ĐỊNH HƯỚNG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2011-2015 VÀ MỘT SỐ NHẬN
ĐỊNH VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CỦA VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.1 Định hướng cân đối ngân sách giai đoạn 2011-2015
3.1.1 Định hướng thu NSNN giai đoạn 2011 - 2015:
Thu NSNN được hình thành từ 2 nguồn thu chính là từ thuế, chi phí, lệ phí và thu từ tài sản.
Tuy nhiên, hiện nay chiếm 90% trong cơ cấu thu NSNN là từ thuế, do vậy để có được một
nguồn thu ổn định thì Việt Nam phải xây dựng cho mình một cơ cấu thuế hợp lý, phù hợp với
tiềm lực kinh tế xã hội của quốc gia. Và chính cơ cấu này cũng sẽ tác động ngược trở lại kinh
tế, xã hội của đất nước. Qua cải cách thuế bước 1, bước 2, bước 3 hệ thống thuế Việt Nam đã
dần tạo ra được nguồn thu hợp lý cho NSNN vừa đảm bảo nguồn thu vừa tạo điều kiện để các
doanh nghiệp phát triển.
Định hướng của Việt Nam trong thời gian tới và cụ thể là trong giai đoạn 2011 – 2015 xác
định thuế thu nhập cá nhân và các nguồn thu nội địa mới chính là nguồn thu chủ yếu của
NSNN. Do vậy, việc đầu tiên mà Việt Nam cần làm là làm như thế nào để từng công dân Việt
Nam đều biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với công cuộc xây dựng đất nước. Từ
đó nâng tỷ lệ thu NSNN từ thuế Thu nhập cá nhân đến năm 2015 đạt 12% chứ không như
những năm trước đây, tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 5%. Đây cũng là nguồn thu hợp lý được
nhiều nước lựa chọn là một trong những nguồn chính của NSNN. Ngoài ra, Chính phủ và
quốc hội trong những phiên họp thường niên cũng đã xác định giảm thu NSNN từ các loại
thuế như:
+ Đối với thuế xuất nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt Việt Nam xác định đây không còn
là nguồn thu chủ yếu trong NSNN như những năm trước đây (nguồn thu này chiếm xấp xỉ
20% thu NSNN). Bởi sau gia nhập WTO chúng ta phải đảm bảo nguyên tắc hai bên cùng có lợi
đối với các nước tham gia WTO nên một số mặt hàng xuất nhập khẩu sẽ được miễn giảm
thuế, dẫn đến giảm thu. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn để chúng ta không còn dựa vào
thu từ XNK, Thuế TTĐB để làm nguồn thu chính của NSNN là do nguồn thu này không ổn
định, nó phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới và hiện nay nhà nước Việt Nam vẫn còn bảo hộ
hàng hóa trong nước.
+ Thu từ dầu thô hàng năm chiếm khoảng 25% thu NSNN, tuy nhiên trong thời gian tới
khoản thu này sẽ giảm xuống do nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam không phải là vô
tận và nó phụ thuộc vào giá dầu thế giới.
+ Thu từ nhà đất cũng sẽ giảm xuống do quỹ đất ngày càng hạn hẹp do thu hồi để đầu tư các
khu Công nghiệp và trong thu hồi đất đai còn phải đền bù để xây dựng các công trình công
cộng.
Do vậy, Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 11 cũng đã dưa ra chỉ tiêu thu NSNN trên GDP
trong giai đoạn 2011 – 2015 sẽ giảm dần, cụ thể năm 2011 thu NSNN chiếm 26% GDP và dần
giảm xuống còn 22% GDP vào năm 2015.
Dự toán kế hoạch Thu Ngân sách nhà nước năm 2011:
Để góp phần tăng tính ổn định và bền vững của Ngân sách nhà nước, vừa qua Bộ Tài chính đã
công bố kèm quyết định 3212/QĐ-BTC ngày 08/12/22010 với dự toán thu NSNN năm 2011 là
595,000 tỷ đồng tương đương 26.2% GDP; tính cả 10,000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm
2010 sang năm 2011 thì tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 605,000 tỷ đồng. Như vậy,
thu NSNN năm 2011 tăng 12.7% so với năm 2010. Theo đó dự kiến thu như sau:
+ Thu nội địa: Tổng thu 382,000 tăng 19.3% so với năm 2010. Trong đó, dự toán thu từ khu
vực kinh tế quốc doanh tăng 19.9%; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 19.8%; thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng 22.2%; thu thuế thu
nhập cá nhân tăng 23.7% so với ước thực hiện năm 2010.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: Với kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng 10% so với
ước thực hiện năm 2010, nhập siêu không vượt quá 18% kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, trong
năm nay dự kiến sẽ thực hiện cắt giảm nhiều dòng thuế để thực hiện các cam kết quốc tế, làm
giảm thu ngân sách Nhà nước khoảng trên 2,000 tỷ đồng; đồng thời tiếp tục sử dụng linh hoạt
công cụ thuế để hạn chế nhập siêu (nhất là các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu), hạn chế
xuất khẩu nguyên liệu thô. Dự toán thu năm 2011 cũng đã tính tới yếu tố đẩy mạnh công tác
xử lý, thu hồi nợ đọng, cải cách hành chính, thủ tục hải quan và công tác kiểm tra sau thông
quan, tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và trốn thuế. Như vậy,
dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2011 từ hoạt động xuất nhập khẩu là 180,700 tỷ đồng,
tăng 12.4% so với ước thực hiện năm 2010, trong đó thu từ thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB
2
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
hàng nhập khẩu là 80,400 tỷ đồng, tăng 12%; dự toán thu từ thuế GTGT hàng nhập khẩu là
100,300 tỷ đồng, tăng 12.7% so với ước thực hiện năm 2010. Sau khi trừ đi số chi hoàn thuế
theo chế độ năm 2011 dự kiến là 42,000 tỷ đồng, thì dự toán thu cân đối NSNN từ hoạt động
xuất nhập khẩu năm 2011 là 138,700 tỷ đồng, tăng 14% so với ước thực hiện năm 2010.
+ Thu từ dầu thô: dự kiến đạt 69,300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng đạt 14.02 triệu
tấn, giá bình quân đạt 77 USD/thùng.
(Xem chi tiết các khoản thu NSNN tại phụ lục 01)
3.1.2 Định hướng Chi NSNN giai đoạn 2011 – 2015:
Đối với các khoản chi NSNN trong giai đoạn 2011 - 2015 Việt Nam cũng định hướng ưu
tiên các khoản chi cho Giáo dục đào tạo, hỗ trợ học sinh, sinh viên và phổ cập giáo dục,
chăm lo đời sống của bà con dân tộc là chủ yếu. Cân đối và có định hướng rõ ràng đối với
các khoản chi đầu tư phát triển, cắt giảm những đầu tư công không hiệu quả, bỏ những dự án
không cần thiết, chấm dứt hiện trạng đầu tư dàn trải, phân tán. Tuy nhiên, nhà nước phải quan
tâm đầu tư cho lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống,…và các công trình
kinh tế mũi nhọn nhằm xây dựng, cải tạo hệ thống hạ tầng đã xuống cấp, hoạt động kém hiệu
quả. Riêng đối với chi cho các đơn vị nhà nước có nguồn thu thì Chính phủ, Bộ tài chính cũng
đã ra các văn bản pháp lý khoán kinh phí cho những đơn vị này, lấy thu bù chi như nghị định
số 43/2006/NĐ/CP ngày 25/04/2006 của chính phủ về việc quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thự hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ tài
chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu nhằm tạo tính chủ động để các đơn vị cân đối thu
chi của mình cho hợp lý.
Dự toán Chi NSNN năm 2011:
Bên cạnh kế hoạch thu NSNN năm 2011, Bộ tài chính cũng đã lên dự toán chi NSNN rõ ràng
và được công bố theo nghị định 3212/QĐ-BTC ngày 08/12/2010. Theo đó, năm nay dự kiến
chi NSNN khoảng 725,600 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
+ Về chi thường xuyên , trong năm 2011 chi khoảng 442,100 tỷ đồng, tăng 18.1% so với dự
toán năm 2010, chiếm 60.9% tổng chi ngân sách Nhà nước.
3
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
+ Riêng chi đầu tư phát triển chiếm 152,000 tỷ đồng, tăng 21.1% (26.500 tỷ đồng) so dự
toán năm 2010, chiếm 20,9% tổng chi ngân sách Nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ đảm
bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế.
+ Đối với chi trả nợ, viện trợ trong năm 2011, dự kiến 86,000 tỷ đồng, tăng 22.4% so dự
toán năm 2010, chiếm 11.9% tổng chi ngân sách Nhà nước để đảm bảo chi trả các khoản nợ
trong và ngoài nước đến hạn.
+ Chi trợ giá các mặt hàng chính sách là 1,660 tỷ đồng, tăng 35.6% so dự toán năm 2010.
Chi lương hưu và đảm bảo xã hội là 74,500 tỷ đồng, tăng 9.9% so dự toán năm 2010. Chi sự
nghiệp kinh tế là 42,540 tỷ đồng, tăng 58.3% so dự toán năm 2010. Chi sự nghiệp bảo vệ môi
trường là 7,250 tỷ đồng, tăng 16.4% so dự toán năm 2010, chiếm 1% tổng chi ngân sách Nhà
nước. Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo là 110,130 tỷ đồng, tăng 13.9% so dự toán năm 2010.
Chi sự nghiệp y tế là 43,200 tỷ đồng, tăng 30.9% so dự toán năm 2010. Chi sự nghiệp khoa
học và công nghệ là 6,430 tỷ đồng, tăng 24.4% so dự toán năm 2010...
(Xem chi tiết các khoản chi NSNN tại phụ lục 01)
3.1.3 Định hướng cân đối NSNN trong giai đoạn 2011 – 2015:
Hiện trạng cân đối thu chi của nước ta trong những năm qua vẫn thường là bội chi với tỷ lệ
khoảng từ 5%-7% GDP hàng năm. Do vậy việc giảm bội chi, tăng thu NSNN là vấn đề cấp
thiết ảnh hướng đến an ninh tài chính quốc gia. Định hướng những năm tới tỷ lệ bội chi của
Việt Nam sẽ dưới 5% GDP, đây là chỉ số được Việt Nam đánh giá là an toàn đối với tài
chính quốc gia. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì chỉ số này nên ở mức từ 1.5 – 2% GDP.
Năm 2011, ước đoán bội chi NSNN khoảng 120,600 tỷ đồng. Đề bù đắp phần bội chi này,
chính phủ và quốc hội dự kiến vay trong nước 92,600 tỷ đồng và vay từ nước ngoài khoảng
28,000 tỷ đồng và phần bội chi này sẽ dành cho chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Như vậy,
ước tính bội chi năm nay là 5.3% GDP, đây là một trong những mục tiêu lớn mà chính phủ đã
đề ra. Bên cạnh đó Chính phủ, UB Tài chính – ngân sách cũng yêu cầu thực thi chính sách tài
khoá thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thu, chi NSNN và đề ra 08 biện pháp trọng tâm nhằm thực
hiện mục tiêu giảm bội chi như sau:
4
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
+ Xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030, phối hợp đồng
bộ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác đảm bảo các mục tiêu
kinh tế - xã hội đã đề ra trong năm 2011.
+ Tăng cường công tác thu ngân sách đảm bảo thu đúng, thu đủ theo luật đinh. Trong trường
hợp thu NSNN tăng hơn dự kiến ban đầu thì được sử dụng ít nhất 30% để giảm bội chi
NSNN.
+ Quản lý chặt chẽ chi NSNN, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, hạn chế chi ngoài dự toán, chi
vượt thẩm quyền, chi sai quy định của Luật NSNN và các nghị quyết của Quốc Hội.
+ Xác định rõ đối tượng ưu tiên đầu tư, tập trung vốn cho các công trình trọng điểm, cấp bách
hoàn thành trong năm 2011 – 2012.
+ Thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu, thực hiện chế độ phụ cấp công vụ, phụ cấp thâm
niên ngành giáo dục nhằm đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên.
+ Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn
vị sự nghiệp công. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các loại
hình sự nghiệp và tăng cường quản lý đối với các dịch vụ công đã xã hội hóa.
+ Quốc hội chấp thuận phát hành thêm 45,000 tỷ đồng vốn trái phiếu chính phủ để tiếp tục
thực hiện các dự án giao thông, thuỷ lợi và kiên cố hoá kết hợp chuẩn hóa trường lớp học,
thực hiện đầu tư, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện, đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó
khăn và xây dựng ký túc xá sinh viên,... .
+ Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các khoản chi được quản lý qua ngân
sách nhà nước, vay về cho vay lại, bảo lãnh vay của Chính phủ, các khoản chi từ các quỹ tài
chính Nhà nước, các khoản vay, tạm ứng của các Bộ, chính quyền địa phương. Khắc phục tình
trạng tạm ứng vốn quá lớn, thời gian tạm ứng vốn quá dài hoặc không quy định cụ thể thời
gian phải hoàn trả, nhất là đối với các khoản tạm ứng ngân sách năm sau. Quản lý chặt chẽ
việc huy động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các Tập đoàn kinh tế,
Tổng công ty nhà nước, kể cả các khoản vay trong và ngoài nước, bảo đảm sử dụng vốn có
hiệu quả.
Nhận xét về định hướng cân đối ngân sách giai đoạn 2011-2015
Ưu điểm:
5
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
- Đối với thu: đã xác định được nguồn thu hợp lý và cơ cấu nguồn thu phù hợp trong tương lai
khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Nhà nước cũng đã xây dựng kế hoạch thu hồi
nợ công trong những năm tới giúp phần nào tăng nguồn thu cho NSNN.
- Đối với chi: Do Việt Nam là một nước đang phát triển nên cơ cấu chi với tỷ trọng chi cho đầu
tư phát triển chiếm tỷ trọng cao là hợp lý.
Nhược điểm:
- Văn bản pháp lý liên quan vẫn còn những kẻ hở để kẻ gian lợi dụng nên hay xảy ra các
trường hợp tham nhũng, chiếm đoạt của công làm giảm thu hoặc tăng chi cho nhà nước.
- Chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chiếm tỷ trọng cao là hợp lý tuy nhiên hiện nay Việt Nam
vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trải
3.2 Kiến nghị về cân đối NSNN trong giai đoạn 2011 – 2015
Để đáp ứng được vấn đề chi NSNN trong khi thu NSNN có hạn thì Việt Nam cần chú trọng
một số vấn đề trong thời gian tới như:
Về thu:
- Đảm bảo duy trì mức động viên ngân sách hợp lý. Trên cơ sở xác định mức độ động viên phù
hợp, thực hiện cải cách cơ cấu hệ thống chính sách thuế theo định hướng đảm bảo tính hợp lý
trong cơ cấu của ba loại thuế cơ bản: thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản (chủ yếu là
thuế nhà đất). Trong đó, cần hướng tới việc gia tăng từng bước tỷ trọng các nguồn thu từ thuế
TNCN và từ thuế nhà và đất.
- Thực hiện cải cách thuế theo hướng đảm bảo công bằng và xem xét lại mức thuế suất của một
số mặt hàng cũng như những trường hợp miễn giảm thuế.
- Nâng cao hiệu quả chính sách thuế đới với tài nguyên, đất đai. Bởi đây là những nguồn tài
nguyên có hạn, nếu không có sự hạn chế cũng như có mức thuế phù hợp có thể dẫn đến những
trường hợp khai thác trần lan, bất hợp pháp làm giảm nhanh chóng nguồn tài nguyên.
- Cải cách hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế cũng như giảm được chi
phí trong ngành thuế.
Về chi:
- Cần có những dự báo kinh tế chi tiết hơn về sự phát triển kinh tế trong tương lai nhằm đưa ra
một cơ cấu chi trong từng năm hợp lý nhất. Như nên đưa một số đầu tư công vào lĩnh vực tư
6
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
nhân để cả nhà nước và nhân dân cùng làm sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư cũng như góp phần
kích thích kinh tế phát triển.
- Vẫn ưu tiên những khoản chi đầu tư phát triển và chi phát triển con người, an sinh xã hội. Tuy
nhiên, cần xem xét lại những dự án đầu tư chặt chẽ nhằm phát hiện sớm nhất những dự án
không khả thi, không hiệu quả tránh tình trạng chiếm dụng vốn của NSNN.
- Cần minh bạch hơn nữa trong vấn đề thu chi cũng như quản lý NSNN trong thời gian tới.
Đồng thời có những biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm tránh thất thoát nguồn
thu.
- Nên đưa những khoản giảm thu từ thuế TNCN về chi tiêu thường xuyên trong cơ cấu chi để
giảm tình trạng gian lận nhằm tăng thu cũng như số chi được chính xác hơn.
3.3 Hoàn thiện cân đối NSNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
3.3.1 Trong điều kiện bình thường
3.3.1.1 Về phía thu
Để đảm bảo tính bền vững của nguồn thu nhằm tạo sự chủ động trong cân đối NSNN, thời
gian tới cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu thu NSNN theo hướng giảm mức độ phụ thuộc vào
các nguồn thu có liên quan đến hoạt động ngoại thương và dầu khí, tăng tỷ trọng các nguồn
thu từ hoạt động kinh tế trong nước, đồng thời nâng tỷ trọng thu từ khu vực kinh tế tư
nhân/GDP. Sự chuyển dịch trên cần thực hiện các biện pháp sau:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và cải cách công tác thu thuế
Hệ thống chính sách thuế cần được hoàn thiện theo hướng mở rộng diện chịu thuế đồng thời
với việc xác định hợp lý các mức thuế suất để đảm bảo được tính công bằng và hiệu quả của
hệ thống thuế, đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập và đảm bảo nguồn thu vững chắc
cho NSNN.
Công tác quản lý thu thuế phải được cải cách theo hướng nâng cao chất lượng, tính chuyên
nghiệp và tính pháp lý, chống thất thu có hiệu quả. Cần tập trung vào các vấn đề sau: Tăng
cường tuyên truyền giáo dục đối tượng nộp thuế; khuyến khích phát triển các dịch vụ tư vấn
về thuế, kế toán thuế, hoàn thiện pháp luật về kế toán; thường xuyên đảy mạnh công tác thanh
tra kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm trong
việc thực hiện các chính sách thuế; đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế
7
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
từ khâu quản lý đối tượng nộp thuế đến kê khai thuế, hồ sơ hoàn thuế, đối chiếu hóa đơn,
…;đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy
quản lý thuế; khuyến khích và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Khai thác nguồn thu từ tài sản công trên cơ sở tăng cường quản lý công sản.
Tăng cường quản lý công sản, dặc biệt là tài nguyên đất, hoàn thiện cơ chế đấu giá, định giá
đất đai, tài sản theo hướng thị trường hóa các quan hệ này để đảm bảo tính công khai, minh
bạch nhằm khai thác tốt hơn nguồn lực tài chính, từ đó có thể cân đối NSNN theo hướng đầu
tư xây dựng kết hợp với tăng cường bảo dưỡng và vận hành để nâng cấp cơ sở hạ tầng, phục
vụ chiến lược tăng trưởng.
3.3.1.2 Về phía chi
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN.
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi
xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa
là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm,
thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công,
những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những
khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Hoàn thiện hệ thống các định mức phân bổ chi tiêu.
Hệ thống định mức cần mang tính định hướng (hướng dẫn) để cho các đơn vị sử dụng ngân
sách có thể tự quyết định trong phân bổ chi tiêu, miễn là đạt được hiệu quả, hiệu lực trong
phân bổ và sử dụng nguồn lực. Hạn chế sử dụng các định mức bắt buộc và chỉ sử dụng trong
trường hợp có thể giám sát việc thực hiện. NSNN thực chất là tổng số nguồn lực phân bổ cho
đơn vị thụ hưởng ngân sách để trang trải cho các hoạt động theo yêu cầu, từ đó, đơn vị thụ
hưởng có quyền tự chủ trong phân bổ và chi tiêu ngân sách của mình.
Hệ thống các định mức cần cập nhật thường xuyên cho phù hợp với thực tiễn và linh hoạt cho
phụ hợp với sự khác biệt giữa các vùng, địa phương. Đồng thời hệ thống định mức cũng nên
được xây dựng trên nguồn lực tài chính toàn diện, không phân biệt nguồn trong ngân sách và
ngoài ngân sách.
8
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10
Xã hội hóa các khoản đầu tư công
Cần hoàn thiện và đẩy mạnh cơ chế tạo cơ hội để các DNTN tham gia các dự án đầu tư công,
được sử dụng nguồn ngân sách nhà nước để đầu tư các dự án theo mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Nhìn ở góc độ doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam bao gồm cả DNNN, DNTN
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp
đang ở trên cùng một “con thuyền”. Nếu con thuyền đó vững vàng, thì doanh nghiệp, cũng
như nền kinh tế được hưởng lợi. Điều này cũng có nghĩa là, hiệu quả đầu tư nguồn vốn nhà
nước sẽ không chỉ cho DNNN hưởng lợi, mà là toàn bộ nền kinh tế, trong đó các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân được hưởng lợi.
Cũng phải khẳng định rằng, có những lĩnh vực, ngành nghề DNNN thực hiện tốt hơn, có
những lĩnh vực thuộc về thế mạnh của DNTN, hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chính vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn đầu tư, xây dựng các dự án đầu tư không phải là phân
cho DNNN hay chia sẻ cho khu vực tư nhân, mà là dựa trên lợi ích cao nhất là hiệu quả kinh
tế của các dự án đầu tư và lợi ích của quốc gia, của nền kinh tế để lựa chọn đối tác thực hiện.
Trên quan điểm này, cùng với các cơ chế phân bổ nguồn lực công khai, minh bạch, theo
nguyên tắc là lợi ích và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế, những tồn tại trong xử lý tăng chi
đầu tư công, bội chi ngân sách khả năng sẽ được giải quyết.
Hơn thế, với cách làm này, việc quản lý của Chính phủ với các dự án đầu tư công sẽ được
thực hiện tốt hơn khi số lượng các dự án giảm đi, nguồn lực trong dân sẽ được khai thác tối
đa. Bài toán tăng trưởng bền vững từ hiệu quả đầu tư sẽ đem lại cơ hội và điều kiện tăng
trưởng bền vững cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
3.3.1.3 Về biện pháp cân đối ngân sách
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là phát triển
bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi
các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong
tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi
tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Có
9
Tiểu luận Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nhóm 5
Cao học Tài chính Ngân hàng K10