Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Biến chứng của viêm tai - xương chũm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.33 KB, 56 trang )

Biến chứng của viêm tai - xương chũm
Viêm tai và viêm xương chũm đều có thể gây ra biến chứng nguy hiển. Để cho tiện việc trình bày chúng
tôi xin gọi chúng là biến chứng của viêm tai xương chũm. Như chúng tôi đã nói trong những phần trước,
viêm tai - xương chũm cấp tính hoặc mạn tính đều có khả năng sinh ra biến chứng.
Tuỷ lệ biến chứng của viêm tai - xương chũm mạn tính và nhất là viêm tai - xương chũm mạn tính hồi
viêm chiếm ưu thế tuyệt đối. Vượt hẳn các thể viêm khác.
Có năm loại biến chứng chính:
1.

Biến chứng nội soi:

Viêm màng não.
Apxe đại não.
Apxe tiểu não.
2.

Biến chứng tĩnh mạch:

Viêm tắc tĩnh mạch bên.
Viêm tắc tĩnh mạch hang.
Nhiễm trùng huyết.
3.

Biến chứng xương sọ:

Viêm xương đá.
Gốt tuỷ viêm xương thái dương.
4.

Biến chứng thần kinh:


Liệt dây thần kinh mặt.
Viêm mê nhĩ.
5.

Biến chứng cổ:

Apxe cổ - apxe quanh họng.
Tầm quan trong của mỗi biến chứng có khác nhau: sau đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh những biến chứng
quan trọng và phổ biến.


1

Viêm màng não do tai

Viêm màng não do tai một biến chứng phổ biến và rất nguy hiểm tuy rằng hiện nay chúng ta đã có thuốc
kháng sinh.
Bệnh có những đặc điểm sau đây:
1. Bệnh tích khỏi thuỷ của màng não luôn luôn ở sát với bệnh tích xương do tai gây ra (Korner). Về
sau bệnh tích viêm có thể toả lan rộng. Riêng trong trường hợp viêm màng não do viêm tai cấp
tính (hiếm có) hiện tượng viêm xương rất ít nên vị trí của bệnh tích khở tuỷ của màng não cũng
không rõ rệt.
2. Viêm màng não do tai là một bệnh đa dạng, xuất hiện và diễn biến lắm khi bất ngờ. Nước não tủy
có thể hữu trùng hoặc vô trùng, bệnh tích có thể thỏa lan hoặc khu trú. Do đó bệnh cảnh lâm sàng
rất phức tạp. Khi thì triệu chứng nhiễm trùng chiếm hàng đầu (viêm màng não hữu trùng tỏa lan),
khi thì triệu chứng thần kinh là chủ yếu (viêm màng não khu trú ở hố sau), khi thì triệu chứng lâm
sàng là chính (thủy thũng màng não). ở hài nhi, viêm màng não thường chỉ có sốt và căng thóp
trán. Chỉ có chọc dò nước não tuỷ mới phân biệt được ra từng loại bệnh.
3. Viêm màng não có thể song song tồn tại với apxe não và báo hiệu rằng có biến chứng trong tổ
chức não.

4. Viêm màng nhện: một bộ phận của màng não có thể bị viêm sau khi viêm tai xương chũm đã khỏi
hoặc đã mổ rồi. Người ta hay gọi hiện tượng bệnh lý này là đau nhức màng não sau viêm tai
(Algie méningée post-otitique)
1.1

nguyên nhân - bệnh sinh

Viêm màng não có thể do viêm tai xương chũm cấp tính hoặc mạn tính gây ra.
1. Trong viêm tai cấp, thường xó phản ứng màng não và một đôi khi có cả viêm màng não thật sự. Vi
trùng xâm nhập vào màng não bằng đường máu, bệnh tích xương rất ít.
2. Trong viêm tai xương chũm mạn tính, viêm màng não thường xuất hiện sau đợt hồi viêm, Vi trùng
có thể xâm nhậpv ào màng não bằng nhiều cách:
- Qua ổ viêm xương ở trần thượng nhĩ, ở nhóm tế bào sau mê nhĩ.
- Qua ổ viêm mê nhĩ: mễ nhĩ ăn thông với màng não bằng cống tiền đình và cống ốc tai.
- Qua ổ viêm ở tĩnh mặch bên: viêm ngoài tĩnh mạch hoặc viêm tắc tĩnh mạch.
- Qua ổ viêm ở não: apxe não
- Do chấn thương phẫu thuật : rách màng não, vỡ mê nhĩ
Vi trùng trong viêm màng não thường là đồng loại với vi trùng viêm tai. Nhưng trong viêm tai xương
chũm mạn tính lắm khi có cả vi trùng bội nhiễm thêm vào. Vi trùng thường được gặp là pnơmôcôc,
streptôcôc, staphylôcôc…
1.2

giải phẫu bệnh lý

Trong viêm màng não hữu trùng, các lớp màng não đều bị thương tổn, nhất là vùng đối diện với bệnh tích
xương.
Màng cứng có thể bị sung huyết hoặc quá sản dày, hoặc sần sùi.
Các màng mềm bị sung huyết, hoặc thâm nhiễm mủ, nhất là ở dưới màng nuôi và ở các rãnh não.



Trong viêm màng não tiết dịch (méningite sereuse) bệnh tích kín đáo hơn. Chúng ta không thầy xùi,
không thấy mủ mà chỉ thấy sung huyết nhẹ ở các màng mềm. Các não thất bị giãn vì khối lượng của nước
não tuỷ tăng.
Trong trường hợp viêm màng não nặng và tử vong nhanh, các bệnh tích ở màng não thường rất ít, không
ăn khớp với bệnh cảnh lâm sàng. Các trung tâm hô hấp, tuần hoàn … bị ức chế bởi độc tố vi trùng trước
khi mưng mủ được hình thành ở màng não.
Bệnh tích viêm có thể khu trú ở nhiều lớp khác nhau của màng não và gây ra :
1. Apxe ngoài màng cứng: túi mủ nằm ở giữa màng cứng và xương sọ. Màng cứng thường bị sần
sùi .
2. Apxe trong màng cứng: túi mủ nằm trong khoảng tách đôi của màng cứng, thí dụn như ở túi nội
dịch, ở hocó hạch Gatxe (Gasser)
3. Apxe dưới màng cứng mà người ta còn gọi là apxe dưới màng nhện : Mủ khu trú thành những túi
ở khoảng cách dưới màng nhện nhưng không ăn thông với nước não tủy. Trong một số ít trường
hợp, túi mủ có thể ở giữa màng cứng và lá ngoài của màng nhện hoặc giữa lá trong và lá ngoài của
màng nhện. Những trường hợp nói sau thường chỉ chẩn đoán được trên bàn mổ.
4. Viêm màng não tỏa lan: Toàn bộ khoảng cách dưới màng nhện bị viêm nhiễm xâm nhập. Khi chọc
tuỷ sống thấy có những thay đổi bệnh lý của nước não tuỷ. Đây là loại viêm màng não điển hình,
có thể triệu chứng phong phú .
1.3

triệu chứng

Về mặt lâm sàng người ta xếp viêm màng não do tai ra làm ba loại tuỳ theo đặc điểm của nước não tuỷ:
viêm màng não hữu trùng, viêm màng não vô trùng và thuỷ thũng màng não.
1.3.1

viêm màng não hữu trùng

Đây là thể điển hình và thường hay gặp. Bệnh thường xuất hiện sau viêm mê nhĩ.
1.3.1.1


giai đoạn bắt đầu

Bệnh nhân đang bị viêm tai xương chũm cấp tính hoặc viêm tai xương chũm mãn tính hồi viêm và có
những triệu chứng bất thường sau đây làm cho chúng ta viêm màng não:
Nhức đầu: nhức đầu liên tục, đau sau hỗ mắt tỏa lan ra gáy, đau ngày càng tăng. Uống thuốc giảm đau
không bớt. ánh sáng và tiếng động làm cho nhức đầu tăng lên. đôi khi có cả đau xương sống ở ngang thắt
lưng.
Nôn: nôn một cách dễ dàng, lúc đói cũng như lúc no, không đau bụng.
Nhiệt độ: Khoảng 380; 390
Các triệu chứng thực thể nghèo nàn: bệnh nhân hơn ngượng cổ, không cúi xuống thấp được. Khi ấn vào
vùng sau quai hàm bệnh nhân kêu đau (triệu chứng Knick) và khi bóp cơ gáy chúng ta cũng gây đau cho
bệnh nhân (triệu chứng Kulenkampf). Một đôi khi có cả liệt dây thần kinh số VI (lác mắt).
Trước những triệu chứng đó chúng ta phải nghĩ đến viêm mnàg não, nhất là khi có kèm theo thay đổi tính
tình như sợ sệt, cáu gắt. Nên chọc tuỷsống.


1.3.1.2

giai đoạn toàn phát

Sau một thời gian ngắn, bệnh chuyển sang giai đoạn toàn phát với những triệu chứng điển hình của viêm
màng não:
a)

Tam chứng kinh điển

- Nhức dữ dội khắp đầu làm cho bệnh nhân rên la. Khi gõ nhẹ vào đầu hoặc ấn vào tĩnh mạch cảnh đau
tăng lên. Sau khi chọc dò tuỷ sống, nhức đầu có giảm trong một thời gian.
- Nôn: Nôn vọt một cách đột ngột nhất là khi bệnh nhân cựamình thay đổi tư thế. Khi bệnh tiến triển thêm

lên, triệu chứng này có thể giảm hoặc mất.
- Táo bón: là một trong ba triệu chứng kinh điển, nhưng trong một số trường hợp chúng ta thấy có ỉa chảy.
b)

Sau đây là những rối loại thần kinh :

- Co thắt các cơ: bệnh nhân có những triệu chứng cứng gáy, nghiến răng, mồn nhai tóp tép. Chúng ta thể
hiện sự cứng gáy bằng các triệu chứng Kecnic (Kernig), triệu chứng Brutzinxki (Brudzinski)
Lúc đầu bệnh nhân nằm cong người như cò súng, quay mặt vào bóng tối, về sau họ nằm thẳng người, do
sự co cứng của các cơ cột sống.
ở trẻ em nhỏ hiện tượng lên cơ giật là tương đối phổ biến.
- Bại liệt: hiện tượng bại liệt xuất hiện sau hiện tượng cơ thắt: liệt các chi, liệt nhãn cầu, đồng tử không
đều, sụp mí mắt, liệt cơ họng (khó nuốt) …
- Rối loạn cảm giác: bệnh nhân kêu đau khắp người khi chúng ta sờ mó đến thân thể họ.
- Rối loạn phản xạ: các phản xạ bánh chè, phản xạ gân gót, phản xạ da bụng … đều tăng. Đôi khi có cả
triệu chứng Babinski.
- Rối loạn vận mạch: da mặt có những lúc đỏ bừng, da bụng để lại vệt đỏ khi chúng ta vạck móng tay vào
(vạch viêm màng não)
- Rối loạn giác quan: Co hẹp đồng tử, sợ ánh sáng, sợ tiếng động, chóng mặt, ảo giác …
- Rối loạn tinh thần : Tinh thần trầm uất, đờ đẫn, ý thức u ám, hoặc ngược lại bệnh nhân mê sảng, la hét,
giãy dụa.
c)

Triệu chứng toàn thân :

Sốt cao 400 và kéo dài, thỉnh thoảng có rét run.
Mạch thường là nhanh và yếu. Nếu mạch chậm nên nghĩ đến chèn ép nội sọ hoặc thương tổn hành não .
Huyết áp cao nhịp thở không đều .
Nước tiểu ít và có anbumin
Bạch cầu trong máu tăng

d)

Nước não tuỷ

Ngay trong giai đoạn đầu hoặc muộn lắm là trong giai đoạn toàn phát chúng ta phải chọc dò tuỷ sống .


Trong trường hợp có nghi ngờ apxe não, chúng ta nên thận trọng: đùng kim nhỏ và chỉ nên lấy độ 3ml
nước não tuỷ .
Chúng ta gọi là viêm màng não khi nước não tuỷ có trên 5 bạch cầu trong 1mm3 đối với người lớn và 10
bạch cầu đối với trẻ em.
Trong viêm màng não mủ hữu trùng, nước não tuỷ có thể trong hoặc đục. áp suất thường cao (35cm
nước). Khi soi kính hiển vi thấy có bạch cầu đa nhân thoái hóa, có vi trùng. Anbumin tăng nhiều: 2g/lít.
Đường giảm sút: dưới 0,20g trong một lít. Natri clorua giảm xuống dưới 0,7300mg/100ml (123 mEq/l)
Chúng ta phải chọc dò tuỷ sống nhiều lần (3 hoặc 4 ngày một lần) để theo dõi sự biến diễn của tế bào, của
anbumin và đường. Khi thấy anbumin xuống và đường lên trở lại kèm theo sự cải thiện của bệnh cảnh
lâm sàng, chúng ta có thể khẳng định rằng tiên lượng tốt.
1.3.1.3

giai đoạn cuối cùng

Sau độ một tuần lễ, bệnh đi vào giai đoạn cuối cùng. Nhìn bề ngoài mà nói, bệnh tình có vẻ thuyên giảm:
bệnh nhân nằm yên, ít kêu nhức đầu, bớt nôn, bớt co cơ, bớt sốt …
Nhưng những dấu hiệu đó chỉ là giả hiệu vì mạch ngày càng yếu và không đều, các hiện tượng bại liật
xuất hiện (liệt họng, liệt cơ vòng hậu môn và bàng quan), nhịp thở kiểu Cheyne-Stokes), tay bắt chuồn
chuồn. Cuối cùng bệnh nhân lâm vào tình trạng hôn mê và chết.
1.3.1.4

các thể lâm sàng


Viêm màng não do tai có nhiều cách biến diễn rất khác nhau và các thể lâm sàng rất phong phú .
1. Xếp theo sự biến diễn
• Thể bắt đầu đột ngột
Bệnh nhân bị viêm tai xương chũm nhưng bề ngoài có vẻ khỏe mạnh. Họ đang làm việc, đột nhiên thấy
mệt, đi nằm và hôn mê. Nguyên nhân là do vỡ túi mủ ở não hoặc ở màng não và khoảng cách dưới màng
nhện. Túi mủ này đã được hình thành một cách âm thầm từ trước.
• Thể tối cấp
Bệnh biến diễn rất nhanh, đốt giai đoạn
Trong vòng 12 giờ bệnh đi ngay vào giai đoạn toàn phát với những triệu chứng bại liệt, rối loại tim mạch,
rối loạn tinh thần. Tiên lượng xấu. Thể này đựoc thấy trong viêm tai do cúm.
• Thể kéo dài
Thường được thấy ở những bệnh nhân có dùng kháng sinh. Nhiệt độ không cao lắm (38,50), nước não tuỷ
có ít tế bào nhưng nhiều anbumin. Bệnh biến diễn từng đợt, có lúc tăng lúc giảm. Thể này có thể đưa đến
apxe não.
1. Xếp theo tuổi:
• Thể hài nhi:
Viêm màng não ở hài nhi có những triệu chứng rất ổ ạt: sốt cao trên 40o, con co giật. Trái lại gáy không
cứng và các cơ không co một cách rõ rệt.


• Thể người già:
Viêm màng não biến diễn một cách tiềm tàng, không sốt, không cứng gáy không có Kecnic. Bệnh nhân
chỉ mệt và nhức đầu nhẹ. Chọc dò tuỷ sống có nhiều bạch cầu và nhiều anbumin trong nước não tuỷ. Vi
trùng gây bệnh thường là pneumocoeeus mucosus.
1. Xếp theo triệu chứng
• Thể hôn mê:
Bệnh nhân bị hôn mê rất sớm, ngoài ra còn có những triệu chứng co giật từng bộ phận như ở tay, ở mắt, ở
mặt… hoặc bại liệt một số dây thần kinh sọ, có hiệu tượng ứ đọng đờm ở trong khí phế quản… Tiên
lượng xấu.
Mổ đại thể cho thấy có bệnh tích ở não và màng não.

• Thể lịm
Bệnh nhân không có triệu chứng kích thích, trại lại học bị ủ rũ và mệt lữ, nằm lịm như trong bệnh thương
hàn. Biểu đồ nhiệt độ hình cao nguyên. Mạch chậm.
• Thể nhiễm trùng huyết
Bệnh nhân sốt dao động, có rét run. Thể này thường đi đối với viêm nghẽn tĩnh mạch bên.
1. Xếp theo nguyên nhân.
Trong giai đoạn đầu, bệnh cảnh lâm sàng có khác nhau tuỳ theo nguyên nhân gây ra viêm màng não.
• Thể do viêm mê nhĩ:
Trong giai đoạn đầu, các triệu chứng mê nhĩ tương đối rõ rệt; Điếc tai trong, ù tai, chóng mặt, động mắt tự
phát đập về bên lành, liệt mê nhĩ.
• Thể do viêm tĩnh mạch bên:
Lúc đầu các triệu chứng của viêm màng não bị chộn vùi trong các triệu chứng ồ ạt cả viêm tắc tĩnh mạch
bên. Nhưng sau một thời gian sốt dao động biểu đồ nhiệt độ tiến triển theo hình cao nguyên.
Bệnh nhân bị nhức đầu tăng lên kèm theo cứng gáy. Triệu chứng Kecnic rõ rệt. Chọc dò tuỷ sống thấy có
thay đổi quan trọng trong nước não tuỷ.
• Thể do vỡ apxe não:
Apxe não thường đi đôi với viêm màng não vô trùng mà chúng tôi sẽ nói ở đoạn sau. ở đây chúng tôi
muốn nói đến viêm màng não hữu trùng do vỡ apxe gây ra. Apxe thường vỡ vào não thất hơn là ở phía vỏ
não.
Bệnh bắt đầu rất đột ngột: nhiệt độ vọt lên 400, nhức đầu rất nhiều, chân tay bị co cứng hoặc co giật, động
mắt đứng, hôn mê…
Nước não tuỷ có hai đặc điểm: đục như mủ và có nhiều loại vi trùng, có khi chúng ta thấy cả trực trùng
côli (loại này chỉ thấy trong viêm màng não do apxe não).
• Thể do phẫu thuật.


Phẫu thuật xương chũm có thể gây ra rách màng não hoặc thương tổn mê nhĩ hoặc kích động những bênhj
tích màng não còn trong thời kỳ âm ỉ. Sau khi phẫu thuật được vài hôm bệnh nhân kêu nhức đầu nhiều,
nhiệt độ tăng lên. Hiện tượng nôn và cứng gáy xuất hiện.
Chọc dò tuỷ sống cho thấy những thay đổi bệnh ký của nước não tuỷ.

1. Viêm màng não khu trú:
Viêm màng não có thể khu trú ngay trong thời kỳ đầu rồi sau đó toả len ra khắp khoảng cách dưới màng
nhện. Bệnh có thể xuất hiện ở hố não sau (do viêm mê nhĩ, viêm xoang tĩnh mạch bên) hoặc ở hố não
giữa (do viêm trần nhĩ).
Thể thường hay được nói đến là viêm màng não đáy. Bệnh tính viêm tập trung vào nền sọ, nhất là ở hố sọ
giữa và hố sau gây ra liệt dây thần kinh VI, VII, VIII, III, IV, V, và IX, X, XI. Triệu chứng liệt có lúc rõ
lúc không.
Viêm màmg não cũng có thể khu trú thứ phát. Sau giai đoạn viêm toả lan lúc đầu, khoảng cách dưới màng
nhện bị dính tại từng ô và tạo ra những túi mủ cách biệt với toàn bộ nước não tuỷ. Khi chọc dò tuỷ sống
thấy nước trong, nhưng lúc chọc dò dưới chẩm hoặc chọc dò não thất thì thấy nước đục.
Làm nghiệm pháp Queckenstet (Queckenstedt: đè bẹp tĩnh mạch cảnh apxe dưới màng nhện.
Thể này biến diễn chậm:
1. Xếp theo nước não tuỷ:
Trong viêm màng não hữu trùng, nước não tuỷ có thể đục hoạc trong. Chúng tôi đã lấy thể nước đục làm
điển hình và đã nói ở đoạn trên.
Trong thể nước não tuỷ trong, các triệu chứng tâm sàng cũng giống như trong thể điểm hình như áp lực
nước não tuỷ cao. Phòng xét nghiệm cho biết rằng số tế bào không nhiều lắm và anbumin cũng không cao
lắm. Nhưng lại có vi trùng trong nước não tuỷ (nuôi cấy hoặc soi trực tiếp).
Tiên lượng của thể này có thể nhẹ hoặc nặng. Tiên lượng sẽ tốt nếu các triệu chứng lâm sàng nhẹ, nếu
nước não tuỷ có ít vi trùng (soi trực tiếp không thấy vi trùng, nhưng khi nuôi cấy thấy có vi trùng).
Tiên lượng sẽ xuất nếu bệnh nhân có thể có triệu chứng viêm màng não nặng nếu nước não tuỷ có nhiều
vi trungf. Nếu tiêm nước não tuỷ đó cho chuột lang, súc vật sẽ chết nhanh, chứng tỏ rằng mãnh độc của vi
trùng cao.
1.3.2

viêm màng não vô trùng

Đây là phản ứng của màng não đối với ổ viêm mủ sát bên cạnh. Bệnh thường gặp trong viêm tai xương
chũm mạn tính nhất là khi bắt đầu có biến chứng như viêm mê nhĩ bán phần, apxe ngoài màng cứng,
viêm mỏm xương đá, apxe não…

Viêm màng não vô trùng có thể biến thành viêm màng não hữu trùng nếu ổ viêm không được điều trị.
Chọc dò não tuỷ cho phép chúng ta phân ra làm hai loại: viêm màng não vô trùng dạng mủ và viêm màng
não vô trùng thanh dịch.
1.3.2.1 Viêm màng não vô trùng nước não tuỷ đục dạng mủ:
Bệnh cảnh lâm sàng cũng gần giống như viêm màng não hữu trùng có mủ. Nhưng các triệu chứng thường


không ồ ạt hoặc không đầy đủ; Sốt không cao, không nôn mửa đầu ít, triệu chứng kecnic không rõ rệt,
toàn thể trạng còn tương đối tốt. ít khi viêm màng não vô trùng có những triệu chứng ồ ạt giống như viêm
màng não hữu trùng.
Chọc dò tuỷ sống cho thấy nước não tuỷ đục hoặc giống như mủ, áo lực cao, có nhiều tế bào đa nhân và
đơn nhân không thoái hoá (trong giai đoạn đầu của bệnh, tế bào đa nhân có vẻ bình thường, nhưng về sau
những tế bào này có thể vi trùng trong nước não tuỷ bằng mọi biện pháp: xem trực tiếp, nuôi cấy, tiêm
truyền cho chuột lang.
Nói chung bệnh biến diễn tốt: sau khi ổ viêm gây bệnh được giải quyết, viêm màng não sẽ tự khỏi. Nhưng
nếu ở viêm không được thanh toán, bệnh có thể biến thành viêm màng não mủ thật sự, lúc tiên lượng sẽ
đáng ngại.
1.3.2.2 Viêm màng não vô trùng thanh dịch, nước não tuỷ trong.
Thể này cũng nói lên sự phản ứng của màng não, nhưng nhẹ hơn thể trước mắt không nhìn thấy sự thay
đổi của nước não tuỷ, ổ viêm chỉ ở bên cạnh màng não chứ chưa vào đến màng não. Bệnh thể hiện bằng
nhiều bệnh cảnh lâm sàng khác nhau:
- Trong viêm tai cấp tính ở trẻ em, viêm màng não thanh dịch thể hiện giống như phản ứng màng não: sốt
cao, mê sảng, co giật, co cứng.
- Trong viêm tai xương chũm mạn tính các triệu chứng của viêm màng não thanh dịch có phần nào giôngs
viêm màng não vô trùng dạng mủ, nhưng không rõ rệt: nhức đầu vừa, sốt nhẹ, cổ vẫn mềm…
- Trong apxe não, các triệu chứng viêm màng não thanh dịch rất lu mờ và bị các triệu chứng não che lấp
gần hết.
Chẩn đoán của viêm màng não thanh dịch vô trùng dựa vào chọc dò tuỷ sống: nước não tuỷ trong, áp lực
vào khoảng trên 30cm (áp kế Claude). Về mặt tế bào chúng ta thấycó nhiều tế bào lymphô và rất ít tế bào
đa nhân. Về mặt hoá học: anbumin tăng, đường và clorua giảm. Không có vi trùng trong nước não tuỷ.

Tiên lượng của viêm màng não vô trùng phục thuộc vào căn nguyên: nếu chỉ là phản ứng do viêm tai cấp
gây ra thì tiên lượng sẽ tốt. Nếu là phản ứng do viêm tắc tĩnh mạch, do apxe ngoài màng cứng, do apxe
ngoài mằng cứng, do apxe não thì tiên lượng phụ thuộc vào các biến chứng nguy hiểm đó và trong quá
trình biến diễn, viêm màng não thanh dịch có thể biến thành viêm màng não mủ, nước não tuỷ vô trùng
có thể biến thành nước não tuỷ hữu trùng.
1.3.3

thuỷ thũng hay sũng nước màng não (Hydropisie méningée hoặc méningite hypertensive)

Thuỷ thũng màng não chiếm một vị trí riêng biệt trong viêm màng não do tai. Nước não tuỷ trong bệnh
này tăng rất nhiều nhưng lại hoàn toàn bình thường về cả ba mặt: hoá học, tế bào và vi trùng. Đôi khi
nước não tuỷ lại loãng hơn bình thường một chút nhưng không bao giờ có vi trùng. Chúng ta coi đó là
một sự phù nề của màng não do độc tố vi trùng trong tai gây ra và không nên nhầm với viêm màng não
thanh dịch trong đó thành phần của nước não tuỷ có thay đổi.
Nguyên nhân trực tiếp của tăng khối lượng nước não tuỷ là sự tắc các lỗ thoát (lỗ Magendie, lỗ Luschka)
hoặc sự sản xuất quá mức của đám rối màng mạch (plexus choroides) do rối loạn vận mạch.
1.3.3.1 Thủy thũng hỏa lan.
Nước não tủy ứ đọng trong khoảng cách dới màng nhện của đại não, tiểu não và tủy sống.


Trên lâm sàng, triệu chứng tăng áp lực nội sọ chiếm hàng đầu và xảy ra một cách đột ngột.
Bệnh nhân thường là một em bé đang bị viêm tai, đột nhiên bị nhức đầu nhiều, kèm theo nôn và vật vã.
Dần dần bệnh nhân trở lên đờ đẫn, lịm ngời hoặc hôn mê. Mạch có thể chậm hoặc nhanh. Nhiệt độ bình
thường hoặc gần nh bình thường.
Gáy hơn cứng, Kecnic không rõ rệt.
Gai mắt bị phù nề cả hai bên.
Đôi khi có lác mắt ( liệt dây thần tinh VI).
Chọc dò tủy sống: áp lực nước não tủy cao ( trên 40cm nước theo áp kế Claude) nhưng các thành phần
của nó đều bình thường. Sau khi lấy bớt nước não tủy ra, các triệu chứng trên thuyên giảm ngay.
Bệnh diễn biến theo chiều hớng tốt nếu chúng ta rút bớt nước não tủy đều đặn. Sau vài ba lần chọn dò

tủy sống, bệnh sẽ khỏi. Trong trường hợp không được chọc dò tủy sống bệnh nhân có thể bị mù mắt. Ít
khi bệnh nhân chết vì thể bệnh này.
1.3.3.2

Sũng nước ở não thất.

Nước não tủy ứ đọng ở não thất và làm tăng thành não thất.
Bệnh xuất hiện đột ngột và thường bắt đầu bằng cơn động kinh kiểu Brave - Giăcsơn (Bravas - Jackson).
Các triệu chứng tăng áp lực nội sọ khá rõ rệt: Nhức đầu, nôn vọt, mạch chậm, tinh thần u án, phù nề gai
mắt. Bệnh nhân đái ủi trong quần tuy rằng họ không hôn mê, không lú lẫn. Khối lượng nước tiểu tăng,
trong nước tiểu thường hay có đường. Những hiện tượng này chứng tỏ rằng cac trung tâm điều chỉnh
phễu -yên (centres infundibulo hypophysaires) bị nhiễm loạn.
Chọc tủy sống cho thấy nước não tủy bình thường về mặt hóa học, tế bào và vi trùng.
Áp lực có tăng không nhiều. Khác với thể trên, sau khi chọc tủy dò tủy sống các triệu chứng tăng áp lực
nội sọ không bớt, một đôi khi nhức đầu lại tăng thêm.
Chọc tủy sống trong trường hợp này rất nguy hiểm, nó có thể gây ra tụt kẹt thùy thái dương qua khe Bisa
(Bichat) hoặt tụt kẹt amydan tiểu não qua lỗ chẩm.
Trái lại nếu chúng ta chọc dò não thất bên (khoan sọ) thì hiện tượng tăng áp lực nội sọ sẽ giảm ngay. Nên
chọn dò cả hai bên vì cả hai não thất đều bị sũng nước.
Nếu không điều trị kịp thời thì bệnh nhân có thể chết hoặc chèn ép hành não ( ngừng thở nhưng tim vẫn
đập trong một thời gian) hoặc mù mắt do teo dây thần kinh thị giác.
1.3.3.3 Thể khu trú.
Nước não tủy ứ đọng ở hố sau. Thể này chỉ thấy trong viên tai xương chũm mạn tính và nhất là có xương
mục.
Bệnh cảm lâm sàng giống nh một hội chứng hố sau tức là có triệu chứng tăng áp lực nội sọ và triệu
chứng tiểu não tiền đình nh: Nhức ở vùng chẩm, nôn vọt, tinh thần trì trệ, mạch chậm (không thường
xuyên) phù nề gai mắt kèm theo rối tầm, mất liên động (ađiaococinésis), mất trương lực cơ, mất đồng vận
(asynergie) và có cả chóng mặt hoặc động mắt kiểu trung ương.



Các biện pháp mê nhĩ cho thấy có hiện tượng giảm kích thích.
Bệnh nhân không sốt, không có triệu chứng viêm, không gày nh trong apxe tiểu não.
Chọc dò tủy sống: nước tủy não bình thường, áp lực có thể tăng hoặc không tăng. Chọc dò tủy sống ở
đây phải hết sức dè dặt, chỉ nên rút ra độ 3ml nước não tủy, đủ để làm xét nghiệm. Nếu thấy nhiều nước
não tủy, chung ta sẽ gây ra tụt kẹt hạnh nhân tiểu não.
Nước não tủy có thể ứ đọng ở vùng rãng Sylvius gây ra những cơn động kinh kiểu Brave - Giăcsơn
(Bravais - Jackson) hoặc bại liệt ở mặt, ở tay. Hội chứng áp lực nội sọ không rõ rệt. áp lực nước não tủy
không tăng.
1.3.3.4 Viêm màng nhện dính.
Bệnh này còn được gọi đau nhức màng não sau viêm tai vì nó hay xuất hiện sau khi mổ xương chũm lúc
vết mổ đã lành và tai hết chảy mủ.
Bệnh khu trú ở hố sâu tiểu não: Màng nhện ở trên dày như mảnh dạ và dính vào màng nuôi.
Đôi khi hố cầu tiểu não bị ngăn lại và biến thành kén (u nang), đè ép vào dây VIII, dây V, dây VI.
Trên lâm sàng bệnh nhân có các triệu chứng nhức đầu, điếc, ù tai, chóng mặt, mất cảm giác giác mạc, rối
loạn cảm giác ở da mặt, rối loạn thị giác (nhìn lâu thấy chữ mờ).
Chỉ có phẫu thuật mới giải quyết được những bệnh tình nói trên.
1.3.4 Tiên lượng
Sự xuất hiện của sunfamit và kháng sinh làm thay đổi hẳn tiên lượng cuả viêm màng não do tai. Trước kia
tiên lượng rất xấu , ngày nay tiên lượng có khá hơn.
Tuy vậy tiên lượng vẫn còn tùy thuộc vào bốn yếu tố sau đây:
1. Sự có mặt của vi trùng trong nước tủy não.
Thể hữu trùng có tiên lượng nặng.
1. Bản chất của vi trùng.
Viêm màng não do pnơmôcôc nặng hơn viên màng não do các loại vi trùng khác. (Vi trùng pnơmôcôc gây
ra dịch rỉ lơ huyết ngăn cách khoảng dới màng nhện, làm cho thuốc khó thấm vào).
Tiên lượng cũng sẽ xấu nếu vi trùng mất nhạy cảm với kháng sinh.
1. Triệu chứng lâm sàng.
Tiên lượng sẽ nặng nếu có sốt cao, co cứng nhiều, lên cơn co giật liên tục hoặc hôn mê, tay bắt chuồn
chuồn.
Tiên lượng cũng sẽ xấu nếu có thêm những triệu chứng viêm tĩnh mạch hay apxe não.

1. Xuất phát điểm của bệnh.
Viêm màng não xuất phát từ viên mê nhĩ, viêm tĩnh mạch bên bao giờ cũng nặng hơn viên màng não xuất


phát từ trần nhĩ (hố não giữa).
Viêm màng não do viên tai cấp tính có tiên lượng đè dặt ( huyết nhiễm trùng)
Nói chung trong khi theo dõi viêm màng não do tai, chúng ta cần phải chọc dò tủy sống nhiều lần thì
mới tiên lượng chính xác được.
1.1.1

Chẩn đoán

Chẩn đoán quyết định viên màng não:
Chúng ta dựa vào các triệu chứng lâm sàng nh sốt cao, nhức đầu nhiều, nôn, chứng gáy. Chọc dò tủy
sống cho phép chúng ta khẳng định bệnh.
Chẩn đoán nguyên nhân tai của viêm màng não. Trước một hội chứng viêm màng não bao giờ chúng ta
chúng ta cũng phải khám tai.
1.3.4.1

Nếu tai bình thường

thì bệnh không thuộc phạm vi tai mũi họng, chúng ta nghĩ đến.
- Viêm màng não lao trong đó nước tủy trong, chứa nhiều tế bào lymlhô, đôi khi có cả vi trùng lao. Phản
ứng B.C.G test dương tính mạnh. Tiêm nước tủy não vào chuột lang cho kết quả dương tính.
- Viêm màng não dịch tễ có vi trùng mêningôcôc trong nước não tủy.
- Viêm màng não lymphô: nước trong, có nhiều tế bào đơn nhân, bệnh sẽ tự khỏi.
1.3.4.2

Nếu có viêm tai xương chũm.


1. Trước tiên chúng ta phải nghĩ đến viên màng não do viên tai. Trong bệnh này chúng ta thường
phát hiện ra triệu chứng mê nhĩ (điếc, chóng mặt...) hoặc triệu chứng viêm tĩnh mạch bên (nhiệt độ
giao động, cơn rét run...), những triệu chứng này khẳng định rằng viêm màng não là do tai. Hơn
nữa, trước khi viêm màng lão xuất hiện, bệnh nhân có hiện tượng hồi viêm ở tai (sốt, nhức đầu,
giảm thính lực, tăng bạch cầu, mủ chảy tăng hoặc ngừng chảy...).
Nhưng không nên quên rằng ở một bệnh nhân chảy tai chúng ta có thể thấy những loại viêm màng não
giang mai, viêm màng não tủy. Viêm màng não lao có thể có những triệu chứng giống nh viêm màng
não đáy (liệt các dây thần kinh sọ). Đặc điểm của từng bệnh cho phép chúng ta chẩn đoán ra nguyên
nhân. Trong quá trình diễn biến của những loại viên màng não này chúng ta không thấy có hiện tượng
hồi viên ở tai.
Viêm màng não mủ thể khu trú ở nền sọ ( viêm màng não đáy) có thể có những triệu chứng giống nh
viêm màng não lao nh liệt một số dây thần kinh sọ. Ngời ta dùng chất đồng vị phóng sạ phôtpho 32 để
phân biệt hai bệnh này: Cho bệnh nhân uống (hoặt tiêm) P32 rồi do mức độ phóng xạ của máu và của nức
não tủy. Trong viêm màng não lao mức độ phóng xạ của nước não tủy rất cao.
Mức độ phóng xạ của nước não tủy
Tỷ lệ:

>20%
Mức độ phóng xạ của máu


Trái lại trong viêm màng não mủ tủy rất thấp: Khoảng 10%, ở ngời bình thường tỷ lệ này xấp xỉ 3,8%.
Trong trường hợp không rõ rệt , chúng ta nên mổ thăm dò ổ viêm tai xương chũm và theo dõi biến
chuyển.
1. Sau đó chúng ta loại ra các biến chứng khác của viêm tai xương chũm như:
- Apxe não: Với ba hội chứng: Viêm nhiễm, tăng áp lực nội sọ và khu trú. Nếu có apxe não phối hợp với
viêm màng não vô trùng, sau khi mổ xương chũm sẽ có hiện tượng chênh lệch giữa lâm sàng và nước
não tủy: nước não tủy ngày càng tốt, nhưng bệnh cảnh lâm sàng ngày càng xấu, nhất là các triệu chứng
nội sị ngày càng nặng thêm (quy luật Borriés).
- Viêm tắc tĩnh mạch bên : với sốt cao dao động rét run ,với triệu chứng Queckenstet (đè tĩnh mạch cảnh

trong khi chọc dò tủy sống). Đôi khi có huyết nhiễm trùng.
- Phản ứng màng não: thường thấy ở trẻ em trong một sốbệnh nhiễm trùng nh viêm tai cấp,viêm phổi ...
Nước não tủy trong và bình thường hoặc gần nh bình thường.
1.1.2
1.3.4.3

ĐIỀU TRỊ
Có triệu chứng viêm nhiễm:

điều trị bằng phẫu thuậtvà bằng thuốc .
1. Phẫu thuật.
Các phương pháp phẫu thuậtcó khác nhau tùy theo bệnh tích ở tai xương chũm.
Khoét xương chũm nếu là xương chũm cấp.
Khoét rỗng đá chũm nếu là viêm tai xương chũm mạn tính hồi viêm. Ngoài ra nếu có thương tổn mê nhĩ
hoăc tĩnh mạch bên chúng ta phải nạo mê nhĩ hoặc bộc lộ tĩnh mạch bên.
Nếu có viêm mỏm xương đá chúng ta phải làm phẫu thuật Ramađiê (Ramadier).
1. Thuốc.
Sunfamít: Uống và tiêm mỗi ngày 6 gam, sunfamít có khả năng thấm vào nước não tủy dễ dàng hơn các
loại thuốc khác.
- Penixilin: Tiêm vào bắp thịt (5 triệu), tiêm nhỏ giọt vào mạch máu 5 triệu pha với dung dịch giọt đẳng
trương: Tiêm vào tủy sống: 10lm dung dịch penixilin (2.000 đơn vị trong 1ml) trộn với hydrocortison sau
khi rút nước não tủy, 3 ngày 1 lần.
Ngoài ra chúng ta nên phối hợp với các thuốc kháng sinh khác nhứ: strep-tomyxin, cloramphenicon,
aurêomyxin, tetraxyclin, colimyxin... tùy theo sự nhạy cảm của vi trùng và sự tương trợ của thuốc.
Tetraxyclin tiêm nhỏ giọt vào mạch máu (300mg trong 250ml dung dịch giọt u trương) có tác dụng rất
tốt.
Chúng ta cũng nên cho thêm vitamin, cotison và truyền máu.


1.3.4.4 Viêm màng não sũng nước và viêm màng não thanh dịch (méningiteséreuse).

1. Phẫu thuật xương chũm ( khoét rỗng đá chũm hoặc xương chũm) để giải quyết ổ viêm.
2. Chọc dò tủy sống trong trường hợp sũng nước tỏa lan: Nên để bệnh nhân nằm nghiêng và rút thử
ra độ 5ml, nếu nước bắn ra thành tia và bệnh nhân thấy dễ chịu, thì tiếp tục lấy thêm độ 25ml. Nếu
sau khi lấy 5ml mà bệnh nhân không đỡ thì phải nghĩ đến sũng nước não thất và nên chọc dò não
thất.
3. Chọc dò não thất: Khoan vảy ( trai) xương thái dương, cách bờ bên ống tai ngoài 3cm, dùng kim
to chọc sâu độ 4cm hút nước não thất. Nếu hút một bên không đỡ phải hút cả hai bên.
4. Đối với viêm não sũng nước khu trú ở hố sau chúng ta phải bộc lộ mặt sau xương đá và rạch
màng não ở khu trước tĩnh mạch bên để dẫn lu hố cầu tiều não.
5. Đối với viêm màng nhện dính ở hố cầu tiểu não chũng ta phải nhờ phẫu thuật thần kinh gỡ dính
màng nhện hoặc cắt bỏ u nang.
6. Điều trị bằng thuốc.
Trong viên màng não thanh dịch và viêm màng não sũng nước chúng ta nên tiêm thêm dung dịch mặn
20% (2ml vào mạch máu) hoặc dung dịch ngọt 30% (125ml vào mạch máu) hoặc magie sunfat 15%
(20ml vào mạch máu) hoặc dung dịch matitol 20%, 200ml.
1.1.3

Phòng bệnh

Viêm màng não do tai là một biến chứng của viêm tai xương chũm. Muốn tránh biến chứng này tốt nhất
là nên đề phòng bệnh viêm tai xương chũm (xem mục phòng bệnh phần viêm tai giữa cấp tính và mạn
tính)
Nếu bệnh nhân đã bị viêm tai xương chũm rồi thì phải tích cực điều trị: Chích rạch màng nhĩ trong viêm
tai giữa cấp, can thiệp bằng phẫu thuật trong viêm tai xương chũm mạn tính, nhất là khi có hồi viêm, khi
có hiện tượng viêm mê nhĩ, viêm tĩnh mạch bên.
2

APXE ĐẠI NÃO

Apxe não, cả đại não và tiểu não, là một biến chứng của viêm tai xương chũm khá phổ biến ở Việt Nam.

Trong ba năm 1957, 1958 và 1959, bệnh viện Bạch Mai Hà Nội đã điều trị 38 trường hợp apxe não do tai
trong có 19 apxe đại não ( Lương Sĩ Cầu, Nguyễn Văn Bích, Nguyễn Thị Liên).
2.1

Bệnh sinh

Nguyên nhân chính của apxe đại não là viêm tai xương chũm mạn tính hồi viêm. Viêm tai cấp tính ít gây
ra apxe não.
Biến chứng này thường xảy ra trong vòng 10 năm đầu sau khi tai bị viêm.
Tuổi thường hay mắc đến biến chứng này là 10 đến 20 tuổi.Các lứa tuổi khác cũng có thể bị apxe , nhưng
ít hơn.
Chúng ta có thể chia quảtình xâm nhập của viêm nhiễm vào đại não ra làm hia giai đoạn.
a. Giai đoạn tiến triển của viêm từ tai vào màng não. Quá trình viêm lan vào nội sọ bằng các tiêu hủy xương ở trần hòm nhĩ hoặc trần sào bào gây ra viêm mang cứng, đó là cách xâm nhập phổ biến nhất.
Nhưng mội đôi khi viêm nhiễm có thể vào nội sọ bằng đường máu hoặc bằng những khe hở bất thường ở
trần hòm nhĩ hoặc sào bào.
b. Giai đoạn xam nhập từ màng não vào não, từ những bệnh tích ở màng cứng quá trình viêm có thể vào


màng não hai lối.
- Lối tiếp cận: Viêm nhiễm xâm nhập vào màng cứng , màng nhện, màng nuôi: Các lớp màng não đối
diện với ổ viêm bị dính lại.Sau cùng vỏ não cũng bị viêm và hình thành túi mủ.
- Lối mạch máu: Do huyết nối tắc mạch mang vi trùng gây ra bởi viêm tĩnh mạch, viêm bạch mạch. Trong
tình huống thứ hai này, apxe thường ở sâu.

Hình 95: Quá trình bệnh sinh của apxe não.Giai
đoạn I từ xương vào màng não; Giai đoạn II từ
màng não vào não

2.2


Giải phẫu bệnh học

2.2.1

Đặc điểm.

2.2.1.1 Vị trí
của apxe não thường theo đúng quy luật Coocne (Korner): “Những biến chứng nội sọ xuất hiện ở nơi mà
ổ viêm xương xâm nhập vào sọ). Trên thực tế chúng ta thấy apxe hay khu trú ở thùy thái dương -bớm,
nhất là phần trước của hồi trái thái dương thứ hai.
Trong một số ít trường hợp apxe có thể ở xa ổ
viêm xương, thí dụ nh bên bán cầu não đối
diện.
Apxe ở trong nhất não trắng và có xu hớng lan
vào sâu đến não thất bên.
Hình 96: Quy luật Korner: apxe não ở gần ổ
viêm xương.
Apxe phát triển về phía chất trắng và có thể đổ
vào não thất.
b. Số lượng : Thường chỉ có một apxe. Nhưng túi mủ có thể có nhiều chi nhánh nối liền bằng eo hẹp làm
cho chúng ta tởng lầm rằng có nhiều apxe. Trường hợp có nhiều apxe thật sự ( có tổ chức não lành mạnh
ngăn cách) rất hiếm.
2.2.1.2

Khối lượng:

Bằng đầu ngón tay hoặc bằng quả trứng vịt.
2.2.1.3 Thành apxe:
Thành apxe trẻ thì mềm và gồm có 3 lớp:



- Lớp ngoài là tổ chức não bị viêm phù nề có hiện tượng xuất huyết và quá sản tổ chức thần kinh đệm.
- Lớp giữa là tổ chức não bị viêm mủ có nhiều tế bào đa nhân thoái hóa.
- Lớp trong tổ chức bị hoại tử lẫn với mủ.
Trái lại với những apxe cũ, thành trở lên dày và biến thành cái bọc xơ.
2.2.1.4

Nội dung của Apxe

là mủ hoặc chất não hoại tử. Mủ đặc màu vàng xanh hoặc màu nâu có lẫn chất não nát. Mủ có thể thối
hoặc không thối tùy theo loại vi trùng gây bệnh.
2.2.1.5 Vi trùng gây bệnh
thường là streptôcôc. Các loại vi trùng khác cũng khá phổ biến: staphylôcôc. pnơmôcôc, trực trùng lôli,
trực trùng Frieđlandr, vi trùng yếm khí..., ở một số ít trường hợp, chúng ta không tìm thấy vi trùng trong
mủ.
2.2.2

Quá trình hình thành apxe.

Sự thành thành apxe bao gồm ba giai đoạn phải giải phẫu bệnh học.
2.2.2.1

Giai đoạn viêm não.

Tổ chức não bị phù nề toả lan trên một khối lượng lớn. Các mao quản bị giãn. Bạch cầu xuyên mạch
(điapédése) nhưng còn nguyên vẹn.
2.2.2.2

Giai đoạn mng mủ.


Hiện tượng phù nề giảm bớt. Bệnh tích tập trung tại chất lão trắng. Các tế bào đa nhân bị h hỏng, tổ chức
não bị hoại tử. Mủ xuất hiện và hình thành apxe trẻ cha có bọc. Apxe này có thể lan rộng về phía não
thất hoặc khu trú tại chỗ.
2.2.2.3

Giai đoạn năng hóa.

Thành của apxe bị xơ hóa biến thành cái bọc dày bao vây túi mủ. Sự nang hóa này có nghĩa là quá trình
bệnh lý bị hạn chế bởi sức đề kháng. Tuy vậy cái bọc không có khả năng chặn đứng sự phát triển của
apxe, làm cho nó không lớn thêm hoặc không đi về phía não thất.
Nang hóa cũng có thể đa đến vôi hóa apxe và khỏi bệnh. Nhưng hiện tượng này rất hiếm có.
2.3 Triệu chứng
Apxe đại não diễn biến làm bốn giai đoạn: Giai đoạn đầu, giai đoạn tiềm tàng, giai đoạn toàn phát và giai
đoạn kết thúc.


2.3.1

Giai đoạn mở đầu:

Giai đoạn đầu thường không được rõ rệt lắm và ít khi bệnh nhân chú ý. Chúng ta phải gợi ý thì may ra
bệnh nhân mới nhớ ra. Đây là giai đoạn hồi viêm của viêm tai xương chũm mạn tính. Bệnh nhân bị chảy
tai từ lâu, gần đây họ bị sốt, nhức đầu, mệt mỏi, bơ phờ. Mủ ở tai có thể bớt chảy hoặc chảy tăng, thính
lực giảm nhanh.
Sau đó bệnh nhân được điều trị ( bằng kháng sinh hay phẫu thuật) hoặc không điều trị và các triệu chứng
nói trên giảm dần.
2.3.2

Giai đoạn tiềm tàng.


Giai đoạn này có thể kéo dài từ một vài tuần đến một vài tháng. Bệnh nhân bề ngoài có vẻ lành mạnh. Họ
đi lại bình thường và làm được những công việc nhẹ thông thường.
Nhưng nếu chúng ta theo dõi kỹ, sẽ thấy bệnh nhân có những đợt sốt nhẹ, ớn lạnh kèm theo nhức đầu,
khó tập trung t tởng, kém trí nhớ, có su hớng ngủ gà. Đôi khi có cả chóng mặt và nôn. Bệnh nhân bắt đầu
gầy.
Những triệu chứng này có giá trị gợi ý rất lớn.
2.3.3

Giai đoạn toàn phát.

Các triệu chứng trở lại phong phú và được xếp thành ba hội chứng lớn:
Hội chứng tăng áp lực nội sọ, hội chứng nhiễm trùng, và hội chứng định khu (Bergmann).
Trên thực tế ít khi chúng ta thấy được lập chứng Becman (Eergmann) hoàn toàn đầy đủ. Sự có mặt của
một số triệu chứng chính cũng đủ cho chúng ta chẩn đoám bệnh.
2.3.3.1

Hội chứng tăng áp lực nội sọ:

- Những đầu là triệu chứng chính, và thường xuyên có mặt, nhức ở vùng thái dương - đỉnh , lan ra nửa
bên đầu, nhức một cách liên tục kèm theo những cơn đan dữ dội. Nhức đầu tăng khi bệnh nhân ho hoặc
rặn. Sau mỗi cơn đau bệnh nhân lại buồn nôn.
- Nôn là triệu chứng quan trọng thứ hai.
Bệnh nhân nôn một cách dễ dàng, nôn vọt, có ăn cũng nôn, không ăn cũng nôn. Triệu chứng này chỉ
thấy trong hai phần ba số apxe đại não.
- Tinh thần trì trệ là triệu chứng chủ yếu thứ ba . Bệnh nhân có vẻ ngủ gà, lĩnh hội chậm, mỗi lần hỏi bệnh
nhân trả lời chậm chạp, không nhớ rõ ngày tháng. Dần dần bệnh nhân rơi vào tình trạng đờ đẫn, u muội.
- Mạch chậm là triệu chứng lớn thứ t. Chúng tôi chỉ gặp triệu chứng này trong hai phần ba các trường hợp
apxe đại não. Mạch đập chậm, 50 lần trong một phút nẩy mạnh và đều.
ứ đọng gai mắt chỉ gặp trong 50% trường hợp apxe não. ở mức độ nặng, gai mắt nổi gờ lên, có những vết
xuất huyết, tĩnh mạch bị giãn ngoằn nghèo, độ mạnh thu bé.

Chọc tủy sống là cần thiết nhưng phải hết sức thận trọng, bệnh nhân đang bị tăng áp lực nội sọ, nếu làm
không đúng quy cách chúng ta sẽ gây ra tai biến chết ngời (tụt kẹt hạnh nhân tiểu não).


Trong khi rút nước não tủy chúng ta phải để bệnh nhân nằm. Chỉ nên lấy độ 5ml và phải lấy thật chậm
không cho nước chảy vọt thành tia (hạn chế lu lượng, cho chảy từng giọt bằng cách đút nút bớt lòng kim
với cái cốt kim).
Nên thực hiện ở thủ thuật này ở phòng mổ để phòng rủi ro có xảy ra biến chứng thì có thể cam thiệp bằng
phẫu thuật ngay lập tức.
Nước não tủy trong, áp lực cao, có phản ứng màng não: anbmin tăng nhẹ, tế bào tăng ít, natri clorua bình
thường.
Nguyên nhân của phản ứng màng não là do ổ viêm xương hoặc apxe não. Trong viêm tai xương chũm
nếu sau khi phẫu thuật giải quyết ổ viêm xương rồi mà phản ứng màng não vẫn tồn tại hoặc tăng lên,
chúng ta phải nghĩ đến apxe não.
2.3.3.2

Hội chứng nhiễm trùng.

- Gày là là triệu chứng chủ yếu của hội nhiễm trùng. Bệnh nhân gày rất nhanh và ngày càng gày nhiều.
Hiện tượng này có giá trị trong chẩn đoán khi nó xảy ra ở một bệnh nhân đang bị chảy mủ tai mà không
có bệnh gì khác.
- Bạch hầu trong máu tăng, tế bào đa nhân chiếm tỷ lệ cao hơn bình thường.
- Sốt là triệu chứng chủ yếu: Bệnh nhân chỉ sốt nhẹ hoặc không sốt.
2.3.3.3

Hội chứng định khu.

Hội chứng này xuất hiện muộn và do phù nề chung quanh apxe gây ra. Nó có những triệu chứng sau đây.
- Tăng phản xạ gân và triệu chứng Babinski nên đối diện nói lên sự chèn ép bó tháp.
- Đại liệt một chi hoặc hai chi bên đối diện. Trong một số ít trường hợp có triệu chứng bại liệt ở cùng

một bên với apxe não. Ngời ta giải thích hiện tượng này nh sau: Phù nền não đẩy dồn khối não sang
bên đối diện, làm cho bố tháp bên đối diện bị ép vào bờ khe Bisa (Bichat) (cạch của nều tiểu não). Bó
tháp này sẽ bắt chéo ở hành não và sang chi phối các chi bên phía apxe.
- Cơn động kinh kiểu Brave -Giắcsơn (Bravais - Jackson).
- Bám nhanh cùng bên (hémianepsie homonyme) do phù nề thùy chẩm.
- Mất ngôn ngữ nếu apxe ở bên bán cầu trái đối với ngời quen dùng tay phải, ở bán cầu phải đối với ngời
quen dùng tay trái.
Đây là mất ngôn ngữ giác quan kiểu Vecnik (Vernicke): Bệnh nhân nói được nhưng quên danh từ, phải
dùng “ cái ấy” “ cái đó” thay vào. Thậm chí họ quên cả gọi tên của cái thìa, cái cốc; Nhưng khi đa những
vật đó ra thì họ biết sử dụng. Bệnh nhân bị điếc lời (surdité verbale) tức là họ nghe được lời nói nhưng
họ không hiểu nghĩa. Bệnh nhân cũng có thể mù đọc tức là nhìn thấy chữ nhưng không đọc được.
Triệu chứng mất ngôn ngữ xuất hiện ở một bệnh nhân đang bị viêm tai xương chũm là một chỉ định phẫu
thuật.
Giai đoạn toàn phát kéo dài một vài tuần hoặc hơn rồi chuyển sang giai đoạn cuối cùng.
4. Giai đoạn cuối cùng


Apxe não không điều trị sẽ diễn biến một cách liên tục và lũy tiến hoặc bằng những đợt bốc phát đa đến
tử vong do những tai biến sau:
- Hôn mê, lên cơn co giật ỡn ngời ra sau ( crise posterieure de Jackson) do tụt kẹt thùy thái dương vào
khe Bisa.
- Hôn mê, ngừng thở nhưng tim vẫn đập do tụt kẹt hạnh nhân tiểu não vào lỗ chẩm.
- Hôn mê do viêm não toả lan.
- Vỡ apxe vào não thất họăt vào khỏang cách dới màng nhện gây ra viêm màng não tỏa lan. Chúng ta dựa
vào những triệu chứng sau đây để nghĩ đến apxe vỡ vào não thất, sốt cao, hôn mê có kèm theo triệu
chứng viêm màng não, có nhiều bạch cầu da nhân thoái hóa trong nước não tủy.
2.4

Các thể lâm sàng


2.4.1.1

Thể màng não.

Chúng ta hay gặp thể màng não trong apxe não toả lan. Bệnh nhân có những triệu chứng của viêm màng
não, nhất là có sự thay đổi quan trọng trong nước tủy về tế bào và sinh hóa, nhưng bệnh nhân lại đờ đẫn
nhiều hơn viêm màng não thông thường. Sau khi chữa bằng phẫu thuật khoét rỗng đá chũm và kháng
sinh, các triệu chứng về nước tủy não có khá lên, nhưng triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân lại xấu
hơn. Chúng ta phải nghĩ đến apxe não ( quy luật Borries). Apxe não thể màng não thường gặp ở trẻ em
nhiều hơn ở ngời lớn.
Trong một số trường hợp apxe não xuất hiện sau khi viêm màng não đã hoàn toàn khỏi, nhất là viêm
màng não Pnơmôcôc.
2.4.1.2

Thể nhiều apxe.

Các triệu chứng cũng giống nh trong thể điểm hình có một apxe, nhưng sau khi mổ tháo mủ các triệu
chứng lâm sàng không thuyên giảm hoặc có thuyên giảm chút ít rồi lại trở lại nh cũ. Trong khi đó hiện tượng viêm nhiễm không tăng.
2.4.1.3 Thể cấp tính.
Apxe cấp tính thể hiện sự viêm não rộng ít có xu hớng tập trung. Bệnh nhân sốt cao, gày nhanh, lim
luộc, có nhiều bạch cầu trong máu, có triệu chứng màng não khá rõ rệt. Chọc dò não không tìm được túi
mủ.
Bệnh diễn biến nhanh và thường đa đến tử vong vì viêm não tỏa lan hoặc viên màng não cấp.
2.4.1.4

Thể apxe di căn.

Vi trùng xâm nhập vào não bằng đường máu.
Bệnh bắt đầu một cách đột ngột: Sốt nhiều, nhức đầu, gáy cứng, tăng áp lực nội sọ... chúng ta chẩn đoan
apxe não đa đi mổ. Sau khi giải quyết apxe, bệnh nhân có đơn nhưng ít hôm sau lại sốt trở lại kèm theo

những triệu chứng tăng áp lực nội sọ. Một hoặc nhiều apxe nữa đang hình thành. Apxe này có thể ở thùy
khác hoặc ở bên bán cầu não đối diện.


2.4.1.5

Thể apxe mạn tính.

Các triệu chứng nhiễm trùng hầu nh không có. Các triệu chứng tăng áp lực nội sọ, nhất là nhức đầu kéo
dài làm cho chúng ta nghĩ đến u não. Thể này có thể đa đến chết đột ngột vì không chẩn đoám ra bệnh,
để cho apxe vỡ vào não thất.
Thể này còn làm cho chúng ta chẩn đoán nhầm rằng apxe xuất hiện sau phẫu thuật khoét đá chũm. Thật ta
apxe đã có từ trước khi mổ nhưng vì nó có triệu chứng nên chúng ta không chẩn đoán ra.
2.5 Tiên lượng
Apxe não không được điều trị sẽ đa đến tử vong. Trường hợp bệnh tự khỏi do apxe vôi hóa hoặc do mủ
xuất ngoại qua xương thái dương là một hiện tượng hết sức cá biệt chúng ta không nên dựa vào đấy.
Thơi gian diễn biến của apxe có thể kéo dài từ vài tuần đến nhiều tháng.
Apxe não do tai có xu hớng tiến về phía não thất. Nếu apxe đang căng mủ mà vỡ vào trong não thất thì
tiên lượng rất đen tối. Trái lại nếu não thất bị căng, nước não tủy vỡ trong apxe đã được mổ tháo mủ rồi
thì tiên lượng không xấu lắm. Tình huống thứ hai này có thể gặp nhau qua phẫu thuật và hút mủ ở apxe
ra. Chúng ta thể hiện sự thông thương giữa apxe và não thất bằng cách bơm lipidol vào túi apxe qua ống
cao su dẫn lu rồi chụp X quang.
Tiên lượng của apxe não thuộc vào chất khu trú hay tỏa lan. Trong khi khu trú tiên lượng tốt. Trái lại
trong thể tỏa lan, tiên lượng xấu. Apxe não kèm theo viêm màng não hữu trùng thường là vô hy vọng.
Trong trường hợp bệnh nhân được cha khỏi apxe, chúng ta có thể thấy những di chứng nh động kinh, co
giật, mất ngôn ngữ, giảm trí tuệ....
2.6

Chẩn đoán


Chẩn đoán apxe đại não trong thể điển hình tương đối dễ, nhờ sự có mặt của chứng Becman. Trái lại
trong thể mạn tính, thể phối hợp ( với viêm não, viêm màng não...) vấn đề chẩn đoán gặp nhiều khó khăn.
Do đó chúng ta phải làm thêm một số xét nghiêm nh: Chụp động mạch não, chụp não thất, chụp não có
bơn hơi.
Các thầy thuốc phẫu thuật thần kinh hay chụp não thất bằng cách bơm không khí trực tiếp vào não thất
hoặc bơm không khí vào tủy sống để chụp não. Các thủ thuật này không thích hợp với apxe não do tai và
hay gây ra biến chứng nguy hiểm.
Chỉ có chụp động mạch não là ít nguy hiểm và có thể thực hiện được cả ở bệnh nhân hôn mê. Ngời ta
tiêm 20ml điôdon (diodone) 50% vào động mạnh cảnh bên bệnh và chụp trong hai t thế : Thẳng và
nghiêng. Phim sẽ cho chúng t thấy các động mạch lớn ở não, cụ thể là động mạch não trước và động
mạch não giữa (artere sylvienne) bị đâỷ dồn về một bên, tạo ra một khoảng trống. Trong những apxe cũ
chúng ta có thể thấy cái vành đai mao quản chung quanh bọc apxe.
Phương pháp này giúp chúng ta biết rõ vị trí của apxe và đặt ra hớng điều trị chính xác.
Phương pháp dùng kim chọc thăm dò để tìm apxe chỉ nên dùng trên bàn mổ. Nó giúp chúng ta phát hiện
ra apxe, nhưng nó cũn có thể gây ra biến chứng nh xuất huyết não , nhiễm trùng não ...Muốn áp dụng phương pháp này chúng ta phải bọc lộ rộng màng cứng trên một diện tích có đường kính độ 3cm và chọc
kim vào chỗ màng não lành mạnh và không sâu quá 4cm. Nên dùng kim đầu tù.


2.7

Chẩn đoán phân loại

1. Nếu chúng ta không biết bệnh nhân có bị viêm tai xương chũm thì chúng ta có thể nhầm với các bệnh:
Viêm màng não lao, nhuyễn não, viêm não, u não, apxe não do nguyên nhân khác... Do đó chúng ta phải
khám tai cho tất cả bệnh nhân có triệu chứng áp lực nội sọ.
2. Nếu là một bệnh nhân có viêm tai xương chũm, chúng ta có thể nhầm với những biến chứng khác của
bệnh này.
a. Trong trường hợp bệnh diễn biến theo lối cấp tính chúng ta loại ra:
- Apxe ngoài màng cứng: Thường có giãn đồng tử. Nhưng triệu chứng này không đặc hiêu.
- Apxe dưới màng cứng ( ở giữa màng cứng và vỏ não). Triệu chứng lâm sàng giống nh apxe não nh

hình ảnh động mạch não trên phim không bị đầy dồn.
Hai loại apxe này ít được chẩn đoán trên lâm sàng. Thường chúng ta nghĩ đến apxe não và đa đi phẫu
thụât. Chính trong khi mổ chúng ta mới phát hiện ra tủi mủ ở màng não. Sự nhầm lẫn này không có gì
hại cho bệnh nhân vì những bệnh này cũng đòi hỏi phẫu thuật mở sọ.
- Phù nề não - màng não hay apxe não giải hiệu. Bệnh này diễn biến không liên tục nh apxe não, có
những triệu chứng lâm sàng thuyên giảm một thời gian xen kẽ với những đợt tăng áp lực nội sọ.
- Viêm não tỏa lan không mủ: Bệnh nhân sốt cao, mê sảng, kèm theo triệu chứng bại liệt hoặc co giật.
- Viêm màng não: Các triệu chứng màng não khống chế bệnh cảnh ( xem bai viêm màng não do tai).
Nhưng không nên quên rằng viêm màng não có thể che dấu apxe não. Chúng ta phải vận dụng quy luật
Boriet (Borries) để phát hiện bệnh . Nhất là đối với viêm màng não đáy, thường có triệu chứng bại liệt và
tăng áp lực nội sọ nhẹ.
- Apxe tiểu não: Trên lý thuyết chúng t dựa vào các triệu chứng nh nhức đầu vùng chẩm, rối loạn thăng
bằng, quá tầm, mất liên động (ađaioco - cinésie), mất trương lực cơ, động mắt... để chẩn đoán apxe tiểu
não. Nhưng trên thực tế rất khó vì apxe tiểu não thường hay “câm”. Chúng ta phải chụp động mạch cột
sống hoặc phẫu thuật thăm dò mới phát hiện được bệnh.
b. Trong trường hợp bệnh diễn biến theo hớng mạn tính, chúng ta loại ra các bệnh: u não, phù sùng não
thất. Chụp động mạch não và chọc dò não thất sẽ giúp chúng ta giải quyết vấn đề này.
2.8

Điều trị

Nguyên tắc chung của điều trị apxe não là loại bỏ ổ viêm xương và tháo mủ trong apxe ra. Điều này ai
cũng thống nhất nhưng trên thực tế các thầy thuốc phẫu thuật thần kinh làm hơi khác các thầy thuốc tai
mũi họng; Họ giải quyết apxe não trước rồi sau mới mổ ổ viêm tai xương chũm. Sau đây chúng ta chỉ nói
đến cách điều trị của các thầy thuốc tai mũi họng.
Tùy theo giao đoạn của apxe, phương pháp điều trị có khác nhau.
2.8.1.1

Giai đoạn cấp tính.


Bệnh nhân chính là viêm não và phù nề não.
Do đó hớng điều trị làm phẫu thuật khoét rỗng đá chũm bọc lộ màng não (không rạch màng não, không
đơc chọc dò) và điều trị bằng thuốc.


Điều trị bằng thuốc.
- Chống phù nề: Tiêm vào mạch máu dung dịch glucoza i trương 30% hoặc dung dịch NaCl qu trương
20%, hoặc dung dịch sunfat magie 15% ( không được dùng SO4Mg nếu có uống sunfamit) hoặc dung
dịch matito; 20%, 200ml.
- Chống viêm: Tiêm pênixilin, streptômyxin, hoặc tiêm nhỏ giọt aureo myxin hay tetraxyclin vào mạch
máu...
2.8.1.2

Giai đoạn bán cấp: Túi mủ đã hình thành.

Đây là giai đoạn mà chúng ta thường thấy ở bệnh viện.
Chúng ta cũng bắt đầu bằng phẫu thuật khoét rỗng đá chũm và bọc lộ màng não. Phẫu thuật này cho phép
chúng ta loại các bệnh có triệu chứng tương tự với apxe não, apxe ngoài màng cứng, apxe dới màng cứng.
Sau đó chúng ta kiểm tra màng não.
Có hai khả năng.
a. Màng não dày, sù sì hoặc có lỗ rò, ngón tay ấn vào màng não có cảm giác có khối u ở dới sâu. Chúng
ta nên chọc dò tìm apxe bằng kim to đầu tù. Nếu có mủ chúng ta sẽ rạch màng não rộng khoảng 15mm
và đặt hai ống cao su to bằng bút chì vào túi mủ để dẫn lu ở mặt dới của thùy thái dương.
b. Màng não có vẻ bình thường , cha nên chọc dò vội. Hãy mở cửa sổ giảm áp ở vùng thái dương và đợi
24giờ xem bệnh diễn biến thế nào (trong khi đó chúng ta vẫn điều trị bằng thuốc).
Nếu bệnh không thuyên giảm. Chúng ta sẽ dùng chọc thăm dò; Nếu có apxe chúng ta sẽ rạch mang não
và đặt ống dẫn lu.
Chúng ta có thể tháo mủ ra cửa ổ apxe bằng dung dịch pênixilin (10.000 đơn vị/1ml). Không nên tiêm
pênixilin vao tổ chức não (sẽ gây ra động kinh).
Song song với phẫu thuật chúng ta phải điều trị bằng thuốc chống viêm nhiễm, chống phù nề nh đã nói ở

đoạn đầu.
Sau một thời gian điều trị apxe có thể khỏi hẳn hoặc để lại một cái bọc xơ.
2.8.1.3

Giai đoạn bọc xơ.

Apxe não sẽ bị bao vây bởi một cái bọc xơ sau một thời gian tiến triển từ năm đến tám tuần. Chúng ta
biết bọc xơ đã hình thành khi chọc dò tay có cảm giác chạm vào một cái túi dày.
Nếu cắt bỏ toàn bộ bọc xơ theo phương pháp phẫu thuật thần kinh.
Hình 97: Phẫu thuật apxe đại não, sau khi
khéot rỗng đá chũm toàn phần rồi ngời ta bộc
lộ màng não ở trên hòm nhĩ và trên sào bào.
Apxe thường hay ở thùy dương trái.
2.9

Phòng bệnh

Apxe não được hình thành là do sự lơ là của bệnh nhân hoặc sự thiếu thận trọng của thầy thuốc. Khi tai


bị chảy mủ kéo dài thì bệnh nhân phải đi điều trị.
Lúc khám bệnh, nếu thầy thuốc thấy có viêm tai xương chũm, nhất là khi có hồi viêm, thì phải đặt ra vấn
đề phẫu thuật.
3

APXE TIỂU NÃO

Theo tài liệu nước ngoài , apxe tiểu não ít hơn apxe đại não. ở Việt Nam trong ba năm 1957, 1958 và
1959 các tác giả Trần Hữu Tước, Phạm Trinh và Nguyễn Ngọc Thắng đã gặp 20 ca apxe tiểu não và 15
ca apxe đại não.

3.1

NGUYÊN NHÂN - BỆNH SINH

Hầu hết các apxe tiểu não đều do viêm tai xương chũm mạn tính hồi viêm không có hoặc có
cholestêatôma.
Tuổi thường gay mắc bệnh này khoản 9-10 tuổi trở lên. Chúng tôi không gặp ca bệnh nào ở trẻ em dới 5
tuổi.
Viễm nhiễm ở tai xương chũm xâm nhập vào tiểu não bằng một trong ba đường sau đây:
- Đường tĩnh mạch: Đây là lối phổ biến nhất. Viêm tắc tĩnh mạch bên là trước trung giam giữa bệnh tích
tai xương chũm và tiểu não. Triệu chứng viên tắc tĩnh mạch ít khi thiếu.
- Đường mê nhĩ: Bệnh bắt đầu bằng viêm mê nhĩ mủ, sau đó viêm nhiễm vào màng não, tiểu não qua
cóng tiền đình và túi nội dịch hoặc qua ống bán khuyên sau.
- Đường xương: Các tế bào ở phía sau mê nhĩ bị viêm (viêm mặt sau xương đá), xương bị hà. Màng não
đối diện bị vi trùng xâm nhập.
3.2

Giải phẫu bệnh học

Apxe có thể hoàn toàn trong chất não, hoặc ở trong chất não nhưng có cuống ra đến cuối màng não.
3.2.1

Vị trí.

Apxe thường hay ở phía phần ba trước của bán cầu tiểu não tức là ở trước tĩnh mạch bên và đối diện với
mặt sau trên của xương đá (apxe do viêm mê nhĩ hay do viên mặt sau xương đá). Loại này chiếm đa số ở
Việt Nam.
Apxe cũng có thể ở hai phần ba sau của bán cầu tiểu não tức là sau tính mạch bên (apxe do viêm tắc
tĩnh mạch bên).
3.2.2


Số lượng.

Có thể thấy một apxe hoặc nhiều apxe. Khả năng nhiều apxe không hiếm.
3.2.3

Khối lượng.

Túi mủ không lớn bằng apxe đại não, thường chỉ to bằng ngón tay cái. Nhưng vì apxe ở trong hố sau của
sọ nên nó hay gây ra nhiều chèn ép nguy hiểm nh:


- Chèm ép cống Syvius gây ra thủy thũng não thất và tăng áp lực nội sọ.
- Đè gập khủyu bó tháp bên đối diện vào bờ lỗ chẩm gây ra bại liệt cùng bên ở các chi ( bệnh tích ở bên
chỗ bắt chéo của bó tháp)
- Rối loạn hành não do tụt kẹt hạnh nhân tiểu não vào lỗ chẩm (ngừng thở nhưng tim vẫn đập, chết đột
ngột...)
3.2.4

Mủ và vi trùng

của apxe tiểu não giống như trong apxe đại não mà chúng ta đã học.
3.2.5

Vỏ apxe tiểu não

giống nh vỏ apxe đại não. Nhưng trong apxe tiểu não, bệnh nhân thường tử vong sớm nên bọc xơ cha
có thời giờ để hình thành một cách rõ rệt.
Apxe thường hay có cuống và ăn thông ra đến màng não bằng một cái lỗ rò ở phía trước tĩnh mạch bên
( Trần Hữu Tước, Nguyễn Ngọc Thắng).

3.3 Triệu chứng
Trên lý thuyết apxe tiểu não có khá nhiều triệu chứng phong phú, nhưng trên thực tế bệnh này là một
trong những bệnh nghèo nàn về triệu chứng và khó chẩn đoán.
Sở dĩ có hiện tượng này là vì lý do sau đây;
Phần lớn của bán cầu tiểu não là vùng câm, khi bị phá hủy nó không có biểu hiện lâm sàng.
- Tiểu não có khả năng bù trừ rất lớn: Những chức năng bị thương tổn suy yếu thường được gánh vác bởi
phần còn lại của tổ chức tiểu não.Do đó các triệu chứng tiểu não thường kín đáo và thoáng qua không
tồn tại lâu.
- Các bệnh tích phối hợp nh viên tĩnh mạch bên, viêm mê nhĩ hay gây ra những triệu chứng ổ ạt và thường làm lu mờ các hiện tượng lâm sàng của apxe tiều não.
Bệnh tiến triển, cũng nh trong apxe đại não, qua bốn giai đoạn: Giai điạn bắt đầu, giai đoạn tiềm tàng,
giai đoạn toàn phát, giai đoạn cuối cùng. Cách xuất hiện và sự diễn biến của từng giai đoạn cũng tương tự
nh trong apxe đại não. Thí dự nh giai đoạn bắt đầu tương xứng với đợt hồi viêm tai xương chũm mạn
tính, giai đoạn thứ hai với thời kỳ trầm nặng... nên chúng tôi không nhắc lại (xem phần apxe đại não).
Bệnh có thể xuất hiện ở một bệnh nhân cha được mổ xương chũm hoặc đã được mổ rồi.
ở đây chúng tôi nhấn mạnh giai đoạn toàn phát và những triệu chứng thầy thuốc chẩn đoán apxe tiểu não.
3.3.1

Hội chứng tăng áp lực nội sọ.

Các triệu chứng của tăng áp lực nội sọ khá rõ rệt.
- Nhức đầu nhiều: Tập trung ở vùng chẩm.Ngón tay gõ vào xương chẩm cũng làm cho bệnh nhân đau.
Bóp gáy bệnh nhân cũng kêu đau.
- Nôn nhiều về buổi sáng. Nôn vọt một cách dễ dàng , khi ăn cũng nôn, khi uống cũng nôn, không ăn


cùng nôn. Nôn nhiều hơn trong apxe đại não , nhưng không phải mọi ca đều nôn.
- Tinh thần trì trệ. Bệnh nhân ngủ gà gật.
Khi gọi dậy họ trả lời chậm chạp, tiếng một, xong rồi lại nhắm mắt lim dim.
- Mạch chậm cũng là một triệu chứng có sớm. Nhưng vì bệnh nhân thường bị viêm tắc tĩnh mạch bên
nhưng nhiều khi mạch lại nhanh.

- Phù nề gai mắt thường gặp nhiều hơn trong apxe tiều não.
- Nước não tủy có áp lực cao hoặc bình thường.
Ngoài ra liệt dây thần kinh số VI ( lác mắt về phía trong) cũng được coi là hậu quả tăng áp nộ sọ.
3.3.2

Hội chứngviêm nhiễm.

Gày là triệu chứng rất quan trọng và luôn luôn có mặt. Bệnh nhân gày nhanh và nhiều: Có thể mất hàng
chục cân trong vòng một tuần lễ. Trong apxe đại não, bệnh nhân cũng gày nhưng gày chậm hơn.
Bạch cầu trong máu có tăng, nhưng số lượng bạch cầu không nói lên được mức độ tăng của bệnh. Con số
thường gặp là trên 10.000 trong một milimét khối
Tế bào trong nước não tủy tăng.
Nhiệt độ không cao (380) trừ trường hợp có viêm tức tĩnh mạch bên.
3.3.3

Hội chứng định khu.

Hội chứng này trên lý thuyết rất phong phú gồm có các triệu chứng tiểu não, triệu chứng mê nhĩ, triệu
chứng bỏ tháp và triệu chứng hành não.
3.3.3.1 Triệu chứng tiểu não.
Các triệu chứng chức năng tiểu não xuất hiện cùng một bên với tai bệnh và được xếp làm ba loại.
- Rối loạn dáng bộ.
Mất thăng bằng khi đứng, hay ngả về phía sau hoặc phía bên mặc dù nhắm mắt hay mở mắt. Khi đi thi
chệnh choạng nh ngời sau rợu.
Tong trường hợp nặng, bệnh nhân nằm liệt giường và có hiệu tượng giữ nguyên thế (catalepsic
cérébelleuse) thí dụ nh lúc nào cũng nghẹo đầu và co tay về một bên, không sửa ngay ngắn lại được.
- Rối loạn vận động, chủ động.
Quá tầm (hypermétre) : Chúng ta bảo bệnh nhân nhắm mắt bà lấy ngón tay chỉ mũi, ngón tay sẽ đi quá
tầm trên trán.
Nghiệm pháp Stêva - Honmêt ( Stewart - Holmes): Chúng ta bảo bệnh nhân nắm bàn tay lại, co giật cách

tay trước ngực và ra sức giữ không cho nó duỗi ra. Thầy thuốc kéo cánh tay bệnh nhân khỏi ngực độ
30cm rồi đột nhiên buông ra, cho nó bật trở về chỗ cũ. ở ngời bình thường tay sẽ dừng lại cách ngực độ
5cm. ở ngời quá tầm , tay sẽ đi quá đà và đập mạnh vào ngực.


Mất liên động (ađiaococinésie) : Không làm động tác múa rối các ngón tay một cách cân đối và nhanh được.
Mất đồng vận (asynergie): Bảo bệnh nhân nằm ngửa và đá gót chân vào mông. Bên lành chúng ta thấy
bệnh nhân làm cùng một lúc ba động tác: Bàn chân lớt trên mặt đường, cẳng chân và đùi gập lại. Trái lại
ở bên bệnh ba động tác đó tách rời ra; Đầu tiên bệnh nhân nhấc đùi lên, sau đó họ gập cẳng chân lại và
cuối cùng họ hất gót chân vào mông.
Rung hữu ý : Khi cử động cầm một vật gì đó biên độ rung khá rộng:
- Rối loạn vận động thụ động.
Trương lực cơ bị giảm nên chúng ta thấy có hiện tương.
- Hiện tượng bàn tay chết.
- Phản xạ gân bánh chè kéo dài; Cẳng chân đa đi đa lại nh quả lắc đồng hồ.
Nh chúng tôi đã nói ở đoạn đầu, các triệu chứng tiểu não kể trên tuy rằng khá phong phú nhưng không
tồn tại lâu, khó phát hiện. Do đó apxe tiểu não thường ít triệu chứng hơn apxe đại não.
3.3.3.2 Triệu chứng tiền đình.
Chúng ta quen gọi là triệu chứng tiền đình , nhưng thực ra nguyên nhân của các triệu chứng này ở tiểu
não ( Hội chứng tiền đình trung ương).
- Chóng mặt là triệu chứng thường xuyên và sớm, nhưng không đặc hiệu.
- Động mắt tự phát.
Chúng ta nghĩ đến bệnh tích tiểu não
• Khi thấy động mắt tự phát đập về bên bệnh (động mắt tự phát do hỏng mê nhĩ đập về bên lành),
nhất là trong trường hợp mê nhĩ đã chết do mệnh hoặc do phẫu thuật khoét mê nhĩ. Nếu mê nhĩ
cha chết (còn trả lời khi chúng ta làm nghiệm pháp tiền đình) chúng ta phải theo dõi xem nó kéo
dài nhiều ngày không. Nếu động mắt về bên bệnh kéo dài chúng ta phải nghĩ đến apxe tiểu não.
• Khi thấy động mắt tự phát đập về bên lành chúng ta cha kết luật vội là không có apxe tiểu não
mà phải theo dõi, nếu động mắt kéo dài quá 6 ngày hoặc đã hết rồi những vẫn tái diễn trở lại
chúng ta phải nghĩ đến apxe tiểu não.

• Khi động mắt tự phát tiếp tục đập, bất kỳ hớng nào sau khoan mê nhĩ, chúng ta phải nghĩ đến
apxe tiểu não.
Đặc điểm của động mắt do tiểu não: Biên độ rộng, có thể thay đổi hớng, thuần túy, nghĩa là đơn thuần
nằm hay quay, hoặc đứng chứ không có hỗn hợp. Động mắt đứng rất có giá trị trong chẩn đoán apxe
tiều não.
- Động mắt do gây ra.
Động mắt do gây ra ít có giá trị và thường khó thực hiện vì bệnh nhân mệt nặng. Sự trả lời “ quá kích
thích” hoặc “không kích thích được” ở một bệnh nhân có hội chứng tiều não làm cho chúng ta nghĩ đến
apxe trước tĩnh mạch bên: Sự trả lời “ quá kích thích” hoặc “ kích thích bình thường” gợíy cho chúng ta
rằng apxe có thể sau tĩnh mạch bên.
- Nghiệm pháp ngón tay chỉ.


×