Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Ngành, nghề đầu tư kinh doanh theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƯ KINH DOANH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

CHU THẾ LƯỢNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
số liệu nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các
cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của Luận văn là mới và
chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày

tháng

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Chu Thế Lượng


năm 20


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại trường Đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đoàn Trung Kiên đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình. Xin chân thành tới các thầy cô giáo,
người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong thời gian học
vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo sau
đại học, trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 20

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Chu Thế Lượng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƯ KINH
DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƯ KINH DOANH ...........5

1.1. Những vấn đề chung về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ...........................5
1.1.1. Khái niệm ngành, nghề đầu tư kinh doanh và điều kiện đầu tư kinh
doanh ....................................................................................................................5
1.1.2. Phân loại ngành, nghề đầu tư kinh doanh ................................................10
1.1.3. Vai trò của ngành, nghề đầu tư kinh doanh và điều kiện đầu tư kinh
doanh trong quản lý nhà nước về kinh tế..........................................................12
1.2. Khái quát pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ..........................15
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về ngành, nghề đầu tư
kinh doanh .........................................................................................................15
1.2.2. Nội dung của pháp luật điều chỉnh ngành, nghề đầu tư kinh doanh........18
1.2.3. Vai trò của pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ........................19
1.2.4. Mối quan hệ giữa pháp luật về quyền tự do kinh doanh và điều kiện
kinh doanh .........................................................................................................20
1.2.5. Pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh một số quốc gia trên thế
giới .....................................................................................................................21
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƯ
KINH DOANH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM ...........................25
2.1. Thực trạng pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở Việt Nam ...25
2.1.1. Quy định về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh ...................................29
2.1.2. Quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện ......................32
2.1.3. Quy định về ngành, nghề tự do kinh doanh .............................................36
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở Việt
Nam .......................................................................................................................37


Chương 3. NGUYÊN TẮC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƯ KINH DOANH Ở VIỆT NAM ....................................45
3.1. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở
Việt Nam ..............................................................................................................45

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh phải đảm bảo
quyền tự do kinh doanh .....................................................................................45
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh phải phù hợp, thống
nhất với hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam ......47
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh phải phù hợp với
cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh ..........................47
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh phải phù hợp với
các cam kết từ điều ước quốc tế và các hiệp định thương mại song phương và
đa phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập .............................................48
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ...................................................49
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh
doanh .................................................................................................................49
3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi hành pháp luật về ngành,
nghề đầu tư kinh doanh ở Việt Nam ..................................................................55
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trên đà phát triển, từng bước
hội nhập với khu vực và thế giới vì vậy Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận
lợi để các cá nhân, tổ chức tiến hành thành lập doanh nghiệp để tổ chức các hoạt
động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận cho mình và phát triển đất nước.
Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở các lĩnh
vực khác nhau nên pháp luật điều chỉnh cũng với mức độ khác nhau cho phù hợp
với mục tiêu, trình độ quản lý, với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, của các địa
phương và vùng kinh tế. Có những ngành nghề có vai trò vô cùng quan trọng, nếu
Nhà nước không quản lý chặt chẽ sẽ gây hậu quả cho xã hội. Vì vậy, yêu cầu cần

thiết đặt ra là phải có những quy phạm pháp luật phù hợp, đảm bảo tính khả thi
nhằm thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức phát triển hoạt động kinh
doanh, sản xuất của mình.
Một trong những công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước đó là thiết lập được
hệ thống ngành nghề đầu tư kinh doanh, phân loại được danh mục ngành, nghề đầu
tư kinh doanh nào là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, ngành, nghề đầu
tư kinh doanh nào bị cấm và ngành, nghề đầu tư kinh doanh không bị giới hạn bởi
các điều kiện. Tuy nhiên, hiện nay một số các quy định trong quản lý ngành, nghề
đầu tư kinh doanh đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót gây nhiều khó khăn cho công
tác quản lý Nhà nước của các cơ quan chức năng cũng như hạn chế khả năng kinh
doanh của các cá nhân, tổ chức muốn đầu tư kinh doanh.
Việc từng bước xây dựng và hoàn thiện các nội dung quy định về ngành,
nghề đầu tư kinh doanh là một đòi hỏi khách quan và phù hợp với quy luật phát
triển chung của xã hội. Đây còn là một vấn đề hết sức quan trọng bởi nó tác động,
điều chỉnh làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, tổ
chức kinh doanh.

1


Chính vì vậy, việc kiểm tra, rà soát, đánh giá các quy định của pháp luật
nhằm điều chỉnh ngành, nghề đầu tư kinh doanh hiện nay nhằm tìm ra những quy
định còn phù hợp, những quy định lạc hậu hay cần phải bổ sung thêm những quy
định khác để điều chỉnh, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phù hợp tình hình
thực tế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về ngành, nghề đầu tư kinh
doanh là rất cần thiết. Việc hiểu rõ pháp luật về vấn đề này cũng có ý nghĩa tích cực
đối với các cơ sở kinh doanh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc chủ động
tuân thủ pháp luật, phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm và các hoạt động
tội phạm lợi dụng loại hình kinh doanh này gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của

người tiêu dùng. Đây là lý do tôi lựa chọn đề tài “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh
theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây, đã có các công trình khoa học nghiên cứu những quy định pháp
luật điều chỉnh ngành, nghề đầu tư kinh doanh tuy nhiên chỉ với số lượng ít và phần
lớn là nghiên cứu về các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Một trong
những công trình tiêu biểu là “Thực trạng pháp luật về giấy phép kinh doanh” trên
tạp chí nghiên cứu lập pháp, văn phòng Quốc hội, số 04 (2013) của tác giả Trần
Huỳnh Thanh Nghị. Công trình này nghiên cứu phân tích, đánh giá hiệu quả việc áp
dụng giấy phép kinh doanh bởi đây là một trong những điều kiện quan trọng sau thủ
tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Bài viết “Pháp luật về ngành nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện” của TS. Nguyễn Thị Yến, ThS Trần
Bảo Ánh – Tạp chí Luật học - trường Đại học Luật Hà Nội, số 04 (2013) nghiên
cứu cả về góc độ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn áp dụng luật. Ở cấp độ Luận văn
thạc sĩ luật học có “Pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam - Thực trạng và
hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Huyền Trang, Đại học Luật Hà Nội,
2014 hay“Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam” của tác giả
Vũ Thị Hiền, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014. Tuy nhiên, do nội dung nghiên
cứu chỉ dưới góc độ là một bài viết hoặc giới hạn phạm vi nghiên cứu vào các
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện nên vấn đề nghiên cứu, phân tích, đánh

2


giá không được toàn diện, không bao quát hết các quy định về các ngành, nghề đầu
tư kinh doanh nói chung.
Như vậy, cho đến nay có thể thấy, các công trình khoa học nghiên cứu vấn
đề pháp luật điều chỉnh các ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở Việt Nam chưa được
nhiều và chưa công trình nào đưa ra những luận điểm khoa học toàn diện về vấn đề
này, nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN năm 2014) và Luật Đầu tư

năm 2014 (LĐT năm 2014) được ban hành.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu chủ yếu là những vấn đề pháp lý liên quan
đến ngành, nghề đầu tư kinh doanh được quy định tại LDN năm 2014 và LĐT
năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu luận văn được tiến hành trên nền tảng là cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật Nhà nước Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện pháp luật doanh
nghiệp, pháp luật về đầu tư nói chung và pháp luật về các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp khoa học như: phân tích, tổng hợp,
thống kê, phương pháp so sánh để hoàn thiện luận văn này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp chủ yếu được sử dụng trong chương I
nhằm làm rõ và khái quát các vấn đề lý luận về ngành nghề kinh doanh, điều kiện
đầu tư kinh doanh, đầu tư kinh doanh ngành nghề có điều kiện và ngành, nghề đầu
tư kinh doanh bị cấm. Các phương pháp này cũng được sử dụng tại chương 3 khi
các giải pháp hoàn thiện pháp luật kèm theo các phân tích luận giải thuyết phục ở
góc độ lý luận và thực tiễn;
Phương pháp luật học so sánh và phương pháp phân tích được sử dụng tại
chương 2 để làm rõ thực trạng pháp luật ngành nghề kinh doanh, ngành nghề có
điều kiện, ngành, nghề đầu tư kinh doanh bị cấm cùng với những đánh giá vướng
mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật thuộc lĩnh vực này.

3


5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: là nghiên cứu cơ sở lý luận về ngành, nghề đầu tư kinh
doanh, các điều kiện kinh doanh và pháp luật điều chỉnh đối ngành, nghề đầu tư

kinh doanh. Dựa vào đó để đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành và
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh
doanh ở Việt Nam.
Để thực hiện được các mục đích đã đề ra trong Luận văn, các nhiệm vụ cần
đặt ra giải quyết là:
- Nêu và phân tích một số vấn đề lý luận về ngành, nghề đầu tư kinh doanh,
điều kiện kinh doanh;
- Phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với ngành, nghề đầu tư
kinh doanh;
- Làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh ngành, nghề đầu tư
kinh doanh;
- Nêu và phân tích thực trạng pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở
Việt Nam:
- Chỉ ra và phân tích một số vướng mắc cụ thể hiện nay về ngành, nghề đầu
tư kinh doanh ở Việt Nam:
- Xác định nguyên tắc và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện các quy định
pháp luật hiện hành về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về ngành, nghề đầu tư kinh doanh và pháp
luật ngành, nghề đầu tư kinh doanh
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh và thực
tiễn thi hành ở Việt Nam.
Chương 3: Nguyên tắc và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.

4



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƯ
KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGÀNH, NGHỀ
ĐẦU TƯ KINH DOANH
1.1. Những vấn đề chung về ngành, nghề đầu tư kinh doanh

1.1.1. Khái niệm ngành, nghề đầu tư kinh doanh và điều kiện đầu tư kinh
doanh
1.1.1.1. Khái niệm ngành, nghề đầu tư kinh doanh
Ngành, nghề đầu tư kinh doanh là thuật ngữ được dùng khá nhiều trong
các văn bản luật và trong đời sống xã hội, tuy nhiên chưa có giải thích hay định
nghĩa thấu đáo về thuật ngữ này. Thuật ngữ này được cấu thành bởi nội hàm là
“Ngành”, “ Nghề” và “Đầu tư kinh doanh”. Theo đó, “Ngành” ở đây được hiểu
là ngành kinh tế, là bộ phận của nền kinh tế chuyên tạo ra hàng hóa và dịch vụ.
Xã hội và nền văn minh của con người càng phát triển thì ngành kinh tế càng
được mở rộng và cơ cấu các ngành kinh tế trong tổng thể một nền kinh tế quốc
gia có sự thay đổi. Các ngành kinh tế thường được xếp vào 4 khu vực sau: (1)
Khu vực sản xuất sơ khai gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khai mỏ
và khai khoáng; (2) Khu vực công nghiệp và xây dựng; (3) Khu vực dịch vụ:
giao thông, tài chính, du lịch, giải trí…; (4) Khu vực tri thức hiện có xu hướng
tách một số ngành trong khu vực dịch vụ gồm giáo dục, nghiên cứu và phát
triển, thông tin, tư vấn thành khu vực riêng. “Nghề” được hiểu là nghề nghiệp,
những công việc trong hệ thống từng lĩnh vực hoạt động có tính chuyên biệt và
ổn định. Như vậy, việc các nhà nước trên thế giới xếp các hoạt động kinh
doanh vào các mã ngành nghề để quản lý, phân loại phục vụ cho công tác quản
lý kinh tế và xã hội. Đồng thời tạo thành chuẩn mực từng loại hình doanh
nghiệp hoạt động đặc thù. Còn đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu
tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế;
đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo


5


hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư1 Với cách hiểu nội hàm các bộ
phận cấu thành như trên thì có thể hiểu ngành, nghề đầu tư kinh doanh là hệ
thống các ngành, nghề trong nền kinh tế của một quốc gia, được mã hóa thành
các ngành, nghề cụ thể để phục vụ công tác quản lý, được các nhà đầu tư lựa
chọn để thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Trên thực tế, ngành, nghề đầu tư kinh doanh do nhà đầu tư quyết định lựa
chọn khi thành lập doanh nghiệp hoặc khi đăng kí kinh doanh với những loại
hình tổ chức kinh doanh khác nhau. Tuỳ thuộc khả năng, nhu cầu kinh doanh,
nhà đầu tư có thể lựa chọn lại, lựa chọn bổ sung ngành, nghề đầu tư kinh doanh
thông qua việc thay đổi nội dung kinh doanh trong quá trình hoạt động. Tự do
lựa chọn ngành, nghề đầu tư kinh doanh là một nội dung quan trọng của quyền
tự do kinh doanh. Hiến pháp năm 2013 và LDN năm 2014 cho phép doanh
nghiệp được quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm. Với nguyên tắc này, việc xác định ngành nghề bị cấm kinh doanh là
rất quan trọng bởi ngoài phạm vi đó, quyền tự do lựa chọn ngành, nghề đầu tư
kinh doanh của nhà đầu tư được xác lập và đảm bảo thực hiện, ngay cả khi
ngành nghề đó chưa được liệt kê trong danh mục hệ thống ngành kinh tế quốc
dân. Mặt khác, doanh nghiệp cũng sẽ không gặp rắc rối khi sáng tạo ra những
ngành, nghề đầu tư kinh doanh mới, những cách tìm kiếm lợi nhuận đa dạng,
phong phú không có trong hướng dẫn thực hiện thủ tục đăng kí kimh doanh tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để kiểm soát ngành, nghề đầu tư kinh doanh
thuộc phạm vi được phép hay vượt ra ngoài giới hạn, việc kê khai thông tin về
ngành, nghề đầu tư kinh doanh khi đăng kí kinh doanh là tất yếu, cho dù giấy
chứng nhận đăng kí doanh nghiệp khi dược cấp không ghi thông tin này. Như
vậy, có thể khẳng định, tổ chức, cá nhân có quyền quyết định lựa chọn ngành,
nghề đầu tư kinh doanh còn Nhà nước giữ quyền kiểm soát sự lựa chọn đó thông
qua các quy định thủ tục hành chính cần thực hiện khi gia nhập thị trường. Nhà

nước sắp xếp các hoạt động kinh doanh vào các mã ngành nghề để quản lý, phân

6


loại phục vụ cho công tác quản lý kinh tế và xã hội. Đồng thời tạo thành chuẩn
mực từng loại hình doanh nghiệp hoạt động đặc thù.
1.1.1.2. Khái niệm điều kiện đầu tư kinh doanh
Điều kiện kinh doanh là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng mà pháp
luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quy định, bởi nội dung của điều
kiện kinh doanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh cũng như sự
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Ở góc độ ngôn ngữ, điều kiện kinh doanh được hiểu là những yếu tố tác
động đến hoạt động kinh doanh, là những yêu cầu, đòi hỏi cần đáp ứng khi tiến
hành các hoạt động kinh doanh.
Trong khoa học pháp lí, khái niệm về điều kiện kinh doanh được hiểu tương
đối thống nhất. Theo quan điểm của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa: “Điều kiện kinh
doanh là mọi sự can thiệp của cơ quan hành chính vào quyền tự do kinh doanh của
người dân, thường được cụ thể hóa bằng những hành vi của nhân viên hành chính
có quyền chấp nhận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức những hoạt
động kinh doanh cụ thể”1. Trong đó, hành vi hành chính có thể biểu hiện dưới dạng
nhiều hình thức khác nhau, ví dụ như thông qua một văn bản pháp quy ấn định
những hạn chế cho người kinh doanh, thông qua hành vi cấp phép chấp thuận hoặc
từ chối của cơ quan hành chính, thông qua hành vi giám sát của cơ quan hành chính
về việc tuân thủ điều kiện kinh doanh…
Xét từ góc độ chủ thể kinh doanh, điều kiện kinh doanh là những tiêu chuẩn
đòi hỏi họ phải đáp ứng trong quá trình hoạt động với sự giám sát, kiểm tra của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. LĐT năm 2014 không đưa ra khái niệm về điều kiện
kinh doanh mà chỉ quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại
khoản 1 Điều 7 như sau: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành,

nghề mà việc thực hiện hoạt động hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề

Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế. Tập 1: Luật Doanh nghiệp (Tình huống – Phân tích – Bình
luận), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006, tr 23,24
1

7


đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Trên cơ sở các phân tích trên, có thể hiểu điều kiện đầu tư kinh doanh là
những yêu cầu, đòi hỏi phải đáp ứng do Nhà nước quy định cho các chủ thể kinh
doanh khi tiến hành kinh doanh những ngành, nghề cụ thể và được thể hiện dưới
những hình thức nhất định.
Thứ nhất, chủ thể ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh
Điều kiện kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Theo
quy định của pháp luật hiện hành, chỉ có Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ có thẩm quyền trong việc quy định, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những điều
kiện kinh doanh thông qua việc ban hành Luật, Pháp lệnh, Nghị định và điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bộ, cơ quan ngang
bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh2.
Khoản 3 Điều 7 LĐT năm 2014 quy định: “Điều kiện đầu tư kinh doanh đối với
ngành, nghề quy định tại khoản 2 Điều này được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị
định và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bộ, cơ
quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh”.
Như vậy, không phải mọi yêu cầu, đòi hỏi đặt ra trong quá trình kinh doanh
đều là điều kiện kinh doanh. Chỉ những điều kiện được cơ quan có thẩm quyền thể

chế hóa vào trong pháp luật và được ban hành đúng hình thức thì mới được coi là
điều kiện kinh doanh và có hiệu lực bắt buộc thi hành với các chủ thể. Các quy định
về điều kiện kinh doanh do chủ thể khác ban hành dưới các hình thức văn bản khác
đều không có hiệu lực thi hành.
Thứ hai, phạm vi và đối tượng áp dụng của điều kiện đầu tư kinh doanh
Điều kiện kinh doanh áp dụng đối với các chủ thể đã đăng ký kinh doanh để
hoạt động trong phạm vi ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
2

Điều 7 Luật đầu tư 2014,

8


Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, trong đó bao gồm, quyền tự do lựa
chọn ngành, nghề kinh doanh được Nhà nước ghi nhận và khuyến khích. Trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các ngành, nghề đầu tư kinh doanh rất đa
dạng, phong phú. Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh chỉ gắn liền với một số ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh nhất định – những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
Đây là những ngành, nghề có tầm quan trọng hoặc sức ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại
và phát triển của nền kinh tế, môi trường, đời sống con người, an ninh trật tự và an
toàn xã hội… Danh mục cũng như điều kiện với mỗi ngành, nghề này không cố
định mà có sự thay đổi trong từng thời kỳ sao cho phù hợp với chính sách của Nhà
nước và yêu cầu của nền kinh tế.
Đối tượng phải tuân thủ các điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định của
pháp luật Việt Nam chủ yếu là các thương nhân khi kinh doanh các ngành nghề mà
pháp luật có quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Thứ ba, hình thức điều kiện đầu tư kinh doanh:
Điều kiện đầu tư kinh doanh được thể hiện bằng những hình thức cụ thể:

 Giấy phép kinh doanh (GPKD);
 Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh;
 Chứng chỉ hành nghề (CCHN);
 Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
 Xác nhận vốn pháp định;
 Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được
quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ
hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
LĐT năm 2014 không quy định các hình thức của điều kiện đầu tư kinh
doanh mà chỉ quy định về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại
Phụ lục 4, theo đó, từ 386 ngành, nghề thu hẹp xuống còn 267 ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện. Hiện nay Luật số 03/2016/QH14 ngày 22/11/2016 về sửa

9


đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện của LĐT tiếp tục quy định giảm từ 267 xuống còn 243 ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện. Đây là quy định giúp nhà đầu tư tìm hiểu luôn được các
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Việt Nam thay vì trước đây phải tìm
hiểu trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Hơn nữa, quy định này sẽ góp
phần đưa ra quy định rõ ràng về lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Việt Nam tránh các
cách hiểu khác nhau của người thi hành, áp dụng luật. Góp phần tạo ra một môi
trường kinh doanh thông thoáng nhằm thu hút tối đa nhu cầu đầu tư của nhà đầu
nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ tư, mục đích của quy định pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh
Mục đích của pháp luật khi quy định về điều kiện kinh doanh là để kiểm soát,
điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp nhằm định hướng sự phát triển của nền kinh tế
theo chính sách quốc gia. Mục tiêu khi đặt ra các điều kiện kinh doanh của nhà làm luật

là nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
thông qua đó bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và bảo vệ lợi ích cộng đồng.
Do đó, nội dung chủ yếu của điều kiện kinh doanh thường là các yêu cầu về tiêu chuẩn
chất lượng của hàng hóa, dịch vụ, điều kiện nhân lực, yêu cầu vệ sinh, an ninh trật tự,
yêu cầu về phòng cháy chữa cháy và phòng ngừa ô nhiễm môi trường.
Thứ năm, chủ thể kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh.
Chủ thể kinh doanh chỉ được tiến hành kinh doanh khi đã đáp ứng đủ các điều
kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật. Từ khi bắt đầu hoạt động kinh doanh và
trong suốt quá trình kinh doanh, thương nhân phải đảm bảo những điều kiện kinh
doanh theo quy định. Trong quá trình kinh doanh, những chủ thể không đáp ứng được
điều kiện kinh doanh sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Quy định trên nhằm
đảm bảo mục tiêu quản lý của nhà nước cũng như hạn chế ảnh hưởng xấu có thể gây ra
từ hoạt động kinh doanh những ngành nghề có điều kiện nói trên.
1.1.2. Phân loại ngành, nghề đầu tư kinh doanh

10


Căn cứ vào cách tiếp cận của LDN năm 2014 và LĐT năm 2014, có thể phân
loại ngành, nghề đầu tư kinh doanh thành 03 nhóm: Ngành, nghề cấm kinh doanh;
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và ngành, nghề tự do kinh doanh.
Một là, ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh là ngành, nghề có nguy cơ rất
lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động quản lý nhà nước và đời sống xã hội.
Ngành nghề cấm kinh doanh cấm mọi đối tượng trong xã hội được phép kinh doanh
nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể khác.
Hai là, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là nhóm ngành, nghề đòi
hỏi người kinh doanh phải đáp ứng trong quá trình hoạt động với sự giám sát, kiểm
tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh, trật tự an
toàn xã hội, sức khoẻ cộng đồng. Tùy theo từng điều kiện đầu tư kinh doanh khác

nhau mà pháp luật quy định sự tham gia của cơ quan có thẩm quyền là khác nhau.
Do đó, căn cứ vào sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền đến chủ thể kinh doanh,
có thể chia điều kiện đầu tư kinh doanh thành hai loại như sau:
Thứ nhất, những điều kiện đầu tư kinh doanh cần phải có sự xác nhận của cơ
quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền.
Khi doanh nghiệp tiến hành kinh doanh ngành, nghề có điều kiện phải có sự
chấp thuận, xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sau khi kiểm tra, thẩm
tra, cơ quan có thẩm quyền sẽ thể hiện sự chấp thuận của mình bằng việc cấp một
loại giấy tờ có giá trị pháp lý nhất định, thông qua các hình thức sau: Giấy phép
kinh doanh, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; CCHN; Chứng nhận bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; xác nhận vốn pháp định và chấp thuận khác của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, những điều kiện đầu tư kinh doanh không cần sự xác nhận của cơ
quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền.
Ví dụ: những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường; vệ sinh an toàn
thực phẩm; phòng cháy, chữa cháy … Đối với loại điều kiện kinh doanh này, doanh
nghiệp hoàn toàn tự chủ thực hiện, cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện do nhà
nước quy định đối với các ngành nghề cụ thể mà không cần phải xin phép cơ quan

11


có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước chỉ đóng vai trò kiểm tra và xử lý vi phạm
nếu doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những
cam kết đó.
Ba là, ngành, nghề tự do đầu tư kinh doanh là nhóm ngành nghề không có
khả năng gây ảnh hưởng tới hoạt động quản lý của Nhà nước và cửa xã hội. Ngành
nghề tự do kinh doanh không bị giới hạn bởi bất kỳ loại điều kiện kinh doanh nào,
Nhà đầu tư, doanh nghiệp chỉ cần đăng ký với cơ quan Nhà nước là có thể thực hiện
hoạt động kinh doanh ngay. Doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện tự do sáng tạo

ra những ngành, nghề đầu tư kinh doanh mới, những cách tìm kiếm lợi nhuận đa
dạng, phong phú không có trong hướng dẫn thực hiện thủ tục đăng kí kimh doanh
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.3. Vai trò của ngành, nghề đầu tư kinh doanh và điều kiện đầu tư kinh doanh
trong quản lý nhà nước về kinh tế
Việc phân loại các nhóm ngành, nghề đầu tư kinh doanh và quy định điều
kiện đầu tư kinh doanh là một trong những phương thức hữu hiệu để nhà nước thực
hiện việc quản lý nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, việc quy định công dân có quyền tự do kinh doanh
trong đó có quyền tự lựa chọn ngành, nghề đầu tư kinh doanh cũng như việc giới
hạn quyền tự do kinh doanh bằng cách quy định cấm đầu tư kinh doanh một số
ngành nghề hay đặt ra một số điều kiện đầu tư kinh doanh ngày càng đóng vai trò
quan trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước trong thương mại cũng như điều tiết
các hoạt động kinh tế, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, ngành, nghề đầu tư kinh doanh và điều kiện đầu tư kinh doanh
giúp nhà nước thực hiện việc điều tiết thị trường.
Kể từ khi gia nhập WTO, cùng với xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay, nền
kinh tế nước ta đã có những chuyển mình mạnh mẽ. Các ngành, nghề kinh doanh
được mở rộng, quyền tự do kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật được nhà nước coi
trọng. Cơ chế thị trường đã phát huy quyền tự chủ, sáng tạo trong kinh doanh của

12


người dân, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên kéo theo đó cũng là những khó
khăn, hạn chế của mô hình nền kinh tế này.
Có thể thấy rằng, trong nền kinh tế hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều
những ngành, nghề kinh doanh mới rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong đó
có một số ngành, nghề kinh doanh mà khi được thực hiện có những ảnh hưởng tới
vấn đề an ninh, trật tự an toàn xã hội, môi trường, thuần phong mỹ tục,… nhưng sự

đóng góp của ngành nghề đó cho nền kinh tế là không thể phủ nhận nên nhà nước
không cấm kinh doanh với ngành nghề này. Do đó, đòi hỏi nhà nước phải có sự tác
động kịp thời bằng các quy định pháp luật nhằm hạn chế, kiểm soát chặt chẽ, duy trì
và bảo vệ lợi ích công cộng. Cụ thể, điều kiện kinh doanh được đặt ra sẽ có vai trò
điều tiết số lượng ngành nghề trên, không để nó phát triển một cách tràn lan.
Bên cạnh đó, theo sau nền kinh tế thị trường chính là sức mạnh của đồng
tiền. Trong hoạt động kinh doanh, việc các doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận mà
bỏ quên vấn đề đạo đức kinh doanh đã không còn là chuyện hiếm. Nhiều doanh
nghiệp sẵn sàng vì lợi ích của mình mà thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để có
thể có nguồn lợi cao nhất đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích, trật tự công
cộng, lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội, đặc biệt là đối với những
ngành nghề hạn chế kinh doanh. Do đó, việc đặt ra điều kiện kinh doanh với mục
tiêu kiểm soát các hoạt động kinh doanh trong những ngành nghề nhất định có khả
năng ảnh hưởng lớn tới vấn đề an ninh, trật tự an toàn xã hội, lợi ích công cộng đã
góp phần giúp nhà nước điều tiết, thanh lọc bớt những doanh nghiệp muốn kinh
doanh trên thị trường, định hướng phát triền nền kinh tế.
Mặt khác, điều kiện kinh doanh không chỉ đề cập đến vấn đề thành lập, hoạt
động về mặt pháp lý của doanh nghiệp mà còn liên quan đến quá trình thực hiện
hoạt động kinh doanh ngành nghề đã đăng ký đó (như tiêu chuẩn về chất lượng
hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy, phòng ngừa ô nhiễm
môi trường,…). Những nội dung này đã góp phần nâng cao trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với hoạt động kinh doanh của mình, qua đó bảo vệ quyền lợi của người

13


tiêu dùng, bảo vệ môi trường, lợi ích công cộng cũng như của các chủ thể khác
trong xã hội.
Thứ hai, ngành, nghề đầu tư kinh doanh là cơ sở cho các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý doanh nghiệp, tạo sự ổn định cho nền

kinh tế, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Quản lý các doanh nghiệp phải dựa trên những cơ sở pháp lý. Các quy định
về điều kiện kinh doanh là căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình; tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các doanh
nghiệp, phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh.
Các quy định này giúp đưa hoạt động của các doanh nghiệp vào quỹ đạo, giúp nhà
nước kiểm soát tốt hơn nền kinh tế, đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp trong
khuôn khổ luật định, không làm rối loạn nền kinh tế, rối loạn đời sống xã hội.
Thứ ba, việc cấm đầu tư kinh doanh một số ngành, nghề hay đặt ra điều kiện
đầu tư kinh doanh thể hiện quan điểm của các nhà quản lý, góp phần quyết định
đến cơ cấu ngành kinh tế.
Điều kiện kinh doanh là do nhà nước đặt ra để điều chỉnh những mối quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh cần sự kiểm soát. Nội dung của điều kiện kinh
doanh cũng vì thế mà thay đổi theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào quan điểm, tư duy
quản lý của các cơ quan có thẩm quyền. Việc này thể hiện thông qua các quy định
về ngành nghề bị cấm kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và
ngành nghề không hạn chế kinh doanh. Nhà nước hạn chế người dân tiến hành kinh
doanh các ngành nghề có khả năng gây ảnh hưởng tới xã hội bằng cách đặt ra
những điều kiện kinh doanh được ghi nhận trong pháp luật, và chủ thể chỉ có thể
tiến hành kinh doanh ngành nghề đó khi đáp ứng đủ các điều kiện. Nếu muốn hạn
chế hay thu hút đầu tư với một ngành nghề nào đó, nhà nước chỉ cần thay đổi các
quy định về điều kiện kinh doanh theo chiều hướng tăng thêm hoặc giảm bớt đi.
Tùy theo yêu cầu cụ thể mà nhà nước có thể kiểm soát, can thiệp điều tiết hoặc bảo
trợ nâng đỡ những ngành, nghề, lĩnh vực nhất định. Nhà nước hướng các doanh

14


nghiệp sản xuất – kinh doanh theo định hướng nhà nước chọn lựa. Nhà nước đảm

bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp nhưng trên cơ sở pháp luật cho phép.
Để thực hiện được những điều đó, điều kiện kinh doanh là công cụ thích hợp
nhất để tác động vào các hoạt động kinh doanh, giúp nhà nước cơ cấu lại thị trường.
Theo quan điểm này, những ngành, nghề đầu tư kinh doanh có tác động đến an ninh
xã hội, trật tự an toàn xã hội không bị cấm kinh doanh, song người kinh doanh nếu
muốn lựa chọn chúng thì cần đáp ứng thêm các điều kiện cần thiết để đảm bảo hài
hòa về lợi ích chung của cộng đồng và toàn xã hội. Các điều kiện kinh doanh này có
ý nghĩa giúp nhà nước sàng lọc, rà soát chủ thể kinh doanh và các hoạt động kinh
doanh của họ.
1.2. Khái quát pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về ngành, nghề đầu tư
kinh doanh
Pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh được hiểu là tổng thể những quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình lựa chọn ngành, nghề đầu tư kinh doanh đăng ký và thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh của các chủ thể3.
Ngành, nghề đầu tư kinh doanh và điều kiện kinh doanh ở Việt Nam được
hình thành và có những bước thay đổi, phát triển khác nhau trong từng thời kỳ lịch
sử để phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước trong thời kỳ đó.
Trước năm 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc. Pháp luật
về điều kiện kinh doanh ở hai miền có sự khác biệt rõ nét. Ở miền Nam, năm 1972
chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã ban hành Bộ luật Thương mại; trong đó có đề cập
đến một số nội dung như thương gia và sự hành nghề thương mại, những nhiệm vụ
nghề nghiệp của nhà buôn; cửa hàng thương mại… Tại thời điểm này thì điều kiện
kinh doanh tồn tại như các quy tắc nghề nghiệp mà nếu không đáp ứng được thì
thương gia sẽ không được thực hiện hoạt động buôn bán nữa. Ở miền Bắc, với cơ
3

Xem thêm Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), Pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam. Thực trang và


hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr 13

15


chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế vận động dưới sự kiểm soát của nhà nước
về các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập và gần như không coi trọng
các quy luật thị trường. Nét đặc trưng của thời kỳ này là cơ chế “xin – cho” về hành
chính, mọi hoạt động kinh doanh đều phải “xin phép” và khi được “cho phép” mới
được tiến hành kinh doanh. Việc đăng ký và cấp phép kinh doanh không có sự phân
biệt rạch ròi, điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh phức tạp, rườm rà, gồm
nhiều loại giấy tờ khác nhau và đều phải có sự cho phép của cơ quan nhà nước.
* Giai đoạn thi hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), Việt Nam
chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thể chế hóa đường lối trên, Luật Công ty và LDN tư nhân năm 1990 ra đời
đã thừa nhận sự tồn tại nền kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân và các loại hình
công ty được hình thành. Theo quy định của Luật Công ty và LDN tư nhân năm
1990, nếu muốn kinh doanh ngành nghề cụ thể, ngoài giấy phép thành lập doanh
nghiệp và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp còn phải xin cấp các
loại giấy phép “con” khác như GPKD, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh,
CCHN... Đây là điểm mới so với pháp luật thời kỳ trước, từ việc chỉ được quy định
trong các văn bản hành chính, điều kiện kinh doanh đã được cụ thể hóa và quy định
trong các văn bản quy phạm (chủ yếu là văn bản dưới luật). Lúc này, điều kiện kinh
doanh đã trở thành công cụ cần thiết để nhà nước quản lý các hoạt động kinh doanh,
đảm bảo trật tự xã hội.
* Giai đoạn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 1999
LDN năm 1999 ra đời và được xem như một bước đột phá của các nhà làm
luật. Nội dung được quy định trong Luật này đã thể chế hóa, thể hiện rõ sự đổi mới

trong tư duy quản lý của nhà nước, các quy định về điều kiện kinh doanh đã được
chú trọng và khắc phục được cơ bản những hạn chế của Luật Công ty và LDN tư
nhân năm 1990. Pháp luật về điều kiện kinh doanh thời kỳ này đã có nhiều chuyển
biến đáng kể. LDN năm 1999 đã chính thức ghi nhận điều kiện kinh doanh chỉ được
quy định trong các loại văn bản là luật, pháp lệnh, nghị định. Khoản 2 Điều 17 Luật

16


này quy định: “Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Đối với những ngành, nghề có điều kiện thì
doanh nghiệp được quyền kinh doanh các ngành, nghề đó kể từ ngày được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp GPKD hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy
định”. Bên cạnh đó, Nghị định số 03/2000/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều
của LDN năm 1999 đã quy định điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới hai hình
thức: GPKD do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp; và các điều kiện kinh doanh
không cần giấy phép: các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an
toàn thực phẩm; quy định về phòng cháy, chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao
thông và quy định về các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên,
hạn chế của những văn bản này là: vẫn chưa thống nhất được định nghĩa điều kiện
kinh doanh, chưa có sự thống nhất trong các quy định về việc cấp GPKD, ban hành
điều kiện kinh doanh mới giữa văn bản pháp luật chuyên ngành và LDN năm 1999.
* Giai đoạn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005
Những chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường cũng như xu hướng
gia nhập thị trường quốc tế đã dẫn đến việc ban hành LDN năm 2005, thay thế cho
LDN năm 1999. LDN 2005 vẫn tiếp tục duy trì những nội dung cơ bản về ngành
nghề kinh doanh. LDN 2005 cũng bổ sung thêm các quy định về ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện như: Chính phủ định kỳ rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một
phần các điều kiện kinh doanh; bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện kinh
doanh không còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các điều kiện kinh doanh

bất hợp lý… (khoản 4 Điều 7 LDN năm 2005); Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng
nhân dân và UBND các cấp không được quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh
(khoản 5 Điều 7 LDN năm 2005). Khoản 3 Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP quy
định: Các quy định về loại ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh
doanh đối với ngành nghề đó tại các văn bản quy phạm pháp luật khác ngoài các
loại văn bản pháp luật đã nêu trên đều không có hiệu lực thi hành. Bên cạnh LDN
2005, điều kiện kinh doanh còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác:
Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của LDN năm 2005;

17


Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp và các văn bản pháp luật
chuyên ngành quy định về điều kiện kinh doanh tương ứng với ngành nghề thuộc
đối tượng điều chỉnh của văn bản Luật đó. Những văn bản trên đã góp phần trong
việc tạo khung pháp lý vững chắc cho các chủ thể kinh doanh áp dụng cũng như tạo
điều kiện cho nhà nước quản lý.
* Giai đoạn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2014
Ngày 26/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua LDN năm 2014, LĐT năm 2014, có hiệu lực kể từ 01/7/2015. Sau cuộc
đột phá về thể chế của văn bản mang tên “LDN” năm 1999, thì LDN năm 2014
được coi là cuộc đột phá thể chế lần hai và là sự mong mỏi, chờ đợi của người dân
và doanh nghiệp. So với LDN năm 2005 và LĐT năm 2005, LDN năm 2014 và
LĐT năm 2014 có tinh thần mở rộng hơn, phạm vi điều chỉnh rõ ràng hơn. LDN
năm 2014 đã bỏ các quy định về việc xác định vốn pháp định, CCHN… Điều này
đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm
theo quy định tại Hiến pháp 2013. Các quy định về điều kiện kinh doanh được quy
định trong LĐT năm 2014. LĐT năm 2014 không quy định về khái niệm điều kiện
kinh doanh mà chỉ quy định liệt kê các ngành nghề đầu tư kinh doanh, ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện kèm theo phụ lục quy định 267 ngành, nghề đầu tư

kinh doanh có điều kiện. Hiện nay Luật số 03/2016/QH14 ngày 22/11/2016 về sửa
đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện của Luật đầu tư tiếp tục quy định giảm từ 267 xuống còn 243 ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện.
1.2.2. Nội dung của pháp luật điều chỉnh ngành, nghề đầu tư kinh doanh
Pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh là một bộ phận cấu thành của hệ
thống pháp luật doanh nghiệp và pháp luật đầu tư. Lĩnh vực pháp luật này được
hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau của đất nước, tương ứng với
mỗi giai đoạn thì mục đích để hướng tới sự điều chỉnh cũng có sự khác nhau; sự
khác nhau này phụ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội và điều kiện phát
triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.

18


Nội dung pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh chủ yếu quy định về
các nhóm ngành nghề đầu tư kinh doanh:
- Quy định về các ngành nghề bị cấm kinh doanh;
- Quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện;
- Quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh tự do;
Trong đó nhóm quy phạm pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện và các ngành, nghề đầu tư kinh doanh bị cấm là nhóm quy phạm khá nhạy
cảm và thu hút sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng, đặc biệt là đối với
chủ thể kinh doanh ngành nghề đầu tư kinh doanh. Nếu không đủ điều kiện để kinh
doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện hoặc không được phép đầu tư
kinh doanh mà chủ thể kinh doanh thuộc các lĩnh vực này vẫn tiến hành kinh doanh
thì hoạt động đầu tư kinh doanh đó là vi phạm pháp luật.
- Quy định về trình tự, thủ tục đặng ký ngành, nghề đầu tư kinh doanh trong
đó, đặc biệt lưu ý về những ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Luật đầu
tư, luật doanh nghiệp quy định những vấn đề tổng quát, mang tính nguyên tắc về

trình tự, thủ tục đăng ký ngành nghề đầu tư kinh doanh. Trên cơ sở đó, các văn bản
hướng dẫn thi hành có những quy định cụ thể về từng bước lập, bổ sung, thẩm định,
thực hiện phương án đăng ký ngành nghề đầu tư kinh doanh.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh
Thứ nhất, đối với nhà nước, pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh
là phương tiện để Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền tự
do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Pháp luật ngành, nghề đầu tư kinh
doanh là phương tiện hiệu lực trong việc giữ gìn an ninh và an toàn cho các chủ
thể kinh doanh. Pháp luật ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là
phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, buộc những chủ thể kinh doanh
hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Bằng cách đó, pháp luật
là phương tiện quan trọng hàng đầu trong việc phòng, chống những nguy cơ
xấu của nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế giữ vai trò định hướng xã hội chủ
nghĩa cho sự phát triển.

19


Thứ hai, vai trò đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật ngành, nghề đầu tư
kinh doanh là phương tiện có khả năng bảo đảm bình đẳng xã hội. Bởi pháp luật về
ngành, nghề đầu tư kinh doanh giúp duy trì sự ổn định, bình đẳng nhất định trong
nền kinh tế. Các nhà đầu tư kinh doanh không phân biệt hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế, khi lựa chọn ngành, nghề đầu tư kinh doanh đều bình đẳng như nhau.
Vì vậy, pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có vai trò đối với phát triển xã
hội và quản lý được quá trình phát triển đó.
Thứ ba, vai trò đối với các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Nhà
nước cũng như pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh là công cụ và
phương tiện đảm đương vai trò dẫn dắt và chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi
trường, cơ hội pháp lý như nhau đối với các thành viên trong nền kinh tế thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau phát huy khả năng của mình để khởi nghiệp và

phát triển. Pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh đảm đương vai trò kiến
tạo môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi thành viên của xã hội phát huy
tài năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện và phát triển bản thân mình, đồng thời
phát triển xã hội. Với vai trò này, xã hội nói chung và các tổ chức kinh tế nói
riêng sẽ có điều kiện để phát triển.

1.2.4. Mối quan hệ giữa pháp luật về quyền tự do kinh doanh và điều kiện
kinh doanh
Trong bản Hiến pháp (2013) được thông qua ngày 28.11.2013, Điều 22 quy
định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm”. Với sự hiện diện trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, quyền
tự do kinh doanh chính thức được ghi nhận, mở rộng với một “tầm vóc” mới.
LDN năm 2014, LĐT năm 2014 (sửa đổi năm 2016) với rất nhiều sửa đổi, bổ sung
đã thực sự là văn bản quan trọng cụ thể hoá quyền tự do kinh doanh được Hiến
pháp 2013 quy định. Tự do kinh doanh là một quyền quan trọng của con người,
bao gồm quyền tự do lựa chọn ngành, nghề, quy mô kinh doanh, quyền tự do
thành lập doanh nghiệp, quyền tự do trong tuyển dụng lao động, tổ chức quản lý
cơ sở kinh doanh, lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn.v.v.. Với bất cứ nội

20


×