Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẠNH TRANH TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.03 KB, 24 trang )

Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và các nhân tố ảnh h-
ởng đến cạnh tranh trong thơng mại quốc tế
1.1 . Các hình thức và chiến lợc cạnh tranh trong hoạt động thơng
mại quốc tế
Các doanh nghiệp hiện nay không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình trong phạm vi một quốc gia, mà họ luôn tìm cách hớng ra thị trờng
ngoài nớc vì những lợi ích do thơng mại quốc tế mang lại. Có nhiều mục đích và
động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động thơng mại
quốc tế, có thể là để mở rộng khả năng cung ứng hay tiêu thụ hàng hoá, để tìm
kiếm các nguồn lực ở nớc ngoài, để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh... Tuy nhiên,
tất cả đều nhằm một mục đích là tối đa hoá lợi nhuận hoặc ổn định lợi nhuận. Vì
vậy, sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản
vào nguồn lực ở nớc ngoài, vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và quan
trọng là khả năng cạnh tranh với các đối tác quốc tế.
Hoạt động thơng mại quốc tế hiện nay bao gồm thơng mại hàng hoá hữu hình
và thơng mại hàng hoá vô hình, hoạt động gia công thuê cho nớc ngoài và thuê nớc
ngoài gia công, hoạt động tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ. Tuỳ
theo đặc điểm, tính chất từng loại hình thơng mại quốc tế mà các doanh nghiệp đa
ra những cách thức nghiên cứu, phân tích và đánh giá chính xác mọi thông tin phục
vụ cho việc xây dựng một chiến lợc cạnh tranh thích hợp, trớc hết là việc xác định
chính xác hình thức và chiến lợc cạnh tranh tối u cho doanh nghiệp của mình.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh trong thơng mại quốc tế
Trớc hết, cần phải phân biệt điểm khác biệt cơ bản giữa cạnh tranh của các
doanh nghiệp và cạnh tranh giữa các quốc gia, đó là cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhằm mở rộng thị trờng và quy mô sản xuất, nâng cao lợi nhuận, nâng cao
giá trị gia tăng của sản phẩm ; trong khi, cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm thúc
đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, đảm bảo đời sống và phúc lợi xã
hội. Các nhà kinh tế học đã đa ra định nghĩa cạnh tranh theo những phơng diện
khác nhau, có thể theo ý nghĩa kinh tế học, chính trị học hay triết học. Do bài viết
đề cập đến vấn đề cạnh tranh của một doanh nghiệp, nên cách hiểu chung nhất về
cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh


trong nền kinh tế thị trờng nhằm giành cho mình lợng cầu tối u trên một lợng cung
nhất định để có thể tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy
marathon kinh tế nhng không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy đích ngời đó
trở thành nhịp cầu cho các đối thủ khác vơn lên phía trớc.
Sau chiến tranh lạnh, cạnh tranh thơng mại quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt.
Các nớc đều u tiên cho phát triển và cải thiện vị trí của mình trong trật tự kinh tế
quốc tế, mà điều này chỉ có đợc bằng sự thắng lợi trong cạnh tranh thơng mại quốc
tế trên thị trờng thế giới thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
1.1.1.1. Các hình thái cạnh tranh trên thị trờng
Để có chiến lợc cạnh tranh đúng đắn trên thị trờng quốc tế thì mỗi doanh
nghiệp, mỗi quốc gia phải xác định đợc hình thái cạnh tranh của thị trờng, tức là
các dạng của thị trờng mà mình đang tham gia, để từ đó có đối sách kinh doanh
thích hợp. Điều này thực sự mang tính quyết định đối với sự thành công của doanh
nghiệp vì kinh doanh trong môi trờng quốc tế chịu ảnh hởng của rất nhiều yếu tố
khách quan.
Nền kinh tế thị trờng có 3 hình thái cạnh tranh sau.
Cạnh tranh hoàn hảo (cạnh tranh thuần tuý)
Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng có rất nhiều ngời bán hàng và không
có ngời nào có u thế để cung ứng một số lợng sản phẩm quan trọng khả dĩ ảnh h-
ởng đến giá cả. Về phía ngời mua cũng không có ngời nào mua một số lợng sản
phẩm quan trọng đến nỗi ảnh hởng đến giá cả. Các sản phẩm bán ra đều đợc ngời
mua xem là đồng nhất (ít khác nhau về quy cách phẩm chất, mẫu mã hay các ph-
ơng thức, dịch vụ mua bán). Các tin tức về thị trờng luôn có thể ứng dụng cho mọi
ngời mua và ngời bán, điều kiện tham gia hay rút lui khỏi thị trờng là dễ dàng.
Trong thị trờng cạnh tranh hoàn hảo, đờng cầu của thị trờng là một đờng nằm
ngang (cầu co giãn hoàn toàn). Ngời bán và ngời mua là ngời chấp nhận giá. Nếu
ngời bán định giá sản phẩm cao hơn hay thấp hơn giá của thị trờng sẽ không có ng-
ời mua. Vì vậy, ngời kinh doanh trên thị trờng này chủ yếu tìm biện pháp giảm thấp
chi phí sản xuất một số lợng sản phẩm đến giới hạn mà chi phí biên bằng doanh thu

biên, họ không thể áp dụng chiến lợc cạnh tranh bằng giá cả ở thị trờng này. Nói
chung, thị trờng cạnh tranh hoàn hảo khó tìm thấy trong điều kiện hiện nay.
Cạnh tranh không hoàn hảo
Thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh bình thờng vì nó
thực tế và phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trờng mà phần lớn các sản
phẩm là không đồng nhất. Cùng sản phẩm có thể chia làm nhiều thứ loại, nhiều
chất lợng... Sản phẩm tơng tự có thể đợc bán ra với các nhãn hiệu khác nhau, mỗi
nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau, mặc dù sự khác biệt giữa các
sản phẩm không đáng kể (sự khác biệt mang ý nghĩa quan niệm, tâm lý là chính);
các điều kiện mua bán hàng cũng là khác nhau. Ngời bán có thể có uy tín độc đáo
riêng biệt đối với ngời mua do nhiều lý do khác nhau : khách hàng quen, gây đợc
lòng tin... hay các cách thức quảng cáo cũng có thể ảnh hởng đến ngời mua, làm
ngời mua thích một nhà cung ứng này hơn một nhà cung ứng khác.
Đờng cầu của thị trờng là đờng không co giãn. Việc mua và bán sản phẩm đợc
thực hiện trong bầu không khí có tính chất giao thơng rất lớn - điều này khác hẳn
thị trờng cạnh trạnh hoàn hảo. Ngời bán có thể thu hút khách hàng bởi nhiều cách :
quảng cáo, chiêu mại, phơng thức bán hàng, cung cấp dịch vụ, tín dụng, hoặc có
nhiều điều khoản u đãi... Do đó, trong giá có sự phân biệt, xuất hiện hiện tợng
nhiều giá. Có thể nói giá cả lên xuống thất thờng tuỳ khu vực, tuỳ nguồn cung ứng,
tuỳ ngời mua.

Thị trờng độc quyền
Thị trờng độc quyền là thị trờng mà ở đó có một ngời bán độc nhất có thể kiểm
soát hoàn toàn số lợng sản phẩm hay dịch vụ bán ra trên thị trờng. Tình trạng độc
quyền chỉ có thể xảy ra nếu không có sản phẩm nào khả dĩ thay thế sản phẩm độc
quyền. Điều kiện gia nhập hay rút lui khỏi thị trờng độc quyền có nhiều trở ngại do
vốn đầu t lớn hoặc do độc quyền bí quyết công nghệ. Thị trờng này không có cạnh
tranh về giá, mà ngời bán toàn quyền định giá tuỳ thuộc vào mục đích lợi nhuận tối
đa mang lại cho nhà độc quyền.
Đờng cầu của hãng cạnh tranh độc quyền là ít co giãn, nghiêng dốc xuống dới

về phía phải. Sự xuất hiện độc quyền đã làm mất đi sự khác biệt giữa đờng cầu thị
trờng và đờng cầu của một hãng độc quyền. Nhà độc quyền khống chế giá cả và số
lợng sản phẩm cung cấp gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất và làm hạn chế
nhu cầu tiêu dùng của thị trờng. Mô hình thị trờng này chỉ đợc sử dụng trong một
số ngành then chốt mà nếu có nhiều ngời tham gia dễ gây lũng đoạn thị trờng.
1.1.1.2. Các phơng thức cạnh tranh
Cạnh tranh bằng giá cả
Mặc dù, theo lý thuyết kinh tế, giá cả đợc hình thành bởi sự gặp gỡ của cung và
cầu, nhng doanh nghiệp hoàn toàn có thể định giá cho sản phẩm của mình tuỳ theo
mục đích kinh doanh cụ thể, chỉ cần mức giá đó bù đắp đợc chi phí sản xuất và phải
có lãi. Do vậy, doanh nghiệp có thể chọn giá cả làm công cụ cạnh tranh của mình.
Trong thơng mại nói chung và thơng mại quốc tế nói riêng - để giành phần thắng
trong cuộc chạy đua kinh tế thì các doanh nghiệp thờng đa ra một mức giá thấp hơn
giá của các đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó tiêu thụ nhiều
hơn hàng hoá và dịch vụ. Các đối thủ cũng hoàn toàn có thể phản ứng lại bằng cách
hạ giá thấp hơn. Phơng thức cạnh tranh này khi đã trở nên gay gắt thì nó sẽ biến
thành cuộc chiến tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp.
Cạnh tranh bằng chất lợng
Khi thu nhập và đời sống của dân c ngày càng cao thì phơng thức cạnh tranh
bằng giá cả xem ra không có hiệu quả. Chất lợng của sản phẩm và dịch vụ sẽ là
mối quan tâm của khách hàng, nên nếu nh hàng hoá có chất lợng thấp thì dù có bán
giá rẻ cũng không thể tiêu thụ đợc. Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng hàng
hoá và dịch vụ, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lợng
sản phẩm và dịch vụ. Chất lợng đợc thể hiện qua nhiều yếu tố của sản phẩm, nếu
doanh nghiệp không đủ điều kiện phát triển mọi yếu tố chất lợng thì vẫn có thể đi
sâu khai thác thế mạnh một hoặc một vài yếu tố nào đó.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật cũng nh sự bành
trớng của các công ty đa quốc gia, thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lợng càng trở
nên gay gắt khi các sản phẩm đa ra thị trờng đều đảm bảo chất lợng cao. Chính vì
vậy, đối với các quốc gia có trình độ sản xuất còn nhiều hạn chế sẽ rất khó có khả

năng cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
Cạnh tranh bằng dịch vụ
Ngoài phơng thức cạnh tranh bằng giá cả, cạnh tranh bằng chất lợng thì trên
thực tế các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau bằng dịch vụ. Đây là phơng thức
cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trờng quốc tế - đó có thể là dịch vụ trớc khi
bán, dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách, dịch vụ sau khi bán... Các phơng thức
dịch vụ ngày càng đợc sử dụng rộng rãi và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ
đang tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu
quả rất cao vì khi đó khách hàng thấy mình đợc tôn trọng hơn và do đó họ sẽ có
cảm tình với sản phẩm và doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng các phơng thức kết hợp hoặc biến tấu
dựa trên các phơng thức cơ bản. Các phơng thức về marketing (chiêu hàng, tiếp thị,
quảng cáo, nghiên cứu và phân tích thị trờng...) cũng đợc sử dụng nh một công cụ
cạnh tranh, bởi nó ảnh hởng lớn tới hiệu quả của việc tiếp cận và chiếm lĩnh thị tr-
ờng của doanh nghiệp.
1.1.2. Các chiến lợc cạnh tranh quốc tế
Để xác định đợc chiến lợc cạnh tranh thích hợp, trớc hết doanh nghiệp phải tìm
hiểu lợi thế cạnh tranh của mình so với các doanh nghiệp cùng ngành.
1.1.2.1. Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh là u thế đạt đợc của doanh nghiệp (so với các doanh
nghiệp khác cùng ngành) một cách tơng đối, dựa trên các nguồn lực và năng lực
sản xuất của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh thờng đạt đợc
mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Tỷ suất lợi thế đạt đợc của doanh nghiệp
(so với các doanh nghiệp khác cùng ngành) một cánhuận thờng đợc xác định bằng
một tỷ số nào đó, ví dụ nh lợi nhuận trên doanh thu (ROS - return on sales) hoặc lợi
nhuận trên tài sản (ROA - return on assets). Các tỷ suất này càng cao càng thể hiện
đợc lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu xem xét lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp theo tỷ suất ROS , ta có thể biểu diễn nh sau :
Lợi nhuận Doanh thu - Tổng chi phí Tổng chi phí
= = = 1 -

Doanh thu Doanh thu Doanh thu
(CP đ/vị SP * tổng khối lợng SP) Chi phí đ/vị SP
= 1 - = 1 -
Giá đ/vị SP * tổng khối lợng SP Giá đ/vị SP
Do đó, để có (tỷ suất ROS) cao hay để mức tổng lợi nhuận ( = tổng DT - tổng
CP) cao hơn mức trung bình của ngành, doanh nghiệp phải có mức chi phí đơn vị
sản phẩm thấp hơn của đối thủ cạnh tranh (tạo lợi thế cạnh tranh bên trong), hoặc
làm cho sản phẩm của mình khác với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh (khác biệt
hoá sản phẩm nhằm định giá sản phẩm cao hơn đối thủ cạnh tranh - tạo lợi thế cạnh
tranh bên ngoài), hoặc thực hiện đồng thời cả hai cách. Trớc đây, các nhà kinh tế
thờng nhấn mạnh một nhân tố nào đó liên quan đến chi phí hoặc khác biệt hoá sản
phẩm, nhng ngày nay ngời ta thờng chấp nhận lợi thế cạnh tranh là kết quả của đa
nhân tố.
Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh
Bốn yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh bao gồm : Hiệu quả - Chất lợng - Đổi mới
- Nhạy cảm với khách hàng. Đây là các yếu tố chung xây dựng nên lợi thế cạnh
tranh, chúng biểu thị 4 cách cơ bản để giảm chi phí và đa dạng hoá mà bất kỳ một
doanh nghiệp ở một ngành nào sản xuất một sản phẩm hoặc một dịch vụ nào cũng
có thể áp dụng.
Hiệu quả : là đại lợng đợc đo bằng chi phí đầu vào cần thiết để sản xuất một loại
sản phẩm. Tăng hiệu quả có nghĩa là sẽ tạo ra thêm đợc một khối lợng sản phẩm
đầu ra nhiều hơn từ khối lợng đầu vào đã định. Trong hai yếu tố đầu vào cơ bản,
việc tăng hiệu quả sử dụng vốn thờng khó hơn nhiều so với việc tăng năng suất lao
động. Vì thế, nếu không tính đến các yếu tố khác thì doanh nghiệp có năng suất lao
động cao nhất sẽ là doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, do đó sẽ đạt đợc chi phí
thấp nhất.
Chất lợng : Sản phẩm có chất lợng là sản phẩm đáng tin cậy trong việc thực hiện
tốt các chức năng, công tác và công việc theo thiết kế. Sản phẩm có chất lợng cao
có tác dụng kép trong việc tạo lợi thế cạnh tranh. Thứ nhất, cung cấp các sản phẩm
có chất lợng cao thoả mãn nhu cầu và tạo ra tiếng tăm cho nhãn hiệu hàng hoá. Thứ

hai, có ảnh hởng tích cực đến việc tăng năng suất - chất lợng càng cao thì càng tiết
kiệm đợc chi phí và thời gian làm lại sản phẩm hỏng hóc.
Đổi mới : Nếu thành công, đổi mới về sản phẩm hay quá trình công nghệ tạo ra
cho doanh nghiệp những đặc điểm riêng mà các đối thủ cạnh tranh không có. Tính
chất đặc biệt này cho phép doanh nghiệp định giá ở mức cao hơn đối thủ hoặc giảm
chi phí sản xuất xuống thấp hơn. Các đối thủ có thể bắt chớc những đổi mới thành
công. Vì vậy, để duy trì lợi thế so sánh cần phải đổi mới liên tục, đặc biệt trong
hoàn cảnh rào cản bắt chớc thấp.
Nhạy cảm với khách hàng : Doanh nghiệp phải bằng mọi cách xác định và đáp
ứng đợc ý muốn, nhu cầu của khách hàng. Để thoả mãn họ, doanh nghiệp cần phải
cung cấp những mặt hàng đúng với nhu cầu và đúng với thời gian, thời điểm mà
khách hàng trông đợi. Ngoài chất lợng sản phẩm, việc sử dụng các dịch vụ trớc,
trong và sau khi bán hàng cũng tăng cờng khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Cả bốn yếu tố trên cùng góp phần tạo ra chi phí thấp hoặc lợi thế đa dạng hoá
đối với một doanh nghiệp, mang lại cho doanh nghiệp lợi nhuận cao hơn mức trung
bình và giúp cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh.
Cơ sở hình thành và duy trì lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp cũng nh lợi thế so sánh của một quốc gia,
đều đợc hình thành dựa trên nguồn lực và năng lực của mình.
Nguồn lực của doanh nghiệp đợc chia thành nguồn lực hữu hình (con ngời, đất
đai, nhà xởng, thiết bị) và nguồn lực vô hình (nhãn hiệu hàng hoá, danh tiếng, bản
quyền, bí quyết công nghệ, hay nghệ thuật marketing), nguồn lực hiện có và nguồn
lực mới. Nguồn lực đợc coi là đặc biệt khi các doanh nghiệp khác không thể có
hoặc cha thể có đợc.
Năng lực của doanh nghiệp đợc hình thành từ những kỹ năng trong việc khai
thác, phối hợp các nguồn lực và hớng các nguồn lực vào mục đích sản xuất. Những
kỹ năng này thờng trực trong công việc hàng ngày của doanh nghiệp, đợc thể hiện
qua cách thức ra quyết định và quản lý các quá trình nội bộ của doanh nghiệp để
đạt mục tiêu đã đề ra. Để có năng lực riêng biệt, ít nhất doanh nghiệp phải có hoặc
nguồn lực độc đáo và kỹ năng cần thiết để khai thác nguồn lực đó, hoặc một khả

năng quản lý hữu hiệu để quản lý các nguồn lực chung.
Tuy nhiên, khi đã có đợc lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ duy trì đợc lợi
thế trong bao lâu, nói cách khác là khi nào các đối thủ cạnh tranh cũng đạt đợc lợi
thế đó. Điều này phụ thuộc vào 3 yếu tố : độ cao của rào cản bắt chớc, khả năng đổi
mới của đối thủ cạnh tranh và sự vận động tổng thể của môi trờng ngành.
Thờng thì nguồn lực dễ bị sao chép hơn là các kỹ năng, năng lực dựa trên cơ sở
hữu hình thờng dễ bị bắt chớc hơn các năng lực dựa trên cơ sở vô hình. Do đó, để
duy trì đợc lâu lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp phải tích cực nâng cao trình độ
quản lý, nâng cao uy tín của doanh nghiệp, giữ vững các bí quyết công nghệ và
chiến lợc marketing.
Khi một doanh nghiệp thực hiện một chiến lợc tức là ký một cam kết dài hạn
dựa trên cơ sở những nguồn lực và năng lực nhất định. Nh vậy, một khi các đối thủ
cạnh tranh đã thiết lập những cam kết dài hạn về một phơng thức kinh doanh nào
đó, thì các đối thủ này cũng chậm trong việc sao chép lợi thế cạnh tranh của một
doanh nghiệp đợc đổi mới.
Sự vận động tổng thể của môi trờng ngành thể hiện ở mức độ năng động của
ngành. Những ngành năng động nhất là những ngành có tốc độ đổi mới sản phẩm
nhanh nhất. Khi các hàng rào ngăn cản việc sao chép là thấp thì các đối thủ cạnh
tranh là rất nhiều và môi trờng luôn năng động với các đối thủ luôn thay đổi, do đó
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trở nên nhất thời.
1.1.2.2. Chiến lợc cạnh tranh
Sau khi tìm hiểu lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá và
lựa chọn chiến lợc cạnh tranh thích hợp, tuỳ từng hoàn cảnh và từng điều kiện cụ
thể. Sự phù hợp của một chiến lợc cạnh tranh có thể đợc xác định thông qua việc
kiểm tra tính nhất quán của các mục tiêu và chính sách đã đề xuất, sự phù hợp với
nguồn lực, với môi trờng, cùng khả năng khai thác, sử dụng và truyền đạt thông tin.
Mục tiêu chiến lợc cạnh tranh thể hiện ý định của doanh nghiệp trong việc khai
thác lợi thế cạnh tranh của mình trên toàn bộ thị trờng, hoặc trên một số đoạn thị tr-
ờng hạn chế. Mục tiêu chiến lợc đợc hình thành dựa trên việc phân tích các yếu tố
ảnh hởng trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện qua mô hình sau.

Nhân tố bên trong doanh nghiệp
Động lực và nhu cầu của những ngời thực hiện chủ yếu
Những mong muốn xã hội rộng lớn hơn (chính sách, mối quan tâm của xã hội, những thay đổi
tập quán...)
Cơ hội và những mối đe doạ của ngành (về kinh tế và kỹ thuật)
Điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp
Mục tiêu chiến lợc cạnh tranh
Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Hình 1. Các yếu tố ảnh hởng tới sự hình thành mục tiêu chiến lợc cạnh tranh của DN
Bằng cách kết hợp lợi thế và mục tiêu chiến lợc, có 3 dạng chiến lợc cạnh tranh
phổ biến là chiến lợc nhấn mạnh chi phí, chiến lợc khác biệt hoá và chiến lợc trọng
tâm hoá. Các chiến lợc này có thể đợc sử dụng riêng rẽ hoặc đợc kết hợp với nhau.
Chiến lợc nhấn mạnh chi phí
Chi phí đợc coi là yếu tố quan trọng nhất trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí càng thấp thì doanh nghiệp có lợi thế cạnh
tranh càng cao so với các đối thủ. Thứ nhất, doanh nghiệp có thể đặt mức giá thấp
hơn đối thủ mà vẫn đảm bảo lợi nhuận bằng của các đối thủ, hoặc đạt mức lợi
nhuận cao hơn khi giá trong ngành là bằng nhau. Thứ hai, khi cạnh tranh trong
ngành tăng và các đối thủ bắt đầu cạnh tranh bằng giá, thì doanh nghiệp sẽ đứng
vững hơn trong cạnh tranh vì chi phí thấp hơn của mình.
Để theo đuổi chiến lợc nhấn mạnh chi phí, doanh nghiệp phải có u thế cạnh
tranh bên trong hay khả năng làm chủ chi phí. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp phải
có thị phần tơng đối lớn (phân đoạn thị trờng thấp), có nhóm khách hàng ổn định,
hoặc phải có những thuận lợi trong sản xuất và quản lý nguyên vật liệu. Phân đoạn
thị trờng thấp, hay có nhóm khách hàng ổn định sẽ giúp doanh nghiệp tránh những
khoản tăng lớn về chi phí đầu t nghiên cứu thị trờng, nhu cầu tiêu dùng, đổi mới và
thích nghi hoá sản phẩm...
Tuy nhiên, vì nhấn mạnh chi phí nên sản phẩm của doanh nghiệp thờng không
có mức độ khác biệt hoá cao, nó chỉ có thể không quá chênh lệch so với mức của
ngời khác biệt hoá. Do đó, chất lợng của sản phẩm thờng ở mức độ trung bình,

nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng bình dân - nên chi phí thấp chỉ có u thế
cạnh tranh khi sản phẩm của doanh nghiệp đợc khách hàng chấp nhận.
Trong môi trờng quốc tế, cần đánh giá chiến lợc này theo 2 phơng diện : phơng
diện marketing và phơng diện sản xuất. Về phơng diện marketing, việc mở rộng
các thị trờng mới sẽ cho phép tăng cầu tiềm năng và đạt đợc mức sản xuất tối u
nhất. Nhng do doanh nghiệp nhấn mạnh chi phí nên những nghiên cứu về khách
hàng, về đổi mới hay khác biệt hoá sản phẩm để tiếp cận thị trờng là khó thực hiện
- nên để đạt đợc điều đó, doanh nghiệp cần phải thiết kế những sản phẩm theo tiêu
chuẩn toàn cầu hoặc ít ra là tiêu chuẩn châu lục mới mong thoả mãn số lợng lớn
các khách hàng trên thị trờng. Về phơng diện sản xuất, nếu có thể, doanh nghiệp sẽ
tổ chức sản xuất ở nớc ngoài để tận dụng nguồn nhân công sẵn có, hạn chế các chi
phí về chuyên chở, giảm chi phí trung bình ở mức tối thiểu.
Chiến lợc khác biệt hoá sản phẩm
Khác với chiến lợc nhấn mạnh chi phí, chiến lợc khác biệt hoá dựa vào lợi thế
cạnh tranh bên ngoài, tức là tính độc đáo hay mức độ hoàn thiện của sản phẩm về
kỹ thuật, dịch vụ hay hình ảnh. Mục đích của chiến lợc này là tạo ra sản phẩm hàng
hoá hoặc dịch vụ đợc ngời tiêu dùng nhận thức là độc đáo nhất theo nhận xét của
họ. Khả năng khác biệt hoá sản phẩm cho phép doanh nghiệp có thể đặt mức giá
cao hơn đáng kể so với mức trung bình của ngành vì đợc khách hàng tin tởng chất
lợng của sản phẩm đã đợc khác biệt hoá tơng ứng với chênh lệch giá đó. Sự khác
biệt hoá sản phẩm có thể đạt đợc theo ba cách chủ yếu: chất lợng, đổi mới và tính
thích nghi với khách hàng (nhu cầu, tâm lý). Ngời khác biệt hoá càng ít bắt chớc
đối thủ càng bảo vệ đợc khả năng cạnh tranh của mình, do vậy mà sự hấp dẫn thị tr-
ờng của họ càng mạnh mẽ và rộng khắp. Doanh nghiệp chọn chiến lợc này có thể
quyết định hoạt động trên phạm vi thị trờng rộng nhng cũng có thể chỉ lựa chọn
phục vụ một số mảng thị trờng mà ở đó có lợi thế khác biệt hoá đặc biệt.
Khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ cho phép doanh nghiệp thoát khỏi áp lực cạnh
tranh, nhất là khi trên thị trờng có rất nhiều sản phẩm tơng tự. Để sự khác biệt hoá
về sản phẩm đợc khách hàng nhận thức một cách rõ ràng và bền vững, doanh
nghiệp phải thực hiện những cố gắng to lớn về giao tiếp, truyền tin.

Chiến lợc tập trung hay trọng tâm hoá
Chiến lợc này chủ yếu định hớng phục vụ nhu cầu của một nhóm hữu hạn ngời
tiêu dùng hoặc một mảng thị trờng, dựa trên lợi thế cạnh tranh là tập trung các
nguồn lực cho phép phát huy tối đa năng lực của doanh nghiệp nhỏ để cạnh tranh

×