Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Luận văn : Nghiên cứu về cán cân thanh toán quốc tế của Thailand

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.27 KB, 41 trang )

Mục Lục
Mục Lục.............................................................................................................................................................1
Lời nói đầu........................................................................................................................................................4
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ................................................................................5
1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế (CCTTQT)................................................5
1.1 Khái niệm............................................................................................................................................5
1.2 Ý nghĩa kinh tế của CCTTQT................................................................................................................6
2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế...........................................................7
2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán..........................................................................................7
2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán...............................................................................................7
3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT..............................................................................................................15
3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại...................................................................................16
3.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai..........................................................................................17
3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB).....................................................................................19
3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể........................................................................................20
II/Cán cân thanh toán Thái Lan qua các thời kỳ.............................................................................................22
1/Khái quát chung Kinh tế ngoại thương Thái Lan:...................................................................................22
2/Phân tích cán cân thanh toán Thái Lan giai đoạn 2005-nay:.................................................................29
3/Cơ cấu kinh tế và xu hướng của mối quan hệ giữa Thái Lan và EU.......................................................32
III. Giải pháp đối với Việt Nam.......................................................................................................................35
3.1/Tổng quan chung nền kinh tế Việt Nam:.............................................................................................35
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung,
quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn
ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt
Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm
1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc
đẩy quan hệ thương mại, đầu tư song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị
trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng.............................................35
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong bối cảnh thị trường tài chính trên thế giới


ngày càng có mối liên kết chặt chẽ với qui mô và biến động của các luồng vốn tăng rất mạnh. Đây là cơ
hội để tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức


do nguy cơ đảo chiều của các luồng vốn, nhất là trong bối cảnh kinh tế Mỹ chưa phục hồi và lạm phát
toàn cầu gia tăng. Ý thức được xu thế tất yếu của toàn cầu hóa và hội nhập, Chính phủ và các bộ,
ngành Trung ương đã tích cực đàm phán với các đối tác quốc tế và xây dựng lộ trình thực hiện các cam
kết WTO nhằm giành thế chủ động trong quá trình hội nhập. Trong đó, một trong những quan tâm
hàng đầu là kiểm soát luồng vốn vào và từng bước tự do hóa tài khoản tài chính; dự trữ quốc gia đã
được cải thiện dần từ 6,3 tỉ USD năm 2004 lên 8,5 tỉ USD năm 2005 và đạt gần 12 tỉ USD năm 2006.
Đáng chú ý, năm 2007 đạt trên 21 tỉ USD, tương đương 3,3 tháng nhập khẩu. Việc trả nợ các khoản
vay nước ngoài cũng được thực hiện nghiêm chỉnh mặc dù thu ngân sách ngày càng khó khăn hơn,
nhất là trong xu thế giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết.............................................................35
Tuy nhiên, dự trữ cao chưa khẳng định được khả năng đối phó với luồng vốn ra, khái niệm truyền
thống về mức dự trữ phù hợp (bằng 3 tháng nhập khẩu) đang được các nhà hoạch định chính sách và
phân tích kinh tế xem xét lại. Trên thực tế, Mêhicô là một quốc gia có mức dự trữ quốc tế tương đối
lớn đã phải đối mặt với khủng hoảng lòng tin và luồng vốn ra bất thường đi kèm vào cuối năm 1994 và
đầu năm 1995. Hơn nữa, cán cân thanh toán của Việt Nam chưa bền vững, cán cân vãng lai giảm từ
957 triệu USD năm 2004 xuống 217 USD năm 2005 và bắt đầu thâm hụt 164 triệu USD năm 2006 và
6,6 tỉ USD năm 2007. Khả năng tạo được thặng dư tài khoản vãng lai là yếu tố hỗ trợ khả năng thanh
toán, nhưng khái niệm ổn định tài khoản vãng lai rất phức tạp vì nó phản ánh mối quan hệ qua lại giữa
các quyết định tiết kiệm và đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.........................................................36
Trong các chỉ số kinh tế, cán cân vãng lai liên quan đến nhiều lĩnh vực, cả xuất nhập khẩu, tiết kiệm,
đầu tư, GDP, đầu tư nước ngoài và tổng phương tiện thanh toán. Tài khoản cán cân vãng lai phản ánh
tiết kiệm và đầu tư của chính phủ và khu vực phi chính phủ. Cụ thể, cán cân vãng lai thể hiện sự tương
đồng giữa tiết kiệm của tư nhân, chính phủ và hoạt động đầu tư. Ví dụ, thâm hụt tài khoản vãng lai có
thể bắt nguồn từ sự xấu đi rõ rệt của tình hình ngân sách bất chấp việc có hay không sự cải thiện tiết
kiệm ở khu vực tư nhân. Như vậy, cán cân vãng lai dù là chỉ số quan trọng, nhưng tự bản thân nó
không chỉ ra được yêu cầu phải có hành động chính sách hay chính sách đối phó thích hợp vì một
khoản thâm hụt có thể chỉ là sự mất cân đối tạm thời do sự sụt giá hàng nhập khẩu, nhưng thâm hụt

cán cân thanh toán đòi hỏi phải có sự điều chỉnh khi một quốc gia không thể tiếp tục tài trợ cho các
khoản thâm hụt một cách vô hạn bằng cách vay nước ngoài hay tiêu tan dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên,
cán cân vãng lai thâm hụt là dấu hiệu báo trước cho các nhà hoạch định chính sách về khả năng đang
có chính sách không lành mạnh. Trong mọi trường hợp, nhu cầu đưa ra chính sách đối phó và sự lựa
chọn chính sách thích hợp phụ thuộc vào kết quả xác định những nguyên nhân gây ra sự mất cân đối.
Nếu thâm hụt cán cân vãng lai quá lớn, Chính phủ phải có hành động chỉnh sửa thích hợp, kể cả trong
trường hợp cán cân vãng lai thâm hụt bắt nguồn từ khu vực tư nhân do sự chấm dứt đột ngột của
luồng vốn vào, gây ảnh hưởng lây lan đến những khoản nợ khác. Trong nền kinh tế hội nhập, cần có
dự trữ lớn để xử lý những cú sốc không dự báo trước được...................................................................36
Mức dự trữ được đánh giá trong mối quan hệ với tổng giá trị các hóa đơn nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ dự kiến, các chỉ số mới đây về mức dự trữ phù hợp lại tập trung vào khả năng dễ bị suy yếu về tài
chính. Dù sử dụng bất kỳ chỉ số nào về mức dự trữ phù hợp, bản chất của cơ chế tỉ giá cũng đóng vai
trò quan trọng trong việc quyết định mức dự trữ. Thông thường, một quốc gia với cơ chế tỉ giá cố định
cần mức dự trữ lớn hơn nước có cơ chế tỉ giá thả nổi, vì dự trữ là cách duy nhất để chống đỡ các cú
sốc. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu lòng tin vào khả năng của chính phủ trong việc duy trì các chính sách


hỗ trợ là cao, một nước với cơ chế tỉ giá cố định có thể không cần có mức dự trữ lớn để bảo vệ đồng
tiền của mình. Nếu các chính sách kinh tế của chính phủ tạo được độ tin cậy cao trong các thị trường
tài chính thì chỉ cần mức dự trữ khiêm tốn (trường hợp Ba Lan, Argentina, Estonia và một số nước
khác). Ngay cả trong cơ chế tỉ giá thả nổi có quản lý, việc thiếu những chính sách kinh tế đáng tin cậy
có thể nhanh chóng dẫn đến hiện tượng chảy vốn ra ngước ngoài và tiêu tan dự trữ, thậm chí khi các
nhà chức trách cho phép phá giá bản tệ. Do đó, về cơ bản, độ tin cậy của chính sách và lòng tin của
những người tham gia thị trường đặt vào các chính sách này là yếu tố cơ bản để xác định mức dự trữ
phù hợp, chính sách đáng tin cậy cho phép các nhà chức trách tăng dự trữ bằng cách đi vay nước
ngoài với những điều kiện ưu đãi..............................................................................................................37
Mức dự trữ phải được xem xét trên cơ sở đánh giá các chỉ số về khả năng dễ bị suy yếu về tài chính.
Việc này đòi hỏi phải xem xét các biến số phát sinh truyền thống (cán cân vãng lai và ngân sách) và cả
các biến số thời điểm (tiền cung ứng trong nước tính bằng ngoại tệ trên giá trị bằng ngoại tệ của dự
trữ quốc tế) nhằm hỗ trợ đồng bản tệ trong trường hợp khủng hoảng lòng tin. Dự trữ cần xem xét

trong cơ cấu phân theo thời hạn của các tài sản nợ của khu vực công. Tài sản nợ ngắn hạn bằng ngoại
tệ vượt mức sẽ làm tăng khả năng suy yếu về tài chính của đất nước. Mức độ mở cửa của nền kinh tế,
phản ánh qua tỉ lệ nợ nước ngoài trên GDP, và của tài khoản vốn đối ngoại đều rất quan trọng. Nó giúp
xác định mức rủi ro mà đất nước phải chịu do sự biến động của các luồng vốn, điều này sau đó sẽ tác
động đến sự cần thiết phải có mức dự trữ lớn hơn để xử lý các cú sốc không dự báo trước được......37
Thông tin với mức độ minh bạch chưa cao và cơ chế quản lý chậm thay đổi, nên các dự báo có độ tin
cậy thấp, khó đưa ra được những giải pháp hiệu quả, không khuyến khích doanh nghiệp và người lao
động, hậu quả là sản xuất đình đốn, chi phí sản xuất cao, giá hàng hóa trong nước cao hơn ở nước
ngoài tính theo tỉ giá tính chéo, nhập khẩu tăng. Việc xóa bỏ trợ giá xăng dầu đang giúp cải thiện dần
chất lượng các dự báo do giá cả thế giới (trước hết là giá dầu) được chuyển nhanh đến người tiêu
dùng trong nước, góp phần giảm thiểu chi phí trung gian và minh bạch hóa giá cả và khối lượng........37
3.2. Các giải pháp chung.............................................................................................................................38
3.3. Các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế tại Việt Nam.....................................................40


Lời nói đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng
phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có
quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như bản cân đối ngân sách, cân đối
tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy, cán cân thanh toán đã trở thành công
cụ quan trọng để đề ra các chính sách phát triển kinh tế và những diễn biến trong cán cân
thanh toán của một nước là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách.
Tuy nhiên để lập được một bản cán cân thanh toán quốc tế đầy đủ chính xác và kịp thời là
một việc rất khó khăn do phạm vi thu thập số liệu cán cân thanh toán quốc tế quá rộng.
Việc phân tích các tình trạng và đưa ra các giải pháp điều chỉnh cán cân thanh toán trong
từng thời kì phát triển kinh tế của một quốc gia cũng là việc khó do các khu vực trong
nền kinh tế có quan hệ tác động lẫn nhau.
Để cán cân thanh toán quốc tế trở thành một công cụ phân tích, quản lý tốt các hoạt
động kinh tế đối ngoại thì vấn đề cấp thiết là phải có sự nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực

tiễn trong việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.
Thái Lan là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, trải dài 1.620km từ Bắc đến
Nam và 775km từ Đông sang Tây. Thái Lan có biên giới phía Bắc tiếp giáp với Lào và
Myanmar, phía Đông giáp với Campuchia và Vịnh Thái Lan, phía Tây giáp với
Myanmar và Ấn Độ Dương và phía Nam giáp với Malaysia. Lãnh hải Thái Lan phía
Đông Nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía Tây Nam giáp với lãnh hải
Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman.
Nền kinh tế của Thái Lan là một nền kinh tế mới công nghiệp hóa ,với thế mạnh về
xuất khẩu, với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tương đương với gần 70% GDP
trong năm 2010. Ngoài ra xuất khẩu, kinh tế Thái Lan còn được đẩy mạnh nhờ các thỏa
thuận tự do thương mại song phương với một số nước như: Trung Quốc, Ấn
Độ, Australia, New Zealand, Peru, Bahrain.
Đề tài: “ Nghiên cứu về cán cân thanh toán quốc tế của Thailand” sẽ giúp chúng ta có
được lý luận đúng đắn về cán cân thanh toán quốc tế, bên cạnh đó tìm hiểu được tình


hình kinh tế cũng như cán cân thanh toán của Thailand từ đó đưa ra những giải pháp cho
nước Việt Nam ta.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Phân tích cơ sở khoa học của việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh
toán quốc tế.
- Phân tích thực trạng của cán cân thanh toán của Malaysia qua các thời kỳ
- Trên cơ sở phân tích trên đưa ra các biện pháp điều chỉnh thích hợp cho cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng là những vấn đề thực tiễn và lý thuyết trong việc thành lập cán cân thanh
toán và các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán của Thái lan hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: về mặt lý thuyết phân tích cơ sở khoa học của việc xây dựng cán
cân thanh toán quốc tế và các cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế; về mặt thực

tiễn, phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Thái Lan trong những năm qua.
Từ đó đề ra các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế thích hợp, đảm bảo sự
phát triển cân đối bên trong lẫn bên ngoài của nền kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết sử dụng biện pháp duy vật biện chứng, so sánh tổng hợp và phân tích, kết hợp
những kết quả thống kê và vận dụng lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu .
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế (CCTTQT)
1.1 Khái niệm
Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payment) được hiểu là bảng kế toán tổng
hợp các luồng vận động về hàng hoá dịch vụ , tư bản… của một quốc gia với phần còn lại
của thế giới trong từng thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi
các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng


giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển
khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những

giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài
nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư
trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một bản đối chiếu giữa các khoán tiền thu được
từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định.
Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về quản lý
cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam được
quy định là bảng tổng hợp có hệ thống toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa
Người cư trú và Người không cư trú trong một thời kỳ nhất định. Theo đó, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam được giao là cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì lập, theo dõi và phân
tích cán cân thanh toán.

1.2 Ý nghĩa kinh tế của CCTTQT.
Thực chất của cán cân thanh toán quốc tế là một tài liệu thống kê, có mục đích cung
cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp với yêu cầu phân tích những quan hệ kinh
tế tài chính của một nước với nước ngoài trong một thời gian xác định. Do đó, CCTTQT
là một trong những công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua, cán cân
thanh toán trong một thời kỳ, Chính phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu giữa những
khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi
ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Từ đó, đưa ra các quyết sách về điều hành
kinh tế vĩ mô như chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, CCTT là công cụ đánh giá tiềm năng kinh tế của một quốc gia, giúp các
nhà hoạch định kinh tế có định hướng đúng đắn. Cán cân thanh toán bộc lộ rõ ràng khả
năng bền vững, điểm mạnh và khả năng về kinh tế bằng việc đo lường chính xác kết quả
xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của đất nước đó.


CCTT còn được sử dụng như một chỉ số về kinh tế và tính ổn định chính trị. Ví dụ,
nếu một nước có thặng dư cán cân thanh toán có nghĩa là có nhiều đầu tư từ nước ngoài
đáng kể vào nước đó hoặc cũng có thể là nước đấy không xuất khẩu nhiều tiền tệ ra nước
ngoài dẫn đến sự tăng giá của giá trị đồng nội tệ so với ngoại tệ.
2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế
2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán
Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra năm 1993, cán
cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau:
• Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ
và một số chuyển khoản.
• Tài khoản vốn : Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài
chính.
• Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
• Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng của
tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng

giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên.
• Mục sai số
Do ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được
và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong cán cân thanh
toán như là mục sai số.
2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán


Cán cân vãng lai (current balance)



Cán cân vốn (capital balance)



Cán cân bù đắp chính thức (official finacing balance)

• Cán cân cơ bản (basic balance)
• Cán cân tổng thể (overall balance)


2.2.1. Cán cân vãng lai
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một
quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước
với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú
trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế
toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư
trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen).
Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.

Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn
năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
● Cán cân thương mại hàng hóa
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán
quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh
lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán
cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân
thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng
thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại.
Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang
giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các
khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý
luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán
quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:


+ Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn.
Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ).
MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng
0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập
khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước
và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị
trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại
Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ
nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
+ Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác

vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ
thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô
hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
+ Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng
đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc
tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu
sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước
ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho
nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm
xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương
đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1
CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm
chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập
khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay
đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá
75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.


Tác động của cán cân thương mại đến GDP :
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất
khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân
chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng

● Cán
cân thương mại phi hàng hóa
- Cán cân dịch vụ :
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính,
viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác giữa người cư trú với

người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hoá xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh
cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên co và có dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát
sinh cầu ngoại tệ. Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như
các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụcũng giống như các nhân tố ảnh
hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Cán cân thu nhập:
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu
nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú hay ngược lại.các


nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động ở nước ngoài.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư
giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và
không cư trú.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều :
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao
khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người
không cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân
phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú các khoản thu làm phát sinh
cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu
ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai
một chiều là lòng tốt, tình cảm giữa người cư trú và người không cư trú.
Chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều
không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là cán cân vô hình (invisible)
Như vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn :
Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình +cán cân vô hình
Tóm lại, các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh
cung ngoại tệ nên dược ghi vào bên có và các khoản thu nhập trả cho người không cư trú
làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. Tất cả các khoản thanh toán của các
bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này. Đối với phần

lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản
vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn
thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu
ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản
vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.


Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân
thanh toán. Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay
khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập
nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp
hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững.
Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm
của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành
mạnh.
2.2.2. Cán cân vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của
một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động
sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước
với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người
sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì
quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn
vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại
những giao dịch về tài sản tài chính.
Tài khoản vốn và lãi suất:


Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r. Khi

lãi suất tăng lên mức r’, tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài
khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài
khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất.
Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn
vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được
cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi.
Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi
suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện.
Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái:
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái
danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là, tài
khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản
vốn sẽ được cải thiện.
2.2.3. Cán cân cơ bản
Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập, mà


đặc trưng của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú với
người không cư trú. Chính vì vậy tình trạng của cán cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài
đến sự ổn định của nền kinh tế mà đặc biệt là lên tỉ giá hối đoái của nền kinh tế.
Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính chất ổn
định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ giá hối đoái. Chính vì
vậy cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính sách kinh tế quan tâm.
Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn
Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại
2.2.4. Cán cân tổng thể (overall balance)
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai sót bằng
không ) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Trong thực tế
do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu nhập số liệu và lập
CCTTQT do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và sai sót. Do đó cán cân tổng thể

được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn và hạng mục sai sót
trong thống kê. Ta có :
Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót
2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức(official finacing balance)
Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục :
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR)
- Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L)
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia
lập cán cân thanh toán (≠)
OFB = ΔR + L + ≠


Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm thì ghi có
(+), do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải thích như sau :
Chúng ta hình dung, quốc gia Việt Nam được chia thành hai bộ phận gồm NHTW
và phần còn lại không bao gồm NHTW (gọi là nền kinh tế - NKT). Tiêu chí để phân
thành NHTW và NKT là: NHTW có chức năng can thiệp lên cung cầu ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì không có chức năng can thiệp. Theo quy tắc
CCTTQT được lập trên cơ sở của nền kinh tế, do đó, các hoạt động can thiệp của NHTW
trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế, được xem là
quan hệ giữa người cư trú với người không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại tệ ra,
làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh tế, do đó ta
phải ghi có(+) . Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho dự trữ ngoại hối tăng,
đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó ta phả ghi nợ (-)
2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót
OB + OFB = 0
→OB = - OFB
→CA+K+OM= - OFB
→OM =-(CA+K+OFB)
Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ

lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì
cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định (luôn thể
hiện là một số cụ thể trên CCTTQT ), do đó đẳng thức trên được áp dụng số dư nhầm lẫn
và sai sót khi lập CCTTQT trong thực tế.
3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT
CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có
luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có nghĩa là, về


tổng thể thì CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư, thâm hụt CCTTQT là
nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm các cán cân bộ phận chứ không
nói đến toàn bộ cán cân.
Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTTQT được xác định theo hai
phương pháp:
 Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận.
 Phương pháp tích lũy.
3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại
 TB=X-M
Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập
khẩu về hàng hóa
Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú
- Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ
Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết:
-

Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ

-


Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ
Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền kinh tế,

bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, Thâm hụt và
thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của cán cân vãng lai. Cán
cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai. Điều này xảy
ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng
hóa, trong khi đố việc thu thập các số liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai
thường diễn ra chậm hơn, tức là có một độ lệch về thời gian nhất định.
Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển


thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng.
Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng sẽ
tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua các hình thức thuế quan, quotas,
v.v… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu của công chúng.
3.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì
nó quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định:
CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+ R
- Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn hơn so
với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá
do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn
cầu ngoại tệ.
- Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ
người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là
giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người

cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ.
- Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để
phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả thích như sau:
Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của
một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là
không đổi ( quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng
dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị


thế quốc gia là chủ nợ ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng
của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con nợ).
CA = 0, trong dài hạn
Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:
( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0
Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó chúng ta
có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức: R= 0
- Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra
+ TH1: Kl < 0 và Ks > 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được
cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh toán của quốc gia
trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm giá nội tệ
+ TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân
đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn
để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
CA = 0 trong ngắn hạn
Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là Kl=0, Ks +
R = 0 có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1: R > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp
bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống này có thể xảy ra
trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra
nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá,

tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng,
nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không
tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối


+ TH2: R < 0 và Ks > 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng
ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy ra, khi NHTW tăng
mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các
luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn
không cho nội tệ tiếp tục giảm giá.
Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô vì
tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, lạm
phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể. Để tác động đến tình trạng của cán cân
vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải
pháp về chính sách thương mại quốc tế và tác động vào tâm lý tiêu dùng.
3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB)
BB = CA + Kl
Khi CA < 0 nhưng (CA + KI )> 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán.
Chính vì thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về
trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì;
vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời
gian dài giữa một quốc gia và thế giới.
- Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu
của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy, nghĩa là cho dù cán
cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu. Ví dụ, một quốc gia có thể
đang bị thâm hụt cán cân vãng lai & đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều
này khiến cho cán cân cơ bản trở lên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa
hện những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập
mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng

dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng
dư.


*) Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền kinh tế
tuỳ theo cách tiếp cận.
*) Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện công
nghiệp và hiện đại hoá, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là dấu hiệu tích
cực.
*) Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho
vấn đề này.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn
ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên
thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán cân cơ bản như sau:
- Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia có khả
năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải lo lắng khi cán
cân vãng lai bị thâm hụt.
- Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem xét, bởi
vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức
và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán cân vãng lai trở lên xấu đi
trong tương lai.
3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung ương
trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.
OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks
OB = - OFB
Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì: (i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn để một
quốc gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối; (ii) Nếu thâm hụt nó cho biết số tiền
một quốc gia phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối.



Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia áp
dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Sở dĩ
vậy là do, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế thì
cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng , vì Ngân hàng trung
ương không can thiệp mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối
không thay đổi.
Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền đó thì
tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại , do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá mà cán cân
tổng thể sẽ luôn có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng.
Tuy nhiên, cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó cho biết
áp lực dãn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố
định một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu,
do đó để tránh phá giá, Ngân hàng trung ương phải tiến hành bán dự trữ
*) Tình trạng của cán cân tổng thể là rất quan trọng và tác động trực tiếp đến nền kinh
tế và sự vận hành các chính sách vĩ mô, đặc biệt khi cán cân tổng thể ở tình trạng thâm
hụt
*) Các giải pháp cân bằng đối với cán cân tổng thể khi ở tình trạng thặng dư không
những không khó mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong ngắn hạn và dài
hạn
*) Ngược lại, các biện pháp cân bằng khi ở tình trạng thâm hụt không những khó khăn
hơn mà tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại những hậu quả
trong dài hạn
*) Cân bằng cán cân tổng thể cần lựa chọn và thực hiện các giải pháp một cách hết
sức thận trọng.


II/Cán cân thanh toán Thái Lan qua các thời kỳ
1/Khái quát chung Kinh tế ngoại thương Thái Lan:
Nền kinh tế Thái Lan là một trong những nền kinh tế phát triển mạnh mẽ ở châu

Á. Trong thập niên 1960, nền kinh tế của chủ yếu là nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào sản
xuất phong phú các loại cây trồng như lúa, sắn, ngô, cao su, mía đường, cùng với sản
xuất thủy sản, chủ yếu là tôm. Vị trí chiến lược của nó và tài nguyên thiên nhiên phong
phú đã tạo một lợi thế tốt cho Thái Lan, nó cho phép các quốc gia tăng cường tối đa hóa
các mặt hàng trong thương mại quốc tế. Nhưng phải đến những năm 1980 đến giữa thập
niên 1990 mới đánh dấu sự bùng nổ của nền kinh tế và sự xuất hiện của nó như là một
nền kinh tế đa dạng, hiện đại, và công nghiệp hóa.
Cho đến năm 1996, nền kinh tế Thái Lan đã phát triển qua 7 kỳ kế hoạch 5 năm.
Với 7 kỳ kế hoạch 5 năm này đã đưa lại kết quả là trình độ phát triển kinh tế của Thái
Lan tương đối cao so với một số nước ASEAN. Khu vực tư nhân tương đối phát triển.
Các chính sách kinh tế vĩ mô và công nghệ hoá của đất nước đang chuyển dần từ thay thế
nhập khẩu sang khuyến khích xuất khẩu. Các quyết định kinh tế được đưa ra theo hướng
phù hợp với cơ chế thị trường chứ không phải theo hướng can thiệp của chính phủ vào
nền kinh tế.
Trong 30 năm qua kể từ khi thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế cho đến nay đã
chứng kiến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ ở Thái lan. Từ một đất nước chủ yếu là
sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng sơ chế, Thái lan đã phát triển lên thành một quốc
gia công nghiệp lớn trong khu vực. Hiện nay nông nghiệp chỉ chiếm 11,5% hoạt động
kinh tế trong khi sản xuất công nghiệp đóng góp khoảng 31,4%. Chiến lược cơ cấu tăng
tỷ trọng các nghành công nghiệp dùng nghiều lao động và tài nguyên là hợp lý đối với
một nước nông nghiệp như Thái Lan. Mặt khác nhờ phát triển nhanh các nghành công
nghiệp nhẹ dựa chủ yếu vào công nghệ nhập khẩu và sử dụng nhiều tài nguyên thiên
nhiên và nguồn lao động rẻ.


Bảng 1: Một số số liệu kinh tế Thái Lan.
1995

1996


1997

1998

1999

2000

GDP và các thành phần chính(% thay đổi qua các năm)
GDP DANH NGHĨA (TỶ 164,8
USD)

183,26

150,23

112,22

121,92

124,44

8,6

5,9

-1,4

-10,8


4,2

4,4

GDP THỰC TẾ
Đầu tư tư nhân

10,3

3,4

-31,7

-6,5

14,2

Đầu tư chính phủ

19,18

28,93

16,12

26,52

-16,37

-7


Xuất khẩu(Tỷ USD)

23,6

-0,2

29,8

21,9

-1,4

27,1

Nhập khẩu(Tỷ USD)

30,5

2,3

4,3

-10,5

7,3

39,6

-52,4


Các cán cân tài chính và đối ngoại (% thay đổi qua các năm )
Cán cân ngân sách

2,7

2,3

-0,7

-2,5

-2,9

-2,4

Cán cân mậu dịch

-4,9

-9,1

-1,8

10,9

7,6

4,4


Cán cân tài khoản vãng lai

-8,1

-14,4

-3,1

14,3

12,5

7,5

Cán cân vốn

12,97

19,5

-4,3

-9,8

-7,9

-9,5

109,2


102,4

90

93,5

86,9

1,5

1,2

4,4

4,2

3,6

Các chỉ số kinh tế (% thay đổi qua các năm)
Tỷ giá hối đoái hiệu quả thực tế
(lấy gốc năm 1997 = 100)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1,7


Bảng 2: Tỷ lệ các ngành trong nền kinh tế Thái Lan (%).

Năm

Nông nghiệp


Công nghiệp

Dịch vụ

1970

30,2

30,7

44,1

1980

32,2

28,7

48,1

1990

12,7

37,1

50,2

1994


10,0

39,2

50,8

Là một nước nông nghiệp truyền thống với các nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, và với gần 50% dân số tham gia vào nông nghiệp, Thái Lan đã nổi lên là
nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Hơn nữa, các sản phẩm nông nghiệp khác, cả hai
đều từ nông nghiệp và thủy sản, bao gồm cả chế biến sản phẩm nông nghiệp, rất quan
trọng với xuất khẩu của Thái Lan. Hiện nay, tuy nhiên, cả hai con số lực lượng lao động
và số lượng sản xuất đã giảm trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi ngành công nghiệp và
du lịch đã trở nên đáng kể cho GDP của Thái Lan. Thái Lan lại đạt được thành công lớn
trong cơ cấu lại sản xuất theo hướng đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Một số loại cây
trồng chủ yếu: lúa, ngô, sắn, mía...ngoài ra còn mở rộng một số loại cây trồng lấy sản
phẩm xuất khẩu như: dứa, thuốc lá, đậu tương...
Diện tích rừng chiếm khoảng 26,6% diện tích lãnh thổ. Chính phủ cấm hoàn toàn
việc xuất khẩu gỗ và đưa ra chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc.
Thái Lan có diện tích ngư trường lớn thứ 3 trong khu vực Châu á, sau Nhật Bản,
Trung Quốc. Sản lượng đánh bắt cá hàng năm đạt xấp xỉ 3 triệu tấn/năm.

• Công nghiệp gồm 4 ngành: công nghiệp chế biến lâm hải sản, công nghiệp dệt, công
nghiệp điện tử và điện dân dụng, công nghiệp sản xuất xi măng, trong đó ngành công
nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất.


• Dịch vụ gồm: ngân hàng, du lịch, khách sạn... Trong đó, ngành du lịch chiếm tỷ trọng
cao nhất.
Cùng với công nghiệp hoá, cơ cấu các ngành trong GDP đã thay đổi căn bản.

Thái Lan là một trong số ít nước bị thiệt hại nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng
kinh tế và tài chính năm 1997. Từ năm 1999 Thái Lan ra khỏi cuộc khủng hoảng, kinh
tế dần dần được phục hồi. Nền kinh tế Thái Lan phụ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu.
Hai thị trường lớn nhất của Thái Lan là Mỹ và Nhật Bản, tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ
là 20% và sang Nhật là 15% buôn bán của Thái Lan đối với thế giới. Nhưng do tác
động mạnh mẽ của sự suy giảm nền kinh tế thế giới đặc biệt là ở hai nền kinh tế Mỹ
và Nhật Bản cùng với sự giảm giá mạnh của nhiều mặt hàng nông sản trên thị trường
quốc tế, nhất là giá gạo đã làm cho xuất khẩu của Thái Lan suy yếu. Sau sự kiện 11/9,
sự phục hồi kinh tế Mỹ càng chậm, dự kiến năm 2001 kinh tế Mỹ chỉ đạt mức tăng
trưởng dưới 1,5 % và kinh tế thế giới cũng chỉ đạt 2,7%. Năm 2001 kinh tế Thái Lan
cũng chỉ tăng từ 1,3 – 1,8%.
Do tác động của kinh tế Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, chính phủ đã điều chỉnh kinh tế
hướng vào nội lực, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của dân. Chính phủ đã đề ra
hàng loạt chính sách, biên pháp như: tăng tiêu dùng chính phủ, duy trì thuế giá trị gia
tăng là 7% đến tháng 12-2003 để đảm bảo sức mua của người dân, hoãn nợ cho nông
dân, gây quỹ làng bản bằng cách cho vay mỗi làng bản 1 Triệu Baht, chính sách đẩy
mạnh xuất khẩu – mỗi làng một sản phẩm, đẩy mạnh du lịch và đánh thuế cao đối với
một số mặt hàng xa xỉ như rượu bia, thuốc lá v.v...
Kết quả là từ đầu năm 2002 kinh tế Thái Lan đã có dấu hiệu phục hồi.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm 1997 – 2000 (%)
Năm
Tốc độ tăng trưởng kinh tế(%)

1997 1998 1999 2000 2001 2002
-1,7
-10,8 4,2
4,3
1,7
3,0
Nguồn: Báo cáo tình hình thị trường Thái Lan năm 2001của Thương vụ Việt Nam.



×