Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CÁC KCN, KCX Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.11 KB, 31 trang )

Thực trạng xây dựng và phát triển các KCN,
KCX ở Việt nam hiện nay
I.Vài nét về tình hình đầu t nớc ngoài ở Việt Nam hiện nay
Quốc hội nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII chính thức
thông qua luật đầu t nớc ngoài (ĐTNN) ngày 29/12/1987 có hiệu lực thực hiện từ
đầu năm 1988 và đã qua 4 lần sửa đổi bổ xung năm 1990, 1992, 1996 và năm
2000. Ngay từ khi Luật này mới ra đời, nhiều nớc và tổ chức kinh tế nớc ngoài đã
đánh giá cao tính khả thi và cho rằng đây là một sân chơi hấp dẫn nên đã có rất
nhiều đối tác lần lợt đến với Việt Nam.
Trong 14 năm qua, cùng với công cuộc đổi mới kinh tế, hoạt động ĐTNN
đã diễn ra rất sôi nổi và đạt đợc những kết quả bớc đầu rất đáng thuyết phục. Mặc
dù Việt Nam thu hút FDI muộn hơn so với nhiều nớc khác trong khu vực, nhng
dòng FDI vào Việt Nam có chiều hớng tăng nhanh sau ba năm đầu thực hiện luật
thu hút FDI.
Nếu bình quân giai đoạn 1988-1990, Việt Nam chỉ thu hút đợc 1783 triệu
USD (vốn đăng ký) thì các năm sau dòng vốn này đã liên tục tăng và đạt tới 8836
triệu USD trong năm 1996.Tuy nhiên từ năm 1997, do tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính châu á và những yếu kém trong môi trờng đầu t nớc ngoài ở Việt
Nam, dòng vốn này đã giảm mạnh và chỉ đạt đợc gần 2000 triệu USD trong năm
1998. Tính đến tháng 8-1998, Việt Nam đã thu hút đợc 37202 triệu usd trong đó
vốn thực hiện mới đạt đợc 14120 triệu usd, chiếm 38,2% vốn đầu t đăng kí.[5]
FDI ở Việt Nam trong những giai đoạn này chủ yếu đợc thực hiện theo các
hình thức nh: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Doanh nghiệp liên doanh, Doanh
nghiệp 100% vốn nớc ngoài và BOT. Nhng đến năm 1998 thì các dự án đầu t nớc
ngoài còn hiệu lực là 33960 dự án trong các hình thức đầu t trên.Tuy nhiên, FDI ở
nớc ta chủ yếu tập chung vào các ngành công nghiệp, khách sạn và văn phòng căn
hộ, cha hớng vào phát triển các KCN, KCX , KCNC.
Trong giai đoạn này, các ngành công nghiệp đã thu hút đợc FDI rất lớn, đặc biệt là ngành dầu khí, thu
hút đợc nhiều FDI nhất, gần 3000 triệu usd vốn đăng kí trong đó vốn thực hiện lên tới 5000 triệu usd (đạt
mức 167% vốn đăng kí). Tiếp theo đó là ngành : Dệt may, viễn thông, ôtô, hoá chất, điện tử. . .
Dòng vốn trong thời gian này chủ yếu đến từ khu vực Châu á-Thái Bình Dơng (23099 triệu usd chiếm


70,91% tổng FDI của cả nớc, trong đó FDI của các nớc asean là: 7999 triệu usd chiếm 24,56%). Tiếp theo là
Châu Âu (6856 triệu usd chiếm 21,05%); Châu Mỹ (2574 triệu usd chiếm 7,9%) và các nớc khác (1399 triệu
usd chiếm 4,3%).
Tuy nhiên từ năm 2000 trở lại đây, đầu t nớc ngoài ở Việt Nam rất phát triển.Theo Bộ Kế Hoạch và
Đầu T, trong hai tháng kể từ 31/06 đến 31/08/2002, đầu t nớc ngoài có chiều hớng gia tăng, cả nớc đã có thêm
184 dự án đầu t trực tiếp nớc ngoài với tổng số vốn đăng kí là 458 triệu usd(kể cả vốn tăng thêm của dự án
đang hoạt động) trong đó có 155 dự án là 100% vốn đầu t nớc ngoài với khoảng 435 triệu usd.[5]
Trong tổng số vốn đầu t nứơc ngoài thực hiện trong 2 tháng này đạt gần 292 triệu USD, thì khu vực
100% vốn đầu t nớc ngoài cũng dẫn đầu với 67 triệu usd trong khi đó khu vực BOT đạt 40 triệu usd, khu vực
dự án liên doanh đạt 38 triệu USD (không kể 147 triệu usd thực hiện theo các hợp đồng dâù khí). Sự lớn mạnh
nhanh chóng của khu vực dự án 100% vốn ĐTNN thể hiện tính cởi mở thông thoáng của môi tr ờng đầu t và môi
trờng kinh doanh của Việt nam hiện nay.
Các dự án FDI đã đa các ngành công nghiệp phát triển mạnh. Trong đó, các ngành công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ đợc chú trọng và có nhiều dự án đầu t nớc ngoài quan tâm. Sự phát triển nhanh của các ngành
công nghiệp (đặc biệt là sự phát triển của ngành công nghiệp nhẹ) đã thu hút đợc số lợng lao động rất lớn làm
giảm thiểu đội quân thất nghiệp trong nớc.
Chẳng hạn nh trong năm 2001, theo thống kê của từ Bộ Kế Hoạch và Đầu T thì các doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài (FDI) trong ngành công nghiệp nhẹ thu hút 17000 lao động tăng 2000 ngời so với năm
2000, chiếm 53% tổng số lao động trong số đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Theo đánh giá của Bộ Kế Hoạch và Đầu T cho thấy, mặc dù quy mô dự án khá khiêm tốn, với trung
bình 7 triệu usd/dự án nhng ngành công nghiệp nhẹ luôn thu hút nhiều lao động nhất trong khi đó đầu t nớc
ngoài trong các ngành công nghiệp nặng và xây dựng dù có quy mô đầu t lớn trung bình 12 triệu usd/1 dự án
nhng chỉ thu hút 19% tổng số lao động trong lĩnh vực đầu t nớc ngoài.[6]
Trên thực tế, các dự án đầu t nớc ngoài đợc phê duyệt rất nhiều, trong đó các dự án công nghiệp là tăng
so với năm trớc. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu T tính đến giữa tháng 10-2000 có 2514 dự án có vốn đầu t nớc ngoài
còn hiệu lực với số vốn thực hiện trên 16,5 tỷ usd bằng 46,5% số vốn đăng kí.
Trong đó, vốn đầu t nớc ngoài vào thành phố Hồ Chí Minh là lớn nhất với: 4.178 tỷ usd tiếp đến là Hà
Nội: 2.679 tỷ usd, Đồng Nai: 1.748 tỷ usd, Hải Phòng: 873 triệu usd. . .Các nớc có vốn đầu t trực tiếp vào
Việt Nam thời kì này bao gồm: Nhật Bản: 2.356 tỷ usd, Đài Loan: xấp xỉ 2 tỷ usd, Hàn Quốc: 1.837 tỷ usd,
Singapore: 1, 8 tỷ usd, Hồng Kông: 1.333 tỷ usd.[6]

Đầu t nớc ngoài vào Việt Nam ngày càng có cơ cấu đầu t hoàn thiện hơn về ngành, lãnh vực và các
vùng khác nhau thể hiện là: Chú trọng đầu t vào KCX, KCNC, đồng thời đến năm 2002 nớc ta đã có 58 tỉnh
thành có vốn đầu t nớc ngoài. Nhìn chung, tất cả 58 địa bàn trong cả nớc đều thu hút đợc nhiều dự án đầu t nớc
ngoài và nhiều dự án đợc cấp giấy phép hoạt động. Do đó, cơ cấu đầu t nớc ngoài đồng đều cho các ngành, lĩnh
vực, từng địa bàn nên việc tiến tới quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá có nhiều thuận lợi do việc phát triển
đồng đều kinh tế trên các địa bàn.
Các dự án đầu t nớc ngoài đã dần chuyển hớng tập chung ở các KCX và KCN với 25 dự án và vốn 88,4
triệu usd vốn pháp định, 50, 4 triệu usd trong đó phía nớc ngoài góp 95,7%. Bình quân mỗi dự án có vốn đầu
t là 3,53 triệu usd tuy nhiên số vốn đầu t nớc ngoài cho mỗi dự án có xu hớng tăng dần so với những năm trớc.
Sang năm 2002, Bộ Kế Hoạch và Đầu T cho biết thực hiện vốn đầu t phát triển toàn xã hội 9 tháng đầu
năm ớc đạt 135.400 tỷ đồng, bằng 77,4% kế hoạch năm và tăng 12,5% so với cùng kì năm trớc, trong đó vốn của
nhà nớc(bao gồm vốn ngân sách của nhà nớc, vốn tín dụng và vốn của các ngân sách của nhà nớc) đạt khoảng
73.500 tỷ đồng, tăng 8,4%, vốn ngoài quốc doanh tăng 37.800 tỷ đồng, tăng 32,6% và vốn trực tiếp nớc ngoài ớc
khoảng 24.100 tỷ đồng tăng 9,5%.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 9 năm 2002 của cả nớc tăng 1,9% so với tháng trớc và tăng 17,1%,
so với cùng kì năm 2001. Trong khi sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế nhà nớc chỉ tăng 0,2% so với
tháng trớc và 11,7% so với cùng kì 2001, toàn ngành công nghiệp đạt kết quả nêu trên trớc hết là nhờ sản xuất
công nghiệp của khu vực có vốn đầu t nớc ngoài đã có bớc đột phá quan trọng, với mức tăng tơng ứng là 3,4% và
21,9% trong đó ngành dầu khí tăng 4,9% và 16,4%. Ngoài ra, sản xuất công nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc
doanh vẫn giữ đợc mức độ tăng và 19,8%. Sau đây là tình hình sản xuất công nghiệp tháng 9/2002 so với cùng kì
năm ngoái:
Bảng 1: Tình hình sản xuất công nghiệp tháng 9/2002 so với
cùng kỳ năm ngoái.
Địa bàn có mức tăng cao Ngành nghề có mức tăng cao
T.P HCM 23,6% Dầu khí 16,4%
Hà Nội 36,3% Điện phát ra 14,7%
Hải Phòng 30,8% Thuỷ sản chế biến 27,7%
Đà Nẵng 12,6% Xi măng 19,3%
Ôtô 64%
Xe máy 91,1%

Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu T
Nói tóm lại, trong mấy năm gần đây, tình hình đầu t nớc ngoài vào Việt Nam có những chuyển biến rõ
rệt nh trên.
II.Thực trạng xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt
Nam hiện nay
1.Khung pháp lý liên quan đến hoat động của các KCN, KCX ở Việt
Nam hiện nay
KCX là một mô hình mới ở Việt Nam nên còn nhiều vấn đề về khung pháp
lý cha thật hoàn chỉnh. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các KCN, KCX ở nớc ta
thực sự hấp dẫn các nhà đầu t, Chính phủ Việt Nam đã ban hành, sửa đổi, bổ sung
rất nhiều lần các chính sách, chỉ thị, nghị định, thông t. . . điêù chỉnh hoạt động
của các KCN, KCX theo hớng ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu t đặc biệt
là nhà đầu t nớc ngoài.
1.1. Chính sách của nhà nớc
Tháng 12 năm 1987, Quốc hội nớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính
thức thông qua Luật ĐTNN tạo điều kiện pháp lý quan trọng thu hút ĐTNN làm tiền
đề cho sự ra đời KCN ở nớc ta. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh hoạt động
KCN là nghị định 36/CP ban hành ngày 24/4/1997 về qui chế KCN, KCX, KCNC thay
thế cho hai qui chế riêng biệt: qui chế KCX ban hành năm 1991 và qui chế KCN ban
hành năm 1994. Nghị định này đợc xây dựng trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện hành
mà cốt lõi là Luật ĐTNN, Luật khuyến khích đầu t trong nớc, Luật doanh nghiệp nhà
nớc, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, và các luật khác. Do tồn tại hai hệ thống luật
khác nhau điều chỉnh các doanh nghiệp trong KCN (Luật khuyến khích đầu t trong n-
ớc áp dụng đối với doanh nghiệp trong nớc, Luật ĐTNN áp dụng đối với doanh nghiệp
có vốn ĐTNN) đã tạo nên sự khác biệt trong tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh
giữa các loại hình doanh nghiệp, nhất là các điều kiện u đãi thuế, giá một số yếu tố đầu
vào (điện, nớc,...), giá cả dịch vụ, ...
Để cải thiện môi trờng đầu t hấp dẫn hơn cho các nhà đầu t, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 10/CP ngày 23/1/1998 về những biện pháp khuyến khích và
bảo đảm hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài với những qui định thông thoáng hơn,

u đãi hơn cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung trong đó có doanh
nghiệp KCN. Tuy nhiên, Nghị định này cha giải quyết đợc vấn đề phân biệt đối xử
giữa hai hệ thống doanh nghiệp.
Nhằm từng bớc xoá bỏ sự khác biệt về điều kiện kinh doanh giữa doanh
nghiệp trong nớc với doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Thủ tớng chính phủ đã ban
hành Quyết định 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 qui định giảm giá một số hàng
hoá, dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN, ngời nớc ngoài ví dụ giá
bán điện, giá cớc viễn thông, giá nớc sạch; một số khoản phí và lệ phí theo quyết
định này cũng đợc miễn giảm nh lệ phí đặt văn phòng đại diện giảm từ 5000 USD
xuống còn 1 triệu VND (giảm gần 70 lần) không cần cả lệ phí gia hạn, lệ phí nộp
đơn xin giấy phép đầu t cũng đợc bãi bỏ. Quyết định 53/TTg còn quy định dùng
đồng tiền Việt Nam để thanh toán các loại giá dịch vụ, phí và lệ phí. Tuy nhiên
việc thực hiện các quy định này diễn ra rất chậm.
Ngoài ra việc cho phép các doanh nghiệp KCN thuê lại đất của doanh
nghiệp phát triển hạ tầng đợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nh các
doanh nghiệp ngoài KCN nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn
sản xuất, kinh doanh và yên tâm đầu t là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề này,
Quýêt định 53/TTg đã qui định doanh nghiệp KCN, KCX đợc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn hợp đồng ký với doanh nghiệp xây dựng và
kinh doanh hạ tầng KCN, KCX.
Nhằm xích gần thêm một bớc giữa các qui định pháp luật về đầu t trong n-
ớc và ĐTNN để tiến tới một luật đầu t thống nhất, tạo thế chủ động trong hội
nhập quốc tế và không ngừng tạo dựng môi trờng pháp lý đồng bộ theo hớng
thông thoáng, ổn định cho hoạt động ĐTNN, ngày 9/6/2000 Chính phủ nớc ta lại
chính thức thông qua Luật ĐTNN sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN
năm 1996. Đối với hoạt động của KCN, Luật sửa đổi lần này áp dụng cho các
doanh nghiệp KCN và cả các công ty phát triển hạ tầng, tiếp tục thể hiện nguyên
tắc khuyến khích các doanh nghiệp có vốn ĐTNN vào KCN nh: thuế chuyển lợi
thấp hơn (3, 5, 7% thay cho 5, 7, 10%), thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp
hơn và thời hạn miễn giảm dài hơn so với các doanh nghiệp cùng loại đầu t ngoài

KCN, thủ tục đầu t vào KCN dễ dàng hơn... Luật này cùng với việc đổi mới nâng
cao hiệu lực điều hành, chúng ta sẽ lấy lại đợc lợi thế thu hút ĐTNN vào nền kinh
tế nói chung và KCN nói riêng.
Ngay sau khi sửa đổi Luật ĐTNN, ngày 31/7/2000 Chính phủ đã ban hành
Nghị định 24/CP nhằm qui định chi tiết thi hành luật này. Nghị định này đợc xây
dựng trên cơ sở bố cục của Nghị định 12/CP và lồng ghép chính sách khuyến
khích đầu t đã đợc qui định tại Nghị định 10/CP và Quyết định 53/Ttg. Điều này
thể hiện sự quan tâm liên tục của Chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện môi
trờng pháp lý cho hoạt động ĐTNN nói chung và đầu t vào KCN Việt Nam nói
riêng.
1.2. Cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp trong KCN, KCX
Trong thời gian qua chúng ta đang tiến hành cơ chế quản lý KCN theo hình
thức một cửa, tại chỗ . Cơ chế này đã đợc qui định cụ thể trong Nghị định
36/CP năm 1997 về KCN, KCX. Để giúp Chính phủ quản lý KCN, một bộ máy tổ
chức bao gồm các Bộ, Ngành, Trung ơng, Uỷ ban nhân dân tỉnh và Ban quản lý
KCN cấp tỉnh đã đợc hình thành. Nhiệm vụ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh là
thực hiện quản lý một cửa đối với KCN, KCX tập trung trớc hết vào công tác vận
động, xúc tiến đầu t, cấp giấy phép đầu t và quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp KCN. Luật ĐTNN cũng đã trao nhiều quyền hơn cho các
Ban quản lý KCN cấp tỉnh thông qua cơ chế uỷ quyền và thực hiện quản lý một
cửa . Đó là bớc tiến bộ mới về mặt luật pháp và quản lý nhà nớc.
Để thực hiện nhiệm vụ phức tạp này, các Ban quản lý KCN đã đợc Bộ Kế
hoạch và Đầu t uỷ quyền cấp giấy phép đầu t cho các dự án có vốn ĐTNN; Bộ Th-
ơng mại uỷ quyền quản lý xuất nhập khẩu; Bộ Lao động, Thơng binh và Xã hội uỷ
quyền quản lý lao động, cấp giấy phép lao động cho ngời nớc ngoài; Phòng Thơng
mại và Công nghiệp Việt Nam uỷ quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá;
Bộ xây dựng hớng dẫn quản lý đầu t xây dựng trong KCN; Tổng cục hải quan h-
ớng dẫn hoạt động hải quan trong KCN .
Về cơ bản, bằng cơ chế uỷ quyền, Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã đợc trao
quyền quyết định nhiều hơn trong quản lý KCN, góp phần nâng cao hiệu quả và

hiệu lực quản lý nhà nớc đối với KCN, rút ngắn hơn thủ tục hành chính, phần nào
giải tỏa về mặt tâm lý cho các nhà ĐTNN về chính sách của chúng ta đối với khu
vực ĐTNN nói chung và KCN nói riêng.
2. Tình hình xây dựng và phát triển các KCN, KCX trong thời gian qua
2.1. Phân bố theo vùng và thời điểm thành lập
Nhìn chung, các KCN, KCX ở Việt Nam phân bố vừa rải rác, vừa tập chung
nhng không hiệu quả và đặc điểm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tính không hiệu quả của việc sử dụng các KCN, KCX nêu trên.
Tính rải rác của các KCN, KCX thể hiện ở việc có 27 tỉnh thành có KCN,
3 tỉnh thành có KCX. Số lợng không phải là cơ sở để đánh giá. Cơ sở để đánh giá
đây là sự tồn tại của các KCN ở một số địa phơng là cha cần thiết. Một thời
gian trớc đây và kể cả hiện nay, phong trào xây dựng các KCN nổi lên nh một xu
thế mà nhiều địa phơng quan niệm rằng không thể không theo. Trên toàn lãnh thổ
nớc ta , các KCN tập chung tại 3 vùng kinh tế trọng điểm. Tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc, chúng ta có 17 khu, riêng Hà Nội đã chiếm 7 khu trong số này.
Các KCN của Hà Nội trong 8 tháng đầu năm 2002 đã thu hút đợc 52 dự án với
tổng vốn đăng ký 567 triệu USD, triển khai trên tổng diện tích 964 ngàn m
2
.Kết
quả này theo đánh giá của ban quản lý KCN thì nó trực tiếp góp phần tích cực
trong việc tăng tốc độ sản xuất công nghiệp chung so với cùng kỳ năm trớc.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 42 khu(chiếm 2/3 số KCN trong cả
nớc). Trong đó có 12 khu của thành phố Hồ Chí Minh.Các KCN ở thành phố Hồ
Chí Minh thu hút đợc 126 dự án đầu t với tổng vốn đầu t là 827,6 triệu USD. Diện
tích đất cho thuê lại là 273 ha, chiếm 23% tổng diện tích cho thuê. Thành phố Hồ
Chí Minh có KCX Tân Thuận đợc xếp hàng thứ 3 trong số 10 KCX thành công
nhất Châu á và cũng là KCX thành công thứ 2 ở Việt Nam hiện nay. KCX Tân
Thuận có diện tích 300 ha đến nay thu hút đợc 156 dự án đầu t với tổng vốn đầu t
794 triệu USD, diện tích đất cho thuê là là 113 ha, chiếm 52% diện tích có thể cho
thuê.

Còn lại ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 13 khu.
Số lợng các KCN xuất hiện ngày càng nhiều, đặc biệt các năm 1996,
1997,1998 và từ sau năm 2000 trở lại đây là các mốc thời gian có số KCN đợc
xây dựng nhiều nhất kể từ năm 1991 tới nay. Cụ thể về thời điểm thành lập các
KCN, KCX đã đi vào hoạt động ở nớc ta nh sau:
Năm 1991:1 khu (KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh). Năm
1992: 2 khu (trong đó có KCX Linh Trung, liên doanh giữa KCX của Sài Gòn và
công ty của Trung Quốc). Năm 1993:1 khu. Năm 1994: 4 khu. Năm 1995: 5 khu.
Năm 1996: 16 khu. Năm 1997: 20 khu. Năm 1998: 15 khu(KCX Hải Phòng ra đời
cùng 14 KCN khác). Năm 1999: 2 khu. Năm 2000: 1 khu. Năm 2001: 1 khu. Năm
2002: 5 khu .[8]
2.2. Loại hình KCN, KCX
Trong tổng số 73 KCN và KCX đang hoạt động hiện nay , chúng ta có 15
khu thuộc loại đợc thành lập trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp
đang hoạt động, 10 khu phục vụ di dời các doanh nghiệp từ nội đô các đô thị lớn,
21 khu tiếp theo có quy mô nhỏ nằm ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải
miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long nhằm phục vụ cho chế biến nông, lâm,
thuỷ sản, còn lại 37 khu mới hiện đại, trong đó có 13 KCN hợp tác với nớc ngoài
để phát triển hạ tầng.
Diện tích chiếm đất bình quân chung cho một KCN và một KCX là 154
ha, có một phần ba trong số 73 khu (70 KCN, 3 KCX) có diện tích dới 100 ha.
2.3. Ngành nghề và đối tợng thu hút đầu t trong các KCN, KCX
Có thể thấy rằng ở Việt Nam , các KCN đa dạng về loại hình cũng nh
ngành nghề, đối tợng thu hút đầu t, thời gian thành lập, không gian thành lập, kết
quả thành lập.
Các KCN tại vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc mà chủ yếu tại Hà Nội,
Hải Phòng, Quãng Ninh đợc phát triển đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng
trong hàng rào đạt tiêu chuẩn quốc tế, gần sân bay quốc tế, cảng nớc sâu, tạo lợi
thế cho thu hút đầu t nứơc ngoài, phát triển công nghiệp sạch, công nghiệp kỹ
thuật cao, các ngành công nghiệp nặng gắn với cảng nớc sâu. Khu công nghệ cao

Hoà Lạc, cách thủ đô Hà Nội 30 km, nơi tập chung các nhà khoa học và các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo hàng đầu của Việt Nam, đang trở thành nơi hấp dẫn thu hút
các công nghệ cao, các nhà nghiên cứu khoa học, thực hiện việc nghiên cứu - triển
khai khoa học - công nghệ .
Khu vực miền Trung từ Thanh Hoá đến Khánh Hoà thuận lợi cho việc phát
triển các dự án đầu t trong lĩnh vực hoá dầu, công nghiệp nặng và các lĩnh vực
công nghiệp khác liên quan đến việc khai thác lợi thế của một mạt bằng công
nghiệp rộng lớn, có cảng nớc sâu, sân bay, cung cấp điện nớc. Việc hợp tác với n-
ớc ngoài ở khu vực này sẽ đa dạng hơn nhằm khai thác lợi thế nằm trên hành lang
Đông Tây, từ Mianma, Nam Trung Quốc qua Lào sang Việt Nam.
Những chùm KCN tại các tỉnh phía Nam xung quanh khu vực thành phố
Hồ Chí Minh nh Đồng Nai, Bình Dơng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An mở rộng
đến Vĩnh Long, Cần Thơ đang làm cho khu vực này trở thành một trung tâm công
nghiệp lớn nhất của cả nớc. Với lợi thế về hạ tầng kỹ thuật tơng đối phát triển hơn
so với các khu vực khác của đất nớc, nằm gần nguồn dầu khí, độ ẩm không cao và
ổn định nên các KCN tại khu vực này hấp dẫn các nhà đầu t nớc ngoài, thuận lợi
cho phát triển các ngành công nghiệp sử dụng khí nh phát điện, khí hoá lỏng, sản
xuất phân đạm, thép, các ngành công nghiệp dịch vụ dầu khí, hậu cầu cảng, các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp điện tử phục vụ xuất khẩu.
Các ngành công nghiệp chủ yếu thu hút đầu t trong nớc, phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển công nghiệp vệ tinh cho nhiều KCN quy mô
lớn, tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp.
2.4. Thực trạng xây dựng hạ tầng tại các KCN, KCX .
a. Tình hình hoạt động của các Công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX.
Cùng với sự ra đời và phát triển của các KCN, các công ty phát triển hạ
tầng KCN - một loại hình kinh tế mới cũng hình thành với mục đích thực hiện
việc xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN có chất lợng cao, theo tiêu chuẩn
qui định quốc tế nhằm phục vụ các xí nghiệp trong KCN trong suốt quá trình hoạt
động của nó.
Theo Nghị định 36/CP ban hành ngày 24/4/1997 về qui chế KCN, KCX

thì Công ty phát triển hạ tầng KCN là một doanh nghiệp Việt Nam thuộc các
thành phần kinh tế trong nớc hoặc các nhà ĐTNN dới hình thức liên doanh với
doanh nghiệp Việt Nam đầu t xây dựng các công trình hạ tầng KCN, đợc thành
lập và hoạt động theo qui định của pháp luật. Quyền hạn chủ yếu của Công ty
phát triển hạ tầng KCN là cho các nhà đầu t thuê lại diện tích đất do nhà nớc giao
quyền quản lý, sử dụng để đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh; đợc bán nhà
xởng do mình xây dựng; đợc kinh doanh các dịch vụ trong KCN phù hợp với qui
định của nhà nớc. Đồng thời, công ty phát triển hạ tầng KCN cũng có nghĩa vụ
xây dựng, duy trì, bảo dỡng, vệ sinh môi trờng trong suốt quá trình tồn tại của
KCN.
Số lợng các công ty phát triển hạ tầng KCN đợc thành lập tăng dần qua các
năm đặc biệt là trong 3 năm 1996 (13 công ty), năm 1997 (21 công ty) và năm
1998 (18 công ty). Tính đến hết tháng 10 năm 2002, cả nớc đã có 73 công ty phát
triển hạ tầng KCN đợc thành lập để xây dựng và kinh doanh các công trình kết
cấu hạ tầng của 73 KCN và KCX trong cả nớc .[8]
Hiện nay ở nớc ta đang tồn tại ba hình thức đầu t kinh doanh cơ sở hạ tầng
KCN: đầu t của các doanh nghiệp trong nớc, các doanh nghiệp trong nớc liên
doanh với nhà ĐTNN, và các doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
Công ty phát triển hạ tầng là doanh nghiệp Việt Nam.
Lợi thế lớn nhất của các công ty này là hiểu biết rất rõ về môi trờng kinh
doanh ở Việt Nam cũng nh những thủ tục đầu t đầy rắc rối, khó khăn. Tuy nhiên
hạn chế chung của các công ty này là ở chỗ họ gặp khó khăn về vốn đầu t. Chính
hạn chế này cùng với kinh nghiệm kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN tích luỹ đợc cha
nhiều nên phần lớn các công ty phát triển hạ tầng KCN là doanh nghiệp Việt Nam
hoạt động không có hiệu quả (khoảng 50%). Họ tiến hành kinh doanh hạ tầng
KCN một cách thụ động: xây dựng khá đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng
sau đó mới thu hút đầu t. Điều này đòi hỏi phải có nguồn tài chính rất lớn, không
phù hợp với khả năng tài chính của Việt Nam. Ngoài ra do thiếu kế hoạch lấp đầy
các KCN nên đã gây ra hiện tợng ứ đọng vốn gây lãng phí và làm giảm hiệu quả
kinh doanh. Tuy nhiên, cũng có một số doanh nghiệp trong nớc thuộc lĩnh vực này

đang hoạt động có hiệu quả (khoảng 18%) do họ biết sử dụng có hiệu quả nguốn
vốn đầu t theo kiểu cuốn chiếu tức là vừa đầu t xây dựng vừa cho thuê lấy lợi
nhuận để tái đầu t. Tiêu biểu cho một số doanh nghiệp thành công này là Công ty
phát triển hạ tầng KCN Biên Hoà, KCN Sóng Thần,...
Doanh nghiệp liên doanh.
Các công ty phát triển hạ tầng KCN là doanh nghiệp liên doanh hiện nay có
13 công ty. Phần lớn ở các doanh nghiệp này, phía Việt Nam góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất, phía nớc ngoài góp vốn xây dựng. Do lợng vốn đầu t khá lớn
nên phần lớn các công trình kết cấu hạ tầng KCN do các công ty này đảm nhiệm
thờng tốt hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nớc đầu t xây dựng.
Các doanh nghiệp 100 % vốn ĐTNN.
Cho đến 2001 mới chỉ có 1 KCN có cơ sở hạ tầng đầu t xây dựng bằng
100% vốn nớc ngoài, đó là KCN Đài T (Hà Nội) do chủ đầu t Đài Loan đảm
nhiệm. Ưu điểm của mô hình này là nguồn vốn đầu t lớn nhng tốc độ triển khai dự
án lại phụ thuộc hoàn toàn vào phía nớc ngoài. Hơn nữa, nhà ĐTNN lại không hiểu
rõ về môi trờng kinh doanh cũng nh thủ tục đầu t ở Việt Nam nên tốc độ triển khai
còn hạn chế. KCN Đài T là một ví dụ, đợc cấp phép năm 1995 nhng mãi 3 năm sau
mới xong giải phóng mặt bằng.
b . Đầu t xây dựng kết cấu hạ tầng.
Diện tích đất đầu t.
Diện tích đất của các KCN Việt Nam tăng rất nhanh trong những năm gần
đây. Cho đến tháng 8 năm 2002, tổng diện tích đất của các KCN Việt Nam là
964000 m
2
đó diện tích đất công nghiệp dùng để cho thuê là 337,4m
2
.Tính trung
bình diện tích một KCN khoảng 13388,9 m
2
.[8]

So với các nớc khác trong khu vực cũng nh trên thế giới, nhìn chung qui mô
KCN của Việt Nam thuộc loại trung bình và nhỏ. Bên cạnh một số ít các KCN có
diện tích khá lớn nh KCN Phú Mỹ I (954,4 ha), KCN Nhơn Trạch I (488 ha) còn
rất nhiều KCN có qui mô rất nhỏ nh KCN Đài T (40 ha), KCN Hiệp Hoà (30 ha),
KCN Bình Chiểu (28 ha).[8]
Xét trên qui mô diện tích chiếm đất của các KCN ta có thể phân loại các
KCN nh sau: [7]
Qui mô nhỏ (dới 100 ha): 27 khu
Qui mô trung bình (100- 250 ha): 32 khu
Qui mô khá lớn (trên 250 ha) :13 khu
Vốn đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng KCN
Tính đến hết tháng 8 năm 2002, tổng vốn đăng ký đầu t xây dựng cơ sở hạ
tầng đạt 1.658 triệu USD và 10.589 tỷ VND trong đó các doanh nghiệp Việt Nam
đầu t 296,6 triệu USD và 10589 tỷ VND, các doanh nghiệp liên doanh đầu t
1.315,4 triệu USD , các doanh nghiệp 100 % vốn ĐTNN đầu t 46 triệu USD. Tính
trung bình vốn đầu t cơ sở hạ tầng cho một KCN diện tích 13388,9m
2
là 28,8 triệu
USD (bình quân khoảng 183.000 USD/ha). KCN có qui mô vốn đăng ký xây dựng
cơ sở hạ tầng lớn nhất hiện nay là KCN Nomura - Hải Phòng (163,5 triệu USD) và
nhỏ nhất là KCN Quảng Phú - Quảng Ngãi (43,8 tỷ VND).[8]
Cho đến nay, vốn đầu t thực hiện của các doanh nghiệp KCN, KCX có vốn
doanh nghiệp nớc ngoài đạt 4.195 triệu USD - bằng 31.1% vốn đầu t đăng ký. So
với mức thực hiện các dự án ĐTNN nói chung thì tỷ lệ này của các dự án KCN,
KCX thuộc loại cao, thời gian xây dựng bình quân một dự án tơng đối ngắn

×