích thước lớn hơn
so với áo dài của Nùng Lòi và Nùng Inh, trong khi đó áo của phụ nữ Nùng An lại
để trơn đồng màu. Chính tên gọi Nùng Khen Lài (Nùng tay hoa) là chỉ việc trang trí
những khoang vải màu trên cánh tay áo dài 5 thân này. Độ dài của áo cũng có sự
khác biệt áo phụ nữ Nùng Xuồng khá dài, phủ quá gối, trong khi áo phụ nữ Nùng
An chỉ vừa phủ mông, còn áo Nùng Phàn Slình thì ngắn hơn nữa, chỉ quá thắt
lưng…Phụ nữ Nùng Dín khi đi lấy chồng may chiếc áo mới có trang trí đặc biệt,
gọi là May Chát Shựa. Loại áo này kiểu xẻ ngực, 4 thân như áo ngày thường, nhưng
đây là áo mới, trang trí công phu trên cổ, nệp và gấu áo. Dải hoa văn gắn vào cổ áo
gọi là hô môi, tạo thành bởi những hạt bạc, gắn thành các hình răng cưa gọi là cúc
mẹ. Ngoài cổ áo và nẹp trang trính những miếng bạc nhỏ, gấu áo cũng thêu những
đường chỉ màu xanh đỏ, vàng hình thẳng song song và răng cưa.
Váy của người Nùng phân rõ thành cạp váy, giải buộc váy, thân váy và gấu váy.
Nhiều khi họ gọi cạp váy là đầu váy, còn gấu váy là chân váy. Thân váy được ghép

lại từ 4 mảnh, gấu váy được đáp thêm vải khác màu, vừa cho gấu váy cứng vừa làm
đẹp. Khi mặc, người ta gấp phần váy thừa ra phía trước hoặc phía hông. Khi đi chợ,
đi thăm viếng, người ta để gấu váy phủ thấp chấm mắt cá chân, còn khi đi làm thì
kéo gập váy lên cao cho tiện và sạch sẽ hơn. Đáng chú ý hơn cả là váy của phụ nữ
Nùng Dín.Váy may cắt theo kiểu váy xoè xếp nếp, khác với váy của một số nhóm
địa phương khác của người Nùng, người Tày nhưng lại có phần giống với kiểu váy
xoè xếp nếp của người Mông, Thu Lao, một số nhóm Dao,…Váy tạo thành bởi hai
lớp vải, lớp ngoài dày và cứng hơn, còn lớp trong thì mỏng và mềm. Váy không
khép kín hai mép vải dọc thân váy lại mà để hở khi mặc, mép nọ đè chồng lên mép
kia, làm cho người mặc vẫn có cảm giác kín đáo. Váy của phụ nữ Nùng Dín được
tạo nên từ cạp váy, đầu váy, thân váy và gấu váy. Cạp váy nối với đầu váy, hai bên
tạo thành hai dây vải dài dùng để thay cho thứ dây lưng hay giải rút, thắt cho váy
giữ chặt vào eo lưng. Đầu váy thường là mảnh vải khác màu, trắng hay xanh, khâu
liền một phía với thân váy, phía kia với cạp váy. Đầu váy có chiều dài khoảng gấp
rưỡi vòng bụng, nhưng lại ngắn hơn rất nhiều chiều ngang của vải thân váy. Do
vậy, khi khâu lại với nhau, thân váy phải xếp nếp sao cho đều, khi mặc các nếp xếp
gối nhau đều đặn chảy dài theo chân váy. Khi đi làm, để cho gọn ghẽ, dễ cử động,
người ta túm một túm vải thân váy ở phía sau, buộc lại tạo thành cục gọi là phàn
phái (túi vải), từ đó mới có tên gọi là Nùng U hay Nùng phàn phái.
Dây lưng của bộ nữ phục của các nhóm Nùng cũng có những nét khác biệt
nhau.Tiêu biểu hơn cả vẫn là dây lưng của nhóm Nùng Dín. Dây lưng dệt bằng sợi
tơ tằm, trên mặt vải dệt những đường nét hoa văn hình thang song song, hình răng
cưa, quả trám, lượn sóng, hình chim cách điệu,…Khi mặc, quấn dây lưng quanh
bụng, hai đàu dây dắt mối ở hai bên hông. Dây lưng của phụ nữ Nùng Lòi bằng sợi
bông dệt và nhuộm chàm, hai đàu dây thả mối phía sau dài chấm bắp chân. Dây
lưng của nhóm Nùng An thì tuyền một màu xanh chàm, còn phụ nữ Nùng Xuồng
thì thì thắt nhiều vòng thắt lưng ra ngoài áo dài, trên đó có dắt dây xà tích bằng
đòng hay bạc, nổi rõ trên nền thắt lưng chàm. Cách chải bới tóc và phủ khăn đội
đầu bao giờ cũng thể hiện nét riêng của các nhóm Nùng. Phụ nữ Nùng An vấn tóc
giống như phụ nữ Tày, sau đó phủ ra ngoài bằng chiếc khăn vuông nhỏ dệt hoa hay

vải chàm trơn, hai mối khăn buộc ra phía sau, đáy dưới lớp khăn vấn. Phụ nữ Nùng
Inh, Nùng Lòi vấn tóc rồi đội khăn chàm ra ngoài giống như cách đội của phụ nữ
Kinh. Phụ nữ Nùng Giang lại vấn tóc rồi đội ra ngoài chiếc khăn trắng, phủ hết
phần tóc và hai tai, gáy. Phụ nữ Nùng Phàn Slình lại có nét khác biệt hơn: họ gấp
chiếc khăn dệt hoa văn rất đẹp rồi quấn một vòng từ trước trán ra sau gáy. Phụ nữ
Nùng Dín có hai loại khăn đội đầu, loại khăn thường ngày vẫn đội gọi là bẩu
pạ,còn loại khăn chỉ đội khi cưới xin, hội hè, gọi là bẩu chịp. Hai loại khăn này
kích thước như nhau, dài khoảng 1,5m, nhuộm chàm, rìa khăn có viền chỉ đỏ. Khác
biệt giữa hai loại là khăn bẩu chịp có gắn thêm những mảng hoa văn. Một mảng
hoa văn gắn trên mặt khăn trước trán, gọi là pạc môi, còn miếng gắn trên khăn phía
sau gáy gọi là thẳng khăn. Các mảng hoa văn này tạo ra bằng cách gắn các miếng
bạc nhỏ để tạo nên các hoạ tiết hoa văn, giống như trang trí hoa văn trên cổ áo.
Những bộ phận còn lại của bộ trang phục Nùng là tạp dề, xà cạp, đệm vai, giầy
vải, và một số đồ trang sức làm bằng kim loại đeo trên người. Tạp dề là miếng vải
thường đồng màu với quần áo, chiều dài phủ từ thắt lưng tới quá gối, chiều rộng
che kín thân váy hay ống quần mặc bên trong. Xà cạp làm từ vải bông để trắng hay
nhuộm chàm, vừa để chống lạnh, muỗi, vắt khi đi rừng hay làm ruộng, nương, vừa
giữ cho chân phụ nữ thon tròn,trắng trẻo, một nét đẹp của phụ nữ. Khi đi chơi chợ,
thăm hỏi bà con, phụ nữ Nùng còn đi giầy vải, che ô đó là những thứ mà người thợ
thủ công dân tộc có thể làm được, hay mua ử các phiên chợ vùng núi biên giới. Phụ
nữ Nùng dùng nhiều loại trang sức hơn là phụ nữ Tày, đó là các loại vòng cổ, vòng
tay, trâm cài tóc, dây chuyền, bịt răng vàng, các loại vòng hay hoa tai…
2.2.2. Nam phục
Về cơ bản, trang phục nam giới Nùng giống như trang phục nam giới Tày và
nhiều dân tộc khác.Sự khác biệt có chăng chỉ ở một vài chi tiết, chẳng hạn như nam
giới Nùng mặc áo cánh 4 thân xẻ ngực và quần may hơi khít vào người và ngắn
hơn so với quần áo của đàn ông người Tày hay ở một vài nhóm Nùng. Trên trang
phục của cả nam và nữ tuy ít nhưng vẫn thấy trang trí bằng những dải vải ghép
khác màu. Các đường viền chỉ màu ở tà hay gấu áo. Nam giới Nùng cũng ưa xăm
mình,bịt răng vàng, đeo các loại vòng hơn nam giới Tày…

2.3. Nhà ở
Người Nùng thường ở nhà sàn, nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất, trong đó nhà
sàn là kiểu nhà truyền thống ưa thích của họ. Nhà thường khá to, rộng, có ba gian,
vách thường bằng gỗ và lợp ngói máng. Cách đây chưa lâu, nhà sàn là sự tổng hợp:
người ở trên sàn, gầm sàn nhốt trâu, bò, lợn, gà…trên gác chứa dụng cụ sản xuất,
nông phẩm. Nhà đất hiện nay là hiện tượng khá phổ biến ở vùng đồng bào Nùng,
dọc suốt các vùng biên giới, sát đường giao thông, tường trình hoặc xây đá, mái
ngói.
Nhà nửa sàn nửa đất mang tính tạm bợ chỉ còn lại ở những gia đình sống du
canh, du cư. Việc bố trí trong nhà giữa các nhóm Nùng cơ bản giống nhau. Nhà
được chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối đi ở gian giữa, phần trong đặt
bếp, là nơi sinh hoạt của phụ nữ trong gia đình. Phần ngoài, dành cho nam giới và
đặt bàn thờ tổ tiên. Phía sau nhà có cầu thang phụ, ở đấy có máng nước dùng để
tắm rửa. Phân chia này cũng áp dụng đối với khách là nam hay nữ.
Nhà của người Tày - Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dân
khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Bộ khung nhà Tày-Nùng cũng được
hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ
yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm một
hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song
không có vì kèo nào vượt quá được bảy cột.
Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng:
Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình "quả bí"
(hay quả dưa: nghé qua), đầu đấu vào thân kèo.
Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta
không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày-Nùng trên cơ bản là giống nhau, mặt sàn chia
làm hai phần: một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam. Các
phòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp vách tiền và hậu.
Nói đến nhà Tày-Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt,
đó là "nhà phòng thủ". Thường là có sự kết hợp gữa nhà đất và nhà sàn (đúng hơn

là nhà tầng). Tường xây gạch hoặc trình rất dày (40-60 cm) để chống đạn. Trên
tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà
này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp.
2.4. Quan hệ gia đình
Trong gia đình, quan hệ giữa bố chồng, anh chồng với nàng dâu có sự cách
biệt nghiêm ngặt. Theo phong tục Nùng, dù là con anh, con em, con chị... ai nhiều
tuổi hơn được gọi là anh, là chị. Đồng bào Nùng có thói quen ít khi gọi thăng tên
người ông, người bố mà thường gọi theo tên của đứa cháu đầu, con đầu của họ. Khi
đặt tên con phải tuân theo hệ thống tên đệm của dòng họ.
Việc dựng vợ, gả chồng do bố mẹ quyết định trên cơ sở môn đăng hộ đối giữa
hai gia đình sự ưng thuận của con cái và lá số của đôi nam nữ. Cưới xin của người
Nùng rất tốn kém, nhà gái thường thách cưới rất cao, tiền hàng triệu, lợn hàng tạ
thịt…Theo quan niệm xưa, có như vậy bố mẹ mới mát lòng, “mát mặt mát mày”
với hàng xóm. Con gái về nhà chồng phải có nhiều của hồi môn như chăn, màn,
gối, chậu rửa mặt, cô dâu chưa hẳn đã có mặt ở nhà chồng, mà chỉ có mặt khi nhà
chồng có công việc bạn rộn, lễ tết và có người sang đón. Tình trạng kéo dài đến khi
sắp có con. Người phụ nữ khi lấy chồng xem như hoàn toàn thuộc về nhà chồng.
Nếu bỏ chồng lấy người khác, thì phải trả lại tiền cưới, để lại nhà cửa và con cái…
Ở người Nùng, tiểu gia đình với tôn ti trật tự phong kiến đã thống trị từ lâu.
Người đàn ông làm chủ gia đình, làm chủ tài sản, có quyền quyết định tất thảy mọi
việc trong nhà và tham gia các công việc xã hội. Người đàn bà giữ vai trò phụ
thuộc,không có quyền thừa kế tài sản, chỉ chăm lo công việc nhà, không được đi
học, không được tham gia các công việc xã hội. Trong trường hợp gia đình không
có con trai thì thường nhận một đứa cháu tri làm con nuôi để thừa kế tài sản và
chăm lo công việc cúng bái trong gia đình. Nếu gia đình có con gái thì cưới rể đời
cho con gái, trong trường hợp này người con rể được thừa kế tài sản, chăm lo việc
cúng bái bên nhà mình và bên nhà vợ. Tư tưởng trọng nam khinh nữ rất đậm nét,
không chỉ trong vấn đề thừa kế tài sản, giải quyết công việc gia đình và ngoài xã
hội mà còn ở nhiều mặt khác nữa. Trong căn nhà của người Nùng thường có quy
định rõ ràng và khá chặt chẽ nơi ăn ở của từng giới.

2.5. Tôn giáo, tín ngưỡng
Trong thờ cúng của dân tộc Nùng, chủ yếu là thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên thường
được cúng trong nhà, không phân biệt gia đình đó thuộc chi trưởng hay chi thứ,
ngay cả khi các con trai đã ra ở riêng mà bố mẹ còn sống cũng đã lập bàn thờ để
thờ cúng tổ tiên. Sau khi bố mẹ qua đời, vong linh được rước về thờ ở mỗi gia đình.
Dưới mỗi mái nhà đều có lập một giường thờ được trang trí cẩn thận, nơi, bàn thờ
được đặt nơi trang trọng nhất, có trang hoàng đẹp đẽ, có phùng slằn (Nơi ghi tổ tiên
thuộc dòng họ nào). Bàn thờ tổ tiên có bài vị, lư hương và được đặt vào nơi trang
trọng nhất, thường ngang với sàn nhà ở gian giữa, nằm giữa hai cột chính. Mỗi
tháng hai lần, vào ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng chủ gia đình quét rọn
bàn thờ, thắp hương nhang, cúng bằng chè hoặc rượu. Còn trong các ngày lễ tết thì
phải cúng bằng đồ ăn thức uống mà con cháu dùng trong các dịp đó. Các bậc tổ
tiên, không cứ là bao nhiêu đời, từ bố mẹ trở lên thì được thờ ỏ đó.
Những gia đình có người làm thầy tào, thầy pụt, thầy then…thì lập thêm một
bàn thờ, thờ “thánh tướng và âm binh” nữa. Cũng trong các dịp lễ tết, ngày mồng
một và ngày rằm mỗi tháng phải thắp hương nhang, cúng, cấp vàng mã…
Gia đình nào thờ cúng táo quân thì phải giữ gìn bếp cẩn thận, như không được
nhổ, bỏ giấy viết vào bếp, không được xào nấu các thức ăn gọi là những “thức ăn
tạp”, như: thịt trâu, bò, chó,…
Ngoài ra, mỗi nhà còn thờ bà mụ: Mẹ Hoa (Thần bảo hộ trẻ nhỏ) thường được
thờ ngay đầu giường của phụ nữ đã có con, cúng vào dịp lễ tết, mẹ cửa (thần trông
nhà). Vào những ngày đầu tháng, ngày rằm họ thường đốt hương. Ngày lễ, tết có
cúng chè, rượu và các món ăn. Người Nùng cúng ma sàn (phi háng chàn) và các cô
thần đầu ngõ vào dịp Tết nguyên đán. Những loại ma trên đây thường phải cúng
khi trong nhà có người đau ốm, khi bói thấy chúng đòi thức ăn hoặc con cháu phạm
phải những điều kiêng khem trong nhà.
Khác với người Tày, người Nùng rất phổ biến tục thờ “ma ở ngoài sàn” (Phi
hang chàn). Theo thần tích, vị thần này cũng là vị thần thổ địa. Nhưng đối với một
số họ ở người Nùng phi hang chàn lại là thần An Phủ Đại Vương, tức Nùng Trí
Cao, một thủ lĩnh người Tày – Nùng vào thế kỉ XI. Đồng bào cho rằng vị thần này

rất linh thiêng, mỗi khi mổ lợn đều phải thờ cúng tại sàn phơi trước khi đem bán
hoặc nấu nướng. Việc cũng chẳng có gì là phức tạp, chỉ việc căt thủ lợn đặt trên tàu
lá chuối cắm vài nén hương.
Có thể phân biệt được nhà người Tày với người Nùng một cách dễ dàng trong
các dịp lễ tết. Khác với người Tày, gia đình người Nùng nào cũng có một bàn thờ
đặt cạnh cửa trước; tại đấy người ta đặt vài loại tết và thắp hương trong ba ngày tết.
Theo quan niệm của họ xung quanh ta có vô số ma quỷ, ngày tết cần bày các lễ vật
ở đó, ma nào đi qua nếu cần thì lấy khỏi vào nhà người ta.
Người Nùng còn thờ các thần thổ địa, thần thổ công, thành hoàng là những vị
thần công cộng của toàn bản, có khi của toàn mường, có nhiệm vụ bảo vệ sinh linh
mùa màng. Đối với các thần thổ công thì cứ ngày mồng một tết nguyên đán, các gia
đình trong chòm xóm đều phải mang lễ vật đến cúng. Khi trong chòm xóm có
người chết, khi một căn nhà mới mọc lên thì gia chủ phải sửa lễ báo cho thổ công
biết.
Thành hoàng hầu như địa phương nào cũng có, nhưng không nhất thiết bản
nào cũng có miếu thờ, có khi vài chòm xóm lân cận mới có một cái đình chung.
Hàng năm các gia đình tụ tập lại để cúng.
Những gia đình cùng một dòng họ thì cùng chung một miếu thờ thổ công, thổ
địa. Các thầy tào, thầy mo theo ý tưởng từ xưa họ có khả năng tiếp xúc với các loại
ma thần nên được gọi là cần tha hùng (người mắt sáng). Họ hành nghề cúng bái,
cầu sự tốt lành cho người dân. Vì thế họ được mọi người kính nể.
2.6. Văn học, nghệ thuật
Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn
điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Nổi bật nhất trong văn nghệ dân gian Nùng là
lối hát đối giữa Nam và Nữ (Sli) - một lối hát ví, hát giao duyên của thanh niên
nam nữ. Đặc điểm của các điệu Sli là diễn xướng tập thể, mỗi bên nam nữ khi hát
với nhau thường phải có từ hai người trở lên, hát theo hai bè. Lời ca của các điệu
Sli được cấu tạo theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn bát cú. Mỗi nhóm Nùng
có một làn Sli độc đáo: điệu Soong lằn, nhì hào của người Nùng Phàn Sình, Si ới
của người Nùng Lòi, Hà lều của người Nùng An, Tả Sli của người Nùng Giang,

tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự
nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng.
Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu
diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương…Người
Nùng rất yêu ca hát, mọi người có thể Sli bất cứ lúc nào và ở đâu mỗi khi rãnh rỗi.
Những cuộc Sli thường kết thúc bằng sự trao đổi vật kỷ niệm như vòng tay, nhẫn,
khăn mặt, túi…Ngoài hát đối đáp người Nùng còn tổ chức các đội múa sư tử, một
hình thức sinh hoạt nghệ thuật lành mạnh và là môn thể thao vui khỏe được thanh
niên ưu thích. Hội múa sư tử còn là dịp các trai bản luyện tập võ thuật, để bảo vệ
quê hương đất nước khi có giặc giã, trộm cướp. Ngoài ra còn có thơ cổ phong, cổ
lẩu, truyện cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn rất phong phú. Cổ lẩu là những bài thơ
trong đám cưới dùng để chúc tụng nhau. Nghệ thuật âm nhạc của người Nùng khá
phát triển nhưng nhạc cụ thì lại khá nghèo nàn, hầu như chỉ là các loại thuộc bộ gõ
đánh. Múa cũng rất nghèo nàn, chủ yếu được dùng trong tôn giáo tín ngưỡng.
Trong các dịp lễ tết, hội lồng tồng, chợ xuân,…có các trò chơi gieo đúm, đánh cầu
lông, đánh quay, kéo co,…
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội
"Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng
năm.
Hát Sli - một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng: Hát Sli (vả Sli) là một làn
điệu đặc trưng của dân tộc Nùng. Có thể kể đến một số kiểu loại chính như: Người
Nùng Cháo có Sli Slình làng, nguời Nùng Giang có Sli Giang, người Nùng Phàn
slình có Sli bốc, sli Phàn slình… Thực chất Sli (vả Sli) là một hình thức hát thơ
(kiểu như Phong Slư của dân tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất). Sli
của đồng bào Nùng được coi là một thể loại trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày
chợ, ngày cưới, ngày vào nhà mới… Trước đây, đã là người Nùng, hầu hết ai cũng
biết hát Sli, yêu thích Sli bởi ngoài việc ví, đối … lời hát Sli còn được coi như tiếng
hát giao duyên. Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli
ví von, bóng bẩy, tinh nghịch, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli giao
duyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối đối

đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng). Người hát
trước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng ứng đối khéo léo,
tài tình và nhanh nhậy. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải
có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại. Lời Sli đôi khi không chỉ bao hàm nội
dung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm nồng, đằm thắm của bao đôi trai gái
mà còn có cả muôn mặt của đời sống như các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời
gian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử… đôi khi có cả những lời chào mời sang

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×