Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.71 KB, 30 trang )

Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp
I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
1. Khái niệm về cạnh tranh
Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trờng nên chịu sự chi phối
hoạt động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật
cạnh tranh. Trong nền kinh tế này mọi ngời đều đợc tự do kinh doanh, đây chính
là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trờng rất đa dạng và phức tạp
giữa các chủ thể có lợi ích đối lập nhau nh cạnh tranh giữa những ngời mua, giữa
những ngời bán, giữa những ngời bán với ngời mua, giữa các nhà sản xuất, giữa
các doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp nớc ngoài,... Cạnh tranh phát triển
cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa.
Vậy cạnh tranh là gì?
Xét dới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể đợc hiểu là quá trình đ-
ơng đầu của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá trình hội nhập kinh
tế.
Xét dới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trớc đến nay, cạnh tranh đợc
chia thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành.
- Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong mọi lĩnh vực khác nhau nhằm thu đợc lợi nhuận lớn và có tỷ suất lợi nhuận
cao hơn so với vốn đã bỏ ra, cùng đó là việc đầu t vốn vào ngành có lợi nhất cho
sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn
tìm kiếm những ngành đầu t có lợi nhất nên đã chuyển vốn đầu t từ ngành có lợi
nhuận cao hơn. Điều này, vô hình chung đã hình thành nên sự phân phối vốn hợp
lý giữa các ngành khác nhau và giúp các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau có
số vốn bằng nhau thì thu đợc lợi nhuận ngang nhau.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hàng hoá - dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong
nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trờng trên cơ sở giá trị xã hội
của loại hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp đấu


tranh với nhau để giành chiến thắng. Những doanh nghiệp giành chiến thắng sẽ
mở rộng quy mô hoạt động của mình trên thị trờng, còn những doanh nghiệp nào
thua cuộc sẽ phải thu hẹp phạm vi kinh doanh, thậm chí các doanh nghiệp này còn
có thể dẫn đến giải thể, phá sản.
Đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đa ra
khái niệm cạnh tranh nh sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà t bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch".
Nh vậy, khi nghiên cứu cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
Mark đã coi cạnh tranh là cuộc giành giật các lợi thế để thu đợc lợi nhuận siêu
ngạch.
Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách "Từ điển kinh doanh"
(Xuất bản năm 1992, Anh) lại đa ra khái niệm cạnh tranh nh sau: "cạnh tranh là
sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên
sản xuất cùng một loại về phía mình" để đề cập đến sự cạnh tranh ở thị trờng các
yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp.
Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các
quốc gia trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau
trong từng giai đoạn cạnh tranh nhất định.
Nếu xét cạnh tranh dới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh tranh là
sự ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trờng. Đối với khách hàng,
bao giờ họ cũng muốn mua đợc hàng hoá có chất lợng cao mà giá lại rẻ, còn các
doanh nghiệp lại muốn đợc tối đa hoá lợi nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi
nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí, giành giật khách hàng về
phía mình. Từ đó, cạnh tranh đã xảy ra.
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trờng, nó là động lực thúc đẩy
sản xuất, lu thông hàng hoá phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải nhận
thức đúng đắn về cạnh tranh để từ đó luôn phát huy nội lực, nâng cao chất lợng
phục vụ khách hàng. Mặt khác, tránh cạnh tranh bất hợp pháp dẫn đến làm tổn hại
lợi ích của cộng đồng cũng nh làm suy yếu chính mình.

Trong nền kinh tế thị trờng, mong muốn tồn tại và phát triển trong cạnh
tranh luôn là mục đích tự thân của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó,
khách hàng là ngời tự do lựa chọn nhà cung ứng, là nhân tố quyết định sự tồn tại
của các doanh nghiệp. Họ không phải tự tìm kiếm đến các doanh nghiệp nh trớc
đây mà buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng cho mình và khai thác
nhu cầu nơi họ. Nghĩa là, muốn khách hàng tiêu thụ sản phẩm thì các doanh
nghiệp nên đa sản phẩm của mình tới khách hàng để họ biết, cảm nhận đợc và có
quyết định dùng hay không dùng. Với cơ chế thị trờng, có đợc một khách hàng là
rất khó khăn, các doanh nghiệp phải giữ từng khách hàng, giành giật từng khách
hàng, doanh nghiệp nào cũng muốn đa sản phẩm của mình tới tay khách hàng.
Nếu doanh nghiệp nào nhanh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng trong cạnh
tranh. Quy luật chọn lọc nghiệt ngã này đã chia doanh nghiệp thành hai nhóm
chính, đó là nhóm doanh nghiệp năng động và nhóm doanh nghiệp trì trệ. Chính
điều đó đã khiến các doanh nghiệp yếu phải nhanh chóng thích nghi, nếu không
sẽ không có cơ hội phát triển và dẫn tới tình trạnh bị phá sản. Vì vậy, trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trờng thì cạnh tranh là con đờng cơ bản để các doanh nghiệp thích nghi và tồn tại
đợc.
Có thể nói, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng là
một tất yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả các doanh nghiệp đó.
Trong phạm vi giới hạn luận văn của mình, em chủ yếu tập trung nghiên cứu và
phân tích loại hình cạnh tranh này.
2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị tr ờng
2.1. Thị trờng cạnh tranh
Hình thái cạnh tranh này đợc xem xét dới góc độ hành vi của thị trờng, gắn
liền với phơng thức hình thành và vận động giá trên thị trờng. Có các hình thái
cạnh tranh nh sau:
2.1.1. Hình thái thị trờng cạnh tranh hoàn hảo
- Khái niệm: thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng mà ở đó có rất
nhiều ngời bán mà không có ngời nào có u thế cung ứng một số lợng sản phẩm

lớn ảnh hởng đến giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hoá trên thị trờng đợc coi là giống
nhau, ít có sự khác biệt về mẫu mã, hình thức, chất lợng. Tất cả ngời mua và ngời
bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, vì vậy,
việc tham gia và rút khỏi thị trờng của họ rất dễ dàng. Họ không có khả năng
nâng giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trờng
này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp nhất.
- Tác dụng của thị trờng cạnh tranh hoàn hảo:
+ Thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm cho
phù hợp với thị hiếu của ngời tiêu dùng.
+ Làm cho ngời tiêu dùng dễ dàng lực chọn những sản phẩm vừa ý với mức
giá thấp nhất.
+ Nhìn chung, xã hội thu đợc lợi ích do tài nguyên đợc phân phối theo hớng
có lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng phù hợp
với yêu cầu xã hội.
Đây là hình thái cạnh tranh hầu nh không tồn tại hoặc rất khó thấy trong
điều kiện nền kinh tế nớc ta hiện nay do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan gây ra. Tuy nhiên, tiến tới một thị trờng cạnh tranh hoàn hảo vẫn là mục tiêu
hớng tới của mỗi quốc gia trong xu thế hội nhập thơng mại quốc tế.
2.1.2. Hình thái thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo.
Đây là một thị trờng mà phần lớn sức mạnh thị trờng thuộc về một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trờng kinh
doanh các sản phẩm hàng hoá - dịch vụ cùng chủng loại nhng khác nhau về nhãn
hiệu. Chính những nhãn hiệu này lại mang những hình ảnh, uy tín khác nhau do
ngời tiêu dùng nghĩ ra, có thể đúng hoặc không đúng. Do đó, một số ngời tiêu
dùng (chứ không phải là tất cả) sẽ trả giá cao hơn cho sản phẩm mà mình thích.
Có thể nói, thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo là một thị trờng phổ biến trong
điều kiện nền kinh tế hiện nay. Có hai hình thái thị trờng cạnh tranh không hoàn
hảo sau:
* Độc quyền tập đoàn:
Trong thị trờng này chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu

hết tổng sản lợng. Trong số đó, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu đợc
lợi nhuận đáng kể trong dài hạn, vì có các rào cản gia nhập làm cho các doanh
nghiệp mới không thể gia nhập vào thị trờng đợc. Tuy nhiên, một điều cần chú ý ở
đây là các doanh nghiệp trong thị trờng bị phụ thuộc lẫn nhau trong việc định giá
cũng nh sản lợng bán ra. Bởi lẽ, khi một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền
giảm giá hàng bán thì lợi thế đối với họ sẽ không đợc lâu, các doanh nghiệp khác
cũng sẽ nhanh chóng giảm giá, nh vậy, lợi ích của họ sẽ nhanh chóng giảm sút.
Ngợc lại, khi doanh nghiệp tăng giá cha chắc các doanh nghiệp khác sẽ tăng giá
theo, nh vậy, doanh nghiệp sẽ làm mất khách hàng.
* Cạnh tranh độc quyền:
Đặc điểm nổi bật của thị trờng độc quyền là số lợng các doanh nghiệp tham
gia thị trờng tơng đối lớn, mỗi doanh nghiệp sẽ có ảnh hởng lớn đến các quyết
định sản xuất kinh doanh của riêng doanh nghiệp mình. Trong thị trờng cạnh
tranh độc quyền, sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng nhất. Ngời tiêu
dùng phân biệt đợc các sản phẩm của các doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, bao
bì và các dịch vụ kèm theo. Trên thị trờng này, doanh nghiệp có quyền quyết định
giá hàng hoá nhng vẫn không phải hoàn toàn theo ý mình, các điều kiện về mua
bán hàng hoá cũng khác nhau, các doanh nghiệp có thể có hình ảnh, uy tín khác
nhau trong tâm trí mỗi khách hàng.
2.1.3. Hình thái thị trờng độc quyền
Đây là hình thái thị trờng mà ở đó chỉ có một ngời bán nhng nhiều ngời
mua (gọi là độc quyền bán) hoặc là chỉ có một ngời mua (gọi là độc quyền mua).
Điều kiện gia nhập cũng nh rút lui khỏi thị trờng này vô cùng khó khăn do vốn
đầu t sản xuất kinh doanh thờng rất lớn hoặc do sự độc quyền về kỹ thuật công
nghệ. Chính vì vậy, đặc điểm nổi bật của thị trờng này không có sự cạnh tranh về
giá cả mà giá cả phụ thuộc vào quyền kiểm soát của ngời mua độc quyền hoặc ng-
ời bán độc quyền.
Trên thị trờng độc quyền, đờng cầu của toàn bộ xã hội về một loại hàng hoá
dịch vụ cũng nh lợng hàng hoá mua vào, bán ra trên thị trờng bằng các chiến lợc
kinh doanh của mình.

Với hình thái này, chỉ có ngời tiêu dùng cuối cùng là gặp nhiều bất lợi nhất,
doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá hoặc bán hàng hoá
với giá cao. Để bảo vệ lợi ích của ngời tiêu dùng hiện nay, đã có nhiều quốc gia đề
ra luật chống độc quyền. Tuy nhiên, độc quyền cũng có mặt tích cực, nó đem lại
lợi ích cho xã hội nhờ quá trình đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học- kỹ
thuật. Doanh nghiệp độc quyền thờng có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở
rộng đợc quy mô sản xuất nên giảm đợc chi phí sản xuất tính trên một đơn vị sản
phẩm.
2.2. Cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cùng một thị trờng, các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh với
nhau trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm.
2.2.1. Cạnh tranh trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào
Thực chất, đây là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn
cung ứng tốt nhất, đầy đủ, thờng xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ
nhất. Trong cơ chế thị trờng, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cùng có
nhu cầu về một số yếu tố đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại cùng một lúc.
Mỗi nhà cung ứng có một mức giá cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các
doanh nghiệp sẽ chọn cho mình một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng nh có
dịch vụ cung ứng tốt. Tuy nhiên, để tránh tình trạnh có nhà cung ứng độc quyền
các doanh nghiệp nên chọn cho mình một số nhà cung ứng trong đó có một nhà
cung ứng chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung ứng có giá
cao sẽ bị loại bỏ. Ngợc lại, các nhà cung ứng lại muốn lựa chọn khách mua các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với mức giá cao.
2.2.2. Cạnh tranh trong quá trình sản xuất
Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa các
doanh nghiệp trong việc tìm các câu trả lời tối u nhất cho các câu hỏi sau: sản
xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất nh thế nào ? Bởi vì trả lời tốt đợc các câu
hỏi này thì các doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển đợc.
Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản xuất mặt

hàng nào thì sẽ thu đợc lợi nhuận tối u nhất. Trớc hết, các doanh nghiệp cần tìm
hiểu thị trờng, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ đó tập trung sản xuất những
mặt hàng phù hợp. Doanh nghiệp nào tìm ra đợc nhu cầu đầu tiên và nhanh chóng
đáp ứng nhu cầu đó thì sẽ giành chiến thắng. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về
cạnh tranh không dừng ở mức độ này mà cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp
cùng nhau kích thích tạo ra nhu cầu mới trên thị trờng để từ đó khai thác các nhu
cầu này.
Sản xuất cho ai? Đây chính là câu hỏi khiến các doanh nghiệp phải đi tìm
cho mình các khách hàng mục tiêu, để từ đó có các chiến lợc định vị sản phẩm.
Điều này cũng là một trong các nhân tố ảnh hởng đến sự cạnh tranh của các
doanh nghiệp.
Sản xuất nh thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp các doanh nghiệp
tìm ra phơng thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để từ đó hạ giá thành và
nâng cao lợi thế cạnh tranh. Do đó, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã
không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có giá
trị cao và giá thành hạ.
Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong sản xuất
nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trờng, đẩy nhanh doanh số bán
hàng cũng nh việc áp dụng các phơng thức sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí để
mong muốn có đợc lợi nhuận cao của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thực
sự làm đợc điều này thì doanh nghiệp đó sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh.
2.2.3. Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.
Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định tính sống
còn của mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này là sự giành giật thị
trờng và khách hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp sẽ có điều kiện
đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận.
Để làm đợc điều này, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách nhằm thu hút khách
hàng về phía mình, tìm đợc chỗ đứng ổn định và lâu dài trên thị trờng bằng việc
thực hiện các chiến lợc và các giải pháp khác nhau. Trong cuộc cạnh tranh này,
doanh nghiệp nào tìm đợc cho mình một lợng khách hàng lớn, hàng hoá dịch vụ

tiêu thụ nhiều sẽ là doanh nghiệp chiến thắng và ngợc lại.
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị tr ờng.
Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trờng. Nguồn gốc
của cạnh tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô hoạt động, thành
phần tham gia cũng nh các sản phẩm tạo thành. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cơ chế thị trờng có thể ví nh cuộc chạy đua không có đích, bất kỳ doanh
nghiệp nào mà xác định cho mình một cái đích trong cuộc chạy đua này thì sẽ tạo
thành nhịp cầu cho doanh nghiệp khác chạy qua. Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc
chạy đua trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp và cuộc cạnh tranh giữa doanh nghiệp với ngời tiêu dùng. Chính vì lý do
này mà cạnh tranh giúp cho giá cả của hàng hoá dịch vụ có xu hớng giảm xuống,
trong khi đó, chất lợng hàng hoá, dịch vụ ngày càng đợc nâng cao phù hợp với
mong muốn của ngời tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng, nhờ có cạnh tranh mà
các doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vơn lên trong mọi lĩnh
vực, từ việc giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu chung. Chính điều
này đã là động lực giúp các doanh nghiệp vơn lên trong quá trình tồn tại. Hơn
nữa, cạnh tranh còn là công cụ giúp các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh
doanh và cũng nhờ có cạnh tranh sẽ tạo ra cho doanh nghiệp những thách thức và
cơ hội trong kinh doanh, để từ đó, giúp các doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và
tránh đợc các rủi ro.
Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trờng xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ mô, có sự dịch
chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện thực
tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao, không đáp ứng đợc nhu cầu xã
hội. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tiếp tục phát triển
đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, cạnh tranh sẽ tạo nên sự ràng buộc
giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh tổng thể cho sự phát triển qua việc phối hợp hài
hoà các chức năng, nhiệm vụ giữa các doanh nghiệp khác nhau trong các ngành kinh tế. Với
sự phối hợp này sẽ giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra

thông suốt, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ dễ dàng hơn, các doanh nghiệp sẽ giảm
bớt lo lắng là không có thị trờng tiêu thụ những sản phẩm đó.
Tóm lại: Khi có nền kinh tế thị trờng thì tất yếu sẽ tồn tại quy luật cạnh
tranh, đó là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, đứng trên từng giác độ khác nhau thì cạnh tranh luôn là hai mặt của một
vấn đề. Một mặt cạnh tranh là động lực phát triển đối với mỗi doanh nghiệp. Mặt
khác, cạnh tranh lại mang những đe doạ, nguy cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ
những thành phần tham gia nền kinh tế thị trờng nếu nh không kịp thời thích ứng
với nó.
Hơn nữa, cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế
những doanh nghiệp khác làm ăn có hiệu quả hơn, đáp ứng đợc nhu cầu xã hội,
thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển.
Nhận thức đợc vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trong
thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trờng, phải không ngừng tích luỹ những kiến thức,
sẵn sàng có những ứng xử cần thiết và thích hợp trớc những hoàn cảnh do cạnh
tranh mang lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế và đất nớc.
II. Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng
lực cạnh tranh
1.1.1.Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
- Về sức cạnh tranh
Sức cạnh tranh là khái niệm đợc dùng cho phạm vi doanh nghiệp trong lý
thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đợc coi là có sức cạnh tranh
(hay năng lực cạnh tranh) và đợc đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản
xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tơng tự đợc đa ra với
mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tơng tự với
các đặc tính về chất lợng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác
định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến
tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá

ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh
nghiệp, ngành và quốc gia nh sau: .Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh
nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.. Định nghĩa này theo em là phù hợp và phản
ánh đợc khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động
cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống nhân
dân.
- Về năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive Power;
Nga: Cancurentia; Pháp: Capacité de Concurrence), khả năng giành đợc thị phần
lớn trớc các đối thủ cạnh tranh trên thị trờng, kể cả khả năng giành lại một phần
hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB
Từ điển Bách khoa Hà nội, trang 349). Theo định nghĩa này, có thể thống nhất
bốn thuật ngữ hiện đang đợc sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh,
khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội dung tơng tự nhau và
hiểu tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực cạnh
tranh".
1.1.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể đợc phân biệt thành bốn cấp độ:
Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tơng quan mật
thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cần
thiết phải đặt nó trong mối tơng quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh
tranh nêu trên. Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một

nớc tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của
sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể
hiện qua môi trờng kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nớc (đặc biệt trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc
tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của sản phẩm hàng hoá trong
quốc gia đó. Vì vậy, trớc khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
em xin đợc sơ lợc về năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia và của sản phẩm. Còn
năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hởng của năng lực
cạnh tranh quốc gia và của sản phẩm tơng tự nh năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nên không đề cập đến.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) năm 1997 đã nêu ra: "năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực
của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt đợc và duy trì mức tăng trởng cao trên cơ sở
các chính sách, thể chế bền vững tơng đối và các đặc trng kinh tế khác". Nh vậy,
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể đợc hiểu là việc xây dựng một môi trờng
cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và
duy trì mức tăng trởng cao, bền vững. Môi trờng cạnh tranh kinh tế chung có ý
nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu t, tự điều chỉnh, lựa chọn của các
nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trờng đợc thông tin đầy đủ.
Mặt khác, môi trờng cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch
định chính sách phát triển, cải thiện đầu t, tăng cờng hợp tác quốc tế và hội nhập
ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế ... có 8
yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm:
Độ mở cửa kinh tế
Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà nớc vào
hoạt động cạnh tranh

Tài chính ngân hàng
Công nghệ: là mức độ đầu t cho nghiên cứu triển khai (R&D); trình
độ công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống quản lý, chất lợng quản lý nói chung
Lao động: là số lợng và chất lợng lao động, hiệu lực và tính linh
hoạt của thị trờng lao động
Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho
nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của
luật pháp và quyền sở hữu.

×