Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG VÀ THÀNH PHỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.81 KB, 41 trang )

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÁC
ĐỊA PHƯƠNG VÀ THÀNH PHỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam qua các thời kỳ
1.1. Tổng kim ngạnh xuất khẩu hàng Nông sản
1.1.1. Tình hình xuất khẩu hàng nông sản năm 2007, năm đầu tiên gia nhập WTO
Năm 2007, nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng tích cực với tốc
độ tăng trưởng 3,25% giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 19,8% GDP cả nước.
Sau một năm gia nhập WTO, “bức tranh” xuất khẩu nông sản đẹp hơn bao giờ
hết với tổng giá trị xuất khẩu đạt 12,6 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2006,
chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và đã vượt mục tiêu đề ra cho
năm 2010 tới 1,5 tỷ USD. Hầu hết hàng nông sản năm nay đều được giá nên
giá trị xuất khẩu tăng mạnh với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1
tỷ USD như gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2007, các mặt
hàng nông sản chủ lực của Việt Nam vẫn ở xu thế thuận lợi về giá cả và thị
trường xuất khẩu. Ngoài sản lượng xuất khẩu gạo sụt giảm do điều chỉnh định
mức xuất khẩu, các mặt hàng khác như cà phê, chè, cao su tăng cả về sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu nên không những bù đắp được sự giảm sút của
mặt hàng gạo mà còn tạo sự tăng trưởng bước đầu cho xuất khẩu nông sản
trong năm 2007. Cà phê chiếm ngôi đầu bảng. Tăng trưởng mạnh nhất trong
tháng đầu tiên của năm 2007 phải kể đến ngành hàng cà phê. Nhờ giá xuất
khẩu ổn định ở mức cao, nguồn cung tăng mạnh đã đưa sản lượng cà phê
xuất khẩu đạt mức kỷ lục - 130.000 tấn với kim ngạch 182 triệu USD. Đây là
tháng có sản lượng và kim ngạch cà phê xuất khẩu cao nhất trong vòng nhiều
năm qua của ngành cà phê Việt Nam. Do giá cà phê xuất khẩu tháng này bình
quân đạt 1.402 USD/tấn, cao hơn năm trước 28% nên so với năm trước, sản
lượng cà phê xuất khẩu tăng 60% và giá trị kim ngạch gấp hơn 2 lần. Với kết
quả này, cà phê chiếm ngôi đầu bảng, trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2007. Điều này
chứng tỏ lợi thế của xuất khẩu cà phê trong năm 2007. Theo dự báo của Tổ
chức cà phê Quốc tế (ICO), sản lượng cà phê toàn thế giới niên vụ 2007-2008


đạt 135 triệu bao (tương đương 8,56 triệu tấn) tăng 11,6 triệu bao so với niên
vụ 2006-2007 do cà phê năm 2007 được giá, nhiều quốc gia sản xuất cà phê
đã tăng diện tích trồng cà phê. Tuy nhiên, nhu cầu cà phê thế giới cũng được
dự báo tiếp tục tăng nên giá cà phê có thể ổn định ở mức cao trong thời gian
tới. Tiếp đà tăng trưởng của năm 2006, năm 2007 thị trường thuận lợi đã đưa
cao su lên vị trí thứ 2 về kim ngạch xuất khẩu trong nhóm hàng nông sản. Giá
cao su xuất khẩu tiếp tục ổn định ở mức cao nên với sản lượng xuất khẩu
720.000 tấn (tăng 13% so với năm trước), kim ngạch xuất khẩu cao su lên tới
1460 triệu USD (tăng 18% so với năm trước) - chiếm tới 28% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu nông sản trong năm 2007. Năm 2006, lần đầu tiên mặt hàng
cao su gia nhập top các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD và
việc tiếp tục đứng trong top này là mục tiêu chính của ngành cao su trong năm
2007. Cùng trong nhóm hàng có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cùng tăng
trong năm 2007 là mặt hàng chè. Trong năm 2007, sản lượng chè xuất khẩu
của cả nước đạt 76.000 tấn, đóng góp vào kim ngạch gần 89 triệu USD. So với
năm trước sản lượng chè xuất khẩu tăng 35%, giá trị xuất khẩu tăng 30%. Gạo
- thấp nhất trong vòng 7 năm qua. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thấp
nhất trong năm 2007 lại chính là mặt hàng có lợi thế nhất của nông sản Việt
Nam. Năm 2007, sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước chỉ đạt khoảng
420.000 tấn với kim ngạch gần 15 triệu USD, bằng 14% về lượng và 19% về
giá trị so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức xuất khẩu gạo thấp nhất trong
vòng 7 năm qua. Tuy nhiên, nguyên nhân của hiện tượng này không xuất phát
từ thị trường mà do chủ trương chủ động hạn chế xuất khẩu để đảm bảo an
ninh lương thực trong nước. Theo nhận định của Hiệp hội Lương thực Việt
Nam, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục giữ ở mức cao và tình hình
xuất khẩu thuận lợi do dự báo thương mại gạo toàn cầu năm 2007 tăng so với
năm trước và các thị trường nhập khẩu gạo truyền thống của Việt Nam vẫn giữ
nguyên hoặc tăng mức nhập khẩu trong năm nay. Việc chủ động được tình
hình xuất khẩu cũng chứng tỏ vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Cùng trong nhóm hàng có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu giảm là hồ tiêu và

hạt điều. Năm 2007, xuất khẩu hồ tiêu đạt khoảng 4.000 tấn với kim ngạch 7,6
triệu USD. So với năm trước sản lượng hồ tiêu xuất khẩu giảm 33%. Nguyên
nhân do thời kỳ giáp vụ thu hoạch hồ tiêu, sản lượng hồ tiêu một số nơi giảm
do hiện tượng dịch bệnh trên cây tiêu. Tuy sản lượng giảm nhưng do giá hồ
tiêu xuất khẩu đang ở mức cao, khoảng 1.914 USD/tấn (tăng 33% so với năm
trước) nên giá trị kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu chỉ giảm khoảng 8%. Còn với
mặt hàng hạt điều kim ngạch xuất khẩu lại giảm mạnh hơn sản lượng xuất
khẩu do giá xuất khẩu hạt điều đang giảm. Do đó, với 67.000 tấn hạt điều xuất
khẩu, kim ngạch thu về chỉ đạt 128 triệu USD (giảm 16%).
Tuy nhiên, theo đánh giá chung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
ngoài giá xuất khẩu hạt điều và chè giảm nhẹ (khoảng 3-3,5%), còn tất cả các
mặt hàng nông sản xuất khẩu hiện nay đều có giá ổn định ở mức cao. Đây
chính là lợi thế để xuất khẩu nông lâm sản đạt được những tăng trưởng bước
đầu trong năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO.
1.1.2. Tình hình xuất khẩu hàng nông sản năm 2008
Xuất khẩu gạo tháng 2/2008 đạt mức tăng trưởng cao do nhu cầu trên thế
giới tăng mạnh trong khi nguồn cung hạn hẹp; các doanh nghiệp trong nước và
các đối tác đang gấp rút hoàn thành các hợp đồng đã ký trước tháng 3. Theo
thống kê tháng 2 cả nước đã xuất 275.400 tấn gạo, kim ngạch 139,01 triệu
USD, tăng 146,97% về lượng và tăng 168,13% về kim ngạch so tháng 1, đồng
thời cũng tăng tới 68,64% về lượng và 120,77% về kim ngạch so cùng kỳ.Giá
xuất khẩu trung bình tháng 2 đứng ở mức cao 504,77USD/tấn, tăng
119,18USd/tấn so cùng kỳ và tăng 39,84USD/tấn so tháng 1. Dự báo thời gian
tới giá vẫn ở mức cao, do nguồn cung khan hiếm. Trong tháng 2 gạo 25% tấm
vẫn là chủng loại xuất khẩu chủ yếu, với 143.130 tấn, kim ngạch 61,6 triệu
USD, tăng 80,35% về lượng và 75,06% về kim ngạch so tháng 1. Chủng loại
gạo này được xuất sang 2 thị trường là Philippines và Ả rập Xê út; trong đó
xuất sang Philippines chiếm 99% tổng kim ngạch xuất khẩu chủng loại này.
Tiếp theo là gạo 5%tấm, 15% tấm và 10% tấm cũng là những chủng loại được
xuất nhiều trong tháng 2.Thị trường xuất khẩu: tháng 2 xuất sang 40 thị trường,

Philipinnes đứng đầu về kim ngạch, nhưng xuất sang Pháp lại được giá nhất
đạt 983,18USD/tấn, cao hơn 521,84USD/tấn so với giá trung bình xuất
sangPhilippines. Bên cạnh đó, Nauy, Nam Phi, Malaysia, Ucraina cũng là
những thị trường xuất khẩu được giá trong tháng 2/2008 với giá xuất trung
bình lần lượt đạt 835,94USD/tấn; 761,32USD/tấn; 750,99USD/tấn và
748,85USD/tấn.
Năm 2008 dự báo kim ngạch xuất khẩu sẽ tiếp tục duy trì được tốc độ
tăng trưởng khả quan. Theo mục tiêu của Bộ Công thương, kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 ước tăng 20-22%, đạt 57-58 tỷ USD.
Mục tiêu trên dựa vào những cơ sở sau:
+ Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực như dệt may,
sản phẩm điện tử, vi tính và linh kiện, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, cao su,
cà phê…sẽ tiếp tục tăng cao và ổn định.
+ Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh trong những năm
vừa qua sẽ là cơ sở để xuất khẩu của nước ta không chỉ tăng cao trong năm
2008 mà cả trong những năm tiếp theo.
+ Lợi thế về tỷ giá hối đoái của VND so với đồng USD và so với các ngoại
tệ khác.
Năm 2008: hoạt động xuất khẩu của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều
khó khăn và thách thức đó là:
- Nguồn cung các mặt hàng nông, lâm sản đã cạn.
- Tỷ giá USD/VND có xu hướng tăng cũng là một hạn chế đối với xuất
khẩu.
- Kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn, cùng với đó những thay đổi trong
chính sách thương mại của một số nền kinh tế lớn cũng sẽ là những trở ngại
cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
1.2 Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nông sản Việt Nam
1.2.1 Tình hình xuất khẩu cà phê
Cà phê đang là mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong nhóm
hàng nông, lâm sản và là một trong tám mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt

trên 1 tỉ USD.
Các chuyên gia cho rằng cà phê VN có tính cạnh tranh cao nhờ môi
trường và khí hậu ưu đãi, chi phí sản xuất thấp, sản lượng thuộc hàng cao
nhất thế giới. Tuy nhiên, cà phê VN có chất lượng tương đối thấp do thiết bị
chế biến, sấy khô nghèo nàn, công nghệ sau thu hoạch lạc hậu. Cà phê VN
chưa có thương hiệu và các nhà XK thiếu kỹ năng tiếp thị, do vậy chỉ chào bán
được mức giá thấp hơn so với giá trung bình của thế giới. Song điều quan
trọng là VN có tiềm năng nâng cao chất lượng thông qua việc đầu tư công
nghệ sau thu hoạch, lưu kho và chế biến. Với vị trí vững chãi đã có trên thị
trường thế giới, nếu có chiến lược cải thiện được chất lượng đúng đắn, cà phê
VN sẽ ở hàng "bá chủ".
Theo nhận định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, giá cà phê
trong niên vụ mới theo chiều hướng tăng và xuất khẩu cà phê vẫn tiếp tục
thuận lợi. Hiện giá FOB xuất khẩu cà phê robusta tại TP.HCM đang ở mức
1.690 USD/tấn, giá mua cà phê nhân tại Đắc Lắc 26.300đồng/kg. Tuy nhiên,
theo phân tích của các chuyên gia thị trường, cà phê VN xuất khẩu đang ở vào
tình trạng lượng tăng, giá thấp. Trong niên vụ 2006-2007 vừa qua, sản lượng
cà phê xuất khẩu của cả nước đạt 844.000 tấn, tăng 74% so niên vụ trước, giá
trị cả niên vụ đạt 1,4 tỉ USD.Tuy đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá
cà phê xuất khẩu của VN vẫn thấp hơn các nước sản xuất cà phê khác khoảng
50-70 USD/tấn. Theo phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao VN Đoàn Triệu
Nhạn, nguyên nhân là do VN mua bán cà phê không theo qui trình, tiêu chuẩn
của thị trường thế giới. Nông dân trồng cà phê vẫn chưa bỏ thói quen thu hái
cà phê cả hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và chế biến thủ công khiến chất lượng
giảm. Cả người bán và người mua vẫn có thói quen sử dụng tiêu chuẩn cũ chỉ
đánh giá chất lượng cà phê dựa trên ba tiêu chí là hàm lượng ẩm, hạt đen vỡ
và tạp chất. Trong khi đó, tiêu chuẩn mới đánh giá theo số lỗi của hạt cà phê.
Về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu: Tỷ lệ cà phê xuất khẩu chiếm 90%
sản lượng cà phê gieo trồng của cả nước. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn
chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (hàng

năm chỉ chiếm dưới 10%). Mặt khác, cà phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu
là cà phê Rubusta (cà phê vối), sản lượng xuất khẩu tăng với tốc độ cao. So
với lượng cà phê vối trên thị trường thế giới, Việt Nam chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn, trở thành nước đứng đầu về sản xuất và xuất khẩu loại cà phê này.
Về thị trường xuất khẩu: Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang
nhiều nước trên thế giới như Đức: 17,8%; Mỹ: 13,8%; Anh: 12,7%; Bỉ: 7,3%;
Tây Ba Nha: 6,9%; Italia: 5,6%; Nhật Bản: 3,2%... Tuy nhiên, điểm yếu nhất
của việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam là chất lượng cà phê. Trong thời gian
qua, chất lượng cà phê Việt Nam đã không ngừng được nâng cao, song những
chuyển biến đó mới chỉ là bước đầu, vẫn chưa thật ổn định và chưa phản ánh
đúng bản chất vốn có của cà phê Việt Nam. Thực chất cà phê Việt Nam từ lâu
được liệt vào loại có chất lượng tự nhiên cao và có hương vị đậm đà do được
trồng ở độ cao nhất định so với mặt biển.Nhưng do yếu kém trong khâu thu
hái, phơi sấy, chế biến... do đó ảnh hưởng đến chất lượng vốn có của nó. Điều
đó đã làm giá bán cà phê Việt Nam thường thấp hơn cùng loại của nước ngoài
từ 100-150 USD/tấn và dẫn đến tình trạng khối lượng xuất khẩu tăng nhưng
kim ngạch thì không thay đổi nhiều.
Mặt khác, chủng loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam chưa phù hợp với
thị hiếu tiêu dùng của thị trường thế giới. Hiện nay, thị trường thế giới có nhu
cầu lớn về cà phê ARABICA (chiếm 70-80% nhu cầu cà phê hàng năm), trong
khi đó 65% diện tích cà phê ở Việt Nam lại là cà phê Rubusta. Vì vậy, trong thời
gian tới chuyển đổi cơ cấu cà phê là vấn đề bức xúc cho việc sản xuất cà phê
và xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
1.2.2 Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
Theo số liệu Hải quan, trong tháng 12/2007, xuất khẩu hàng rau quả của
nước ta đạt 20,95 triệu USD, giảm trên 9% so với tháng 11/2007 và giảm trên
3% so với cùng kỳ năm 2006. Như vậy, trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
hàng rau quả của nước ta đạt 259,08 triệu USD, tăng 10,02% so với năm 2006
và tăng 44,86% so với năm 2005. Trong 2 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu
hàng rau quả của nước ta sang các thị trường châu Á đang tăng mạnh, bên

cạnh đó, nguồn cung trong nước cũng dồi dào hơn.
Trong tháng 12/2007, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu hàng rau quả
lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 2,36 triệu USD, tăng trên 7% so với
tháng 11/2007 nhưng vẫn giảm tới trên 40% so với cùng kỳ năm 2005. Cũng
trong tháng 12/2007, xuất khẩu hàng rau quả của nước ta sang nhiều thị
trường tăng mạnh như: Nga, Singgapore, Đức, Pháp, Malaixia, Anh… Ngược
lại, xuất khẩu sang Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Hà Lan giảm mạnh so với
tháng 11/2007.
Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Nga và Mỹ lần lượt là năm thị trường
xuất khẩu hàng rau quả lớn nhất của nước ta. Trong số đó, thị trường Nga và
Mỹ có tốc độ tăng trưởng cá cao, lần lượt tăng 23,8% và tăng 39,8% so với
năm 2006; ngược lại, thị trường Trung Quốc giảm tới gần 30% so với năm
2006. Ngoài ra, trong năm 2007, xuất khẩu hàng rau quả của nước ta sang các
thị trường như; Thái Lan, Hồng Kông, Singgapore, Canada, Anh… tăng khá
mạnh so với năm 2006, đặc biệt xuất sang thị trường Thái Lan tăng tới gần
180%. Ngược lại, xuất khẩu hàng quả của nước ta sang thị trường Đức, Pháp,
Australia… lại giảm khá mạnh so với năm 2006.
Chủng loại xuất khẩu
Trong tháng 12/2007, mặc dù xuất khẩu thanh long giảm tới trên 28% so
với tháng 11/2007, nhưng đây vẫn là chủng loại rau quả xuất khẩu có kim
ngạch lớn nhất của nước ta. Bên cạnh đó, xuất khẩu nấm và dừa giảm nhẹ so
với tháng 11/2006. Ngược lại, trong tháng 12/2006, xuất khẩu nhiều chủng loại
như dưa chuột, cơm dừa, bó xôi, madacimia, cà tím, thạch dừa, chôm chôm,
cà chua… lại tăng rất mạnh so với tháng 11/2007. Đầu năm 2008, do nhu cầu
tiêu dùng vào dịp Tết tăng cao tại nhiều thị trường châu Á nên xuất khẩu nhiều
chủng loại rau quả của nước ta sang những thị trường này đang tăng khá
mạnh.
.
Thị trường xuất khẩu hàng rau quả trong tháng 12 và 12 tháng 2007
TT

T12/07
(USD)
So
11/07
(%)
So
T12/06
(%)
12 T/07
(USD)
S
o
1
2
T/
0
6
(
%
)
Trung
Quốc 2.367.719 7,72 -40,58 24.614.107
-
2
9,
5
6
Nhật 2.248.131 -6,51 15,39 27.572.623
-
4,

8
9
Mỹ 1.984.159 3,81 30,91 18.400.506
3
9,
8
7
Nga 1.732.790 12,29 -10,88 22.070.119
2
3,
8
1
Đài Loan 1.592.824 -13,78 -21,56 27.156.778
1,
0
7
Thái Lan 889.871 -32,26 195,61 9.040.053
1
7
9,
5
4
Hồng Kông873.215 -18,65 -1,65 10.155.292
3
6,
6
8
Singapore 804.293 21,95 -2,94 7.916.870 1
9,
5

9
Hà Lan 631.509 -24,99 -20,91 8.938.850
1
1,
2
2
Italia 539.220 -17,43 -14,45 4.622.745
1
2,
6
2
Đức 461.268 28,84 41,00 2.948.459
-
1
9,
0
5
Pháp 405.967 23,27 -14,83 3.952.940
-
3
5,
0
8
Malaixia 355.877 74,91 0,81 4.196.830
-
0,
8
4
Canada 297.148 -0,62 24,94 3.208.989
3

8,
6
8
Anh 276.689 38,73 -3,29 2.579.913
2
8,
8
1
Australia 250.059 6,47 -83,48 4.487.036
-
1
7,
6
0
Campuchia 185.876 -25,57 15,57 3.919.827 8
7,
1
0
Thụy Điển 95.810 62,18 158,49 687.795
2
6,
6
0
Thụy Sỹ 93.868 36,72 -13,27 774.340
4
9,
5
0
Ukrraina 68.981 -2,62 6,68 2.655.999
8

3,
5
9
Bỉ 63.407 48,29 -74,11 1.553.903
9,
6
5
Hy Lạp 53.790 44,21 * 311.609 *
Ả Rập xê
út 24.368 * * 330.150
-
7
2,
6
7
Séc 20.199 * -26,83 228.437
-
2
3,
0
2
Achentina * * 211.598
-
5
7,
6
8
Ấn Độ * * 2.889.118
9
2,

3
2
Braxin *
-
100,00 1.887.850
-
8,
8
9
UAE
-
100,00
-
100,00 1.518.344
-
6
0,
5
4
Hàn Quốc
-
100,00
-
100,00 6.764.068
1
0,
9
1
Inđônêxia * * 4.271.128
-

4,
7
4
Nauy
-
100,00 * 440.843
1,
2
7
Nam Phi *
-
100,00 570.248
-
5
6,
1
0
Phillipine
-
100,00 * 259.395 *
Tây Ban
Nha *
-
100,00 292.363
-
6
8,
4
8
1.2.3. Gạo và một số mặt hàng khác

Lượng gạo xuất năm 2007 đạt 4,5 triệu tấn, kim ngạch 1,46 tỷ USD, so với năm
2006 giảm 3% về lượng, nhưng tăng 14,4% về giá trị. Khoảng cách giá gạo xuất khẩu
của Việt Nam với Thái Lan đã thu hẹp, có thời điểm đạt mức ngang giá.Giá gạo xuất
khẩu bình quân năm nay đạt khoảng 300 USD/tấn, tăng 17,5% so với năm trước.
Lượng điều xuất khẩu năm 2007 ước đạt 150 ngàn tấn, kim ngạch 641 triệu USD, so
với năm trước tăng 18% về lượng và 27% về giá trị. So với kế hoạch năm, điều xuất
khẩu vượt 43% về lượng và 28% về kim ngạch. Để đạt mức xuất khẩu trên, ngành điều
đã phải nhập lượng điều thô lớn để đáp ứng cho chế biến xuất khẩu. Giá hạt điều xuất
khẩu bình quân năm nay đạt khoảng 4.274 USD/tấn, cao hơn năm trước 8%. Là năm
được mùa về xuất khẩu nông sản như vậy, nhưng nền nông nghiệp của nước ta vẫn có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh thấp so với nhiều nước trên thế giới. Việc
thực hiện chủ trương nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh
của các sản phẩm nông lâm thủy sản chưa được nhiều. Vấn đề dịch bệnh trên cây trồng,
gia súc, gia cầm và vệ sinh an toàn thực phẩm đang đặt ra hết sức bức xúc.
Biểu xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam (triệu USD)
2003 2004 2005 2006 2007
Gạo 564 263 1291 2024 3035
Cà phê 601 1211 1490 1594 2691
Cao su 190 654 785 1012 1165
Chè 614 726 748 1050,5 1546
Điều 426 844 1133 1017 1293
Hồ tiêu 318 415 463 564 838
Nguồn: Niên giám thống kê. WB(b), Kinh doanh Việt Nam, 2007.
Trong số 3 nhóm ngành hàng quan trọng nhất là: nông sản, công nghiệp và thủ công mỹ
nghệ - mặt hàng nông sản của VN được các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá là
có tiềm năng XK cao nhất. Song từ trước tới nay, VN vẫn chưa có một chiến lược đủ
tầm để tận dụng tiềm năng này. Chưa bao giờ chè VN có vị trí tốt trên thị trường thế
giới, vì chưa có thương hiệu, chất lượng thấp, giá trị không cao. Điều này được phản
ánh bởi giá chè VN thấp hơn tới 30% so với mặt bằng giá thế giới. Nếu không có một
chiến lược cải tiến chất lượng thì XK mặt hàng này của VN sẽ vô cùng khó khăn. Một

điều đáng chú ý là XK gạo VN bị xếp vào nhóm "giới hạn" điều này đã gây nhiều bất
ngờ. Bởi gạo VN có vị trí tốt trên thị trường thế giới, giá trị XK cũng tăng cao, thậm chí
có kim ngạch cao nhất trong số các mặt hàng nông sản XK chủ lực hiện nay. Nhưng các
chuyên gia cho rằng, gạo là mặt hàng chủ yếu phục vụ thị trường nội địa của VN, XK
chỉ chiếm 25% tổng sản lượng và giá trị gia tăng không cao do chế biến rất hạn chế.
Thêm nữa, chiến lược của Chính phủ không cho thấy có bất kỳ sự mở rộng nào về XK
gạo. Suốt từ năm 2000 đến nay VN vẫn chỉ XK giới hạn khoảng 4,5 triệu tấn gạo/năm.
VN cần phát triển các chủng loại gạo mới; nâng cao chất lượng, hiệu quả chế biến và đa
dạng hoá thị trường XK hướng vào Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Australia và New
Zealand-những thị trường khó tính, nếu không XK gạo sẽ khó khăn trong tương
lai.Trong khi đó các mặt hàng hạt tiêu, cao su, hạt điều vẫn bị xếp vào hàng "chiếu
dưới" so với gạo lại được đánh giá là có tiềm năng cao..Giống như cà phê,cao su VN
tuy có sản lượng và công nghệ không cao, nhưng chi phí sản xuất và XK thấp hơn hẳn
so với các nước XK cạnh tranh trong khu vực. Để tận dụng được tiềm năng này, VN
nên khai thác khả năng sản xuất các chủng loại cao sự phục vụ nhu cầu cao cấp và xây
dựng thương hiệu cho mình.Còn hạt điều, với thị phần 25%, VN đã thiết lập vị trí XK
hàng đầu trên thế giới nhờ đạt đến trình độ chế biến khá cao, tạo ra sự khác biệt. Để đẩy
mạnh XK chỉ cần VN mở rộng sản xuất nguyên liệu, đa dạng hóa sản phẩm chế biến...
Biểu năng suất lúa ở một số nước 1997-2005.

Nước
Năng suất (tấn/ha) Tốc độ tăng trưởng hàng năm (%)
1997 1997 1997-2001 2001-2005
Thailand 1,99 2,21 1,63 0,98
Philippine 2,04 2,89 4,45 0,91
Myanmar 2,08 3,2 6,92 0,99
Viet Nam 2,08 3,69 4,18 3,39
Bangladesh 1,98 2,63 1,91 1,61
India 1,96 2,87 2,41 2,44
Pakistan 2,36 2,78 0,75 2,05

Nguồn: ADB..

×