Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.23 KB, 35 trang )

QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI
3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
3.1.1. Các quan điểm cơ bản
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng nghĩa với việc phát triển toàn
diện con người.
Phát triển toàn diện con người là phát triển hài hòa, cân đối trí lực, thể
lực, đức và tài; phát triển cá tính, sự phong phú của con người một cách tự do,
đầy đủ và làm chủ, thích ứng với sự di động chức năng của con người. Xuất
phát từ tư tưởng này, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
khẳng định: “ ... xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt
Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri
thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe,
là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “ hồng” vừa “ chuyên”
như lời căn dặn của Bác Hồ”. Đây chính là mục tiêu phát triển toàn diện con
người Việt Nam. Giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt
Nam diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế kinh tế tri thức đang dần
trở thành hiện thực ở một số nước trên thế giới làm thay đổi các quan niệm
truyền thống trong nhiều lĩnh vực là một thách thức rất lớn. Điều này đòi hỏi
phải nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với phát triển toàn
1
diện con người vì đây là nhân tố quyết định hàng đầu đối với sự phát triển
kinh tế – xã hội, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh được nguy
cơ tụt hậu.
Hệ thống GD-ĐT giữ vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng


nguồn nhân lực và phát triển toàn diện con người
Yếu tố quan trọng nhất để có thể phát triển toàn diện con người là phát
triển giáo dục, bởi vì: “ Giáo dục là quá trình nâng cao tri thức và kỹ năng, mà
trước hết, giáo dục là phương tiện đặc biệt mang lại sự phát triển cá thể
người”. Mặt khác, phát triển giáo dục là cơ sở để phát huy tốt nhất “ của cải
nội sinh”, tạo nên sự phát triển đất nước một cách bền vững. Nói cách khác,
phát triển giáo dục đào tạo như “đòn bẩy” để phát triển các yếu tố khác của
nguồn nhân lực. Do vậy nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong giai đoạn
hiện nay phải hướng vào đảm bảo đào tạo nhân lực theo ba mục tiêu: nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế –
xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế và xu
thế kinh tế tri thức.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải gắn với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhu cầu phát triển của các ngành, vùng cũng như
kinh tế – xã hội đất nước. Do vậy, giai đoạn hiện nay, phải tạo được nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của cả ba nền kinh tế lao động sức người, tài
nguyên và tri thức, trong đó chú trọng nhân lực khoa học – công nghệ trình độ
cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp
góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy, phải đổi mới
mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học. Mục
tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo cần coi trọng đồng thời cả mở rộng qui
2
mô, nâng cao chất lượng, tăng cường hiệu quả, gắn đào tạo với phát triển
khoa học công nghệ và sản xuất. Thực hiện tốt các chức năng của nhà trường
là đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội, nhất là các trường đại học.
Chức năng đào tạo thể hiện trong việc cung cấp đội ngũ lao động có trình độ
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu khoa học trong các
trường đại học bước đầu tạo điều kiện phát huy tác dụng của các công nghệ
tiên tiến nhập từ nước ngoài, nghiên cứu cải tiến và tạo khả năng sáng chế ra

công nghệ mới để phát triển đất nước. Các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề là nơi cung cấp dịch vụ tư vấn, ứng dụng và triển khai
tiến bộ khoa học công nghệ vào đời sống. Chú ý đến chất lượng và hiệu quả
đào tạo là góp phần tiết kiệm chi phí mà vẫn tạo ra đội ngũ lao động khoa học
– công nghệ và quản lý trình độ cao phục vụ phát triển kinh tế, khoa học –
công nghệ và an ninh, quốc phòng của đất nước.
3.1.2. Phương hướng trong giai đoạn hiện nay
Phương hướng chủ yếu trong bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
Những phân tích thực trạng và nguyên nhân tác động cho thấy vấn đề
đặt ra đối với sức khỏe của nguồn nhân lực và hệ thống y tế ở Việt Nam. Do
vậy phương hướng trong giai đoạn hiện nay là khắc phục những hạn chế này,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Thứ nhất, cải thiện điều kiện dinh dưỡng thông qua nâng cao mức sống
của người dân. Để xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng được các yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc nâng cao sức khỏe
trong đó yếu tố nền tảng là cải thiện dinh dưỡng rất cần thiết và cấp bách. Bên
cạnh các biện pháp can thiệp trực tiếp thì phương hướng quan trọng để thực
hiện điều đó là nâng cao mức sống của người dân bằng việc đảm bảo an ninh
3
lương thực quốc gia, thúc đẩy xóa đói giảm nghèo và cải thiện cơ sở hạ tầng
như cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường.
Thứ hai, đổi mới hệ thống y tế theo hướng công bằng và hiệu quả.
Những thành tựu kinh tế đạt được nhờ quá trình đổi mới làm cho đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe tăng nhanh
cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, những thay đổi và xu hướng thực
tiễn trong ngành y tế thời gian qua bộc lộ nhiều hạn chế như tình trạng thiếu
công bằng trong cung cấp tài chính, khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe ngày càng nghiêm trọng, hiệu quả kinh tế đạt được so với mục tiêu đã đề
ra rất hạn chế. Do đó cần phải đổi mới hệ thống y tế theo hướng công bằng và
hiệu quả để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân

qua đó trực tiếp nâng cao trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Quan
điểm công bằng ở đây không có nghĩa là ngang bằng và được hiểu là ai có
nhu cầu lớn thì được chăm sóc nhiều hơn. Như vậy, đổi mới theo hướng công
bằng là triển khai đồng bộ các giải pháp từ củng cố y tế cơ sở đến ưu tiên cho
vùng nghèo, người nghèo, đối tượng chính sách nhằm tạo điều kiện cho mọi
người đều được hưởng quyền lợi chăm sóc y tế cơ bản theo những chỉ tiêu đặt
ra.
Phương hướng chủ yếu nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật
cho nguồn nhân lực.
Xuất phát từ những quan điểm ở trên về vai trò của giáo dục đào tạo
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, dưới đây là một số phương hướng chủ
yếu đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo.
Thứ nhất, xây dựng nền giáo dục theo hướng “ chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa”. Chuẩn hóa có thể bao gồm chương trình, nội dung giảng dạy,
sách giáo khoa, giáo trình và qui trình kiểm tra đánh giá chất lượng. Đặc biệt
4
nhấn mạnh chuẩn hóa tiêu chí đánh giá sản phẩm cuối cùng của giáo dục là
con người và nguồn nhân lực; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Hiện đại hóa giáo dục hiểu
trong nội tại của ngành là cập nhật với thời đại ngày nay trên các mặt nội
dung, phương pháp, qui trình đào tạo nhằm phản ánh những thành tựu mới
nhất của thế giới và phù hợp với sự tiến bộ của trang thiết bị dạy và học. Xã
hội hóa giáo dục là huy động lực lượng của toàn xã hội cùng tham gia vào quá
trình giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng những
thành quả do hoạt động giáo dục đem lại.
Thứ hai, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo. Công bằng
xã hội là sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận, tham gia vào quá trình giáo dục,
sự đối xử như nhau với mọi học sinh khi học tại các cơ sở đào tạo khác nhau.
Do đó phải tiếp tục duy trì chính sách ưu tiên, hỗ trợ giáo dục cho các khu
vực khó khăn, đối tượng chính sách xã hội, học sinh nghèo... Đồng thời cũng

phải có chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho những học sinh giỏi, người
có năng lực được học tập thuận lợi ở tất cả các bậc học không bị chi phối bởi
khả năng tài chính cá nhân. Do vậy cần chú ý các biện pháp về tài chính, giáo
viên, huy động sự tham gia của địa phương, gia đình vào giáo dục nhằm thực
hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục.
Thứ ba, coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực.
Phương hướng hiện nay là phải làm cho toàn bộ nền giáo dục thích ứng
với nhu cầu và đòi hỏi của sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa phát triển giáo dục theo kế hoạch và theo yêu cầu của thị
trường lao động. Do đó, hệ thống giáo dục cần coi trọng hướng nghiệp, dạy
nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực.
3.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
5
3.2.1. Đổi mới chính sách y tế
Như đã phân tích ở trên, do nhiều lý do chính sách y tế của Việt Nam
hiện nay còn khiếm khuyết, ảnh hưởng đến việc nâng cao sức khỏe của nguồn
nhân lực. Do vậy một nội dung quan trọng của việc đổi mới ngành y tế theo
hướng công bằng, hiệu quả là hoàn thiện và xây dựng chính sách phù hợp với
điều kiện kinh tế – xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển.
Hoàn thiện chính sách tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe
Các chiến lược tài chính cho y tế là một trong những công cụ quan
trọng nhất để đạt được các mục tiêu đã đề ra về hiệu quả kinh tế, công bằng
trong cung cấp tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết
yếu theo nhu cầu. Dưới đây là những phân tích và đề xuất giải pháp cơ bản
hoàn thiện chính sách tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe trên các mặt:
Thứ nhất, các nguồn lực tài chính
Hiện tại kinh phí của hệ thống y tế công của Việt Nam được cung cấp
từ các nguồn chủ yếu là thuế ( ngân sách nhà nước ), bảo hiểm y tế bắt buộc,
viện phí và viện trợ nước ngoài. Trong đó thuế chiếm tỷ trọng lớn nhất
khoảng 60%, tiếp theo là bảo hiểm y tế trên 15% và viện phí, viện trợ đều trên

10%. Đề cập đến vấn đề này bởi vì bản thân mỗi nguồn tài chính đều có
những đặc điểm riêng, hoặc là tạo điều kiện thuận lợi, hoặc có thể hạn chế về
mặt con người và khu vực trong việc sử dụng các nguồn này. So với các hình
thức khác, cung cấp tài chính cho y tế theo cách chi trả trước tạo ra một cơ hội
để phân bổ lại các quỹ cho dịch vụ y tế từ những người khỏe mạnh sang hỗ
trợ cho người ốm yếu; từ những người giàu hoặc địa phương có kinh tế phát
triển sang cho người nghèo, địa phương kém phát triển hơn.
Chính vì vậy, cung cấp tài chính qua thuế là hình thức chủ yếu để đẩy
mạnh tính nhất quán trong cung cấp tài chính cho y tế và nâng cao công bằng
6
khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Với quan điểm như vậy thì
nguồn tài chính lấy từ thuế không được xem là để cung cấp cho những người
không có khả năng chi trả được hưởng dịch vụ y tế mà phải coi nó là một
nguồn tài chính để từng bước phát triển một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn
diện theo định hướng công bằng. Từ quan điểm đó cho thấy những khả năng
để hoàn thành chiến lược này tăng lên cùng với sự tăng trưởng kinh tế tạo khả
năng để có được khoản thu bổ sung từ thuế. Xu hướng này chưa xuất hiện ở
Việt Nam bởi tốc độ tăng thu nhập quốc dân những năm gần đây cao dần lên
trong khi đó chi ngân sách cho y tế giảm đều và đến nay chỉ còn khoảng 2%.
Do đó trong thời gian tới cần có sự điều chỉnh để tăng cường mối liên hệ giữa
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi
mới của hệ thống thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hơn
nữa một hệ thống y tế toàn diện theo định hướng công bằng, hiệu quả.
Hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc và phương thức cấp tài chính cho y tế
qua thuế có nhiều điểm tương đồng bởi vì vả hai đều là những hình thức
thanh toán trước bắt buộc. Hơn nữa, với hai hình thức này thì vai trò của Nhà
nước thường rất lớn vì như vậy có thể xây dựng mức phí bảo hiểm mà người
sử dụng lao động và người lao động phải đóng góp. Do đó, việc xếp nguồn
thu từ thuế và bảo hiểm y tế bắt buộc vào cùng loại “quĩ công” là hoàn toàn
logic. Tuy nhiên, giữa hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt lớn về

khía cạnh “ai là người phải trả” và “ ai là đối tượng có thể sử dụng các quĩ
huy động được”. Trái với hệ thống cấp tài chính qua thuế, giữa việc thanh
toán phí bảo hiểm và tiếp nhận dịch vụ có mối liên hệ trực tiếp. Có nghĩa là
thường chỉ những người mua bảo hiểm mới có thể được sử dụng các quĩ huy
động được qua hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc. Do vậy như đã nêu ở
chương 2, hình thức này hiện nay trước hết là phục vụ cho cán bộ, công nhân
viên Nhà nước và người có biên chế tại các doanh nghiệp lớn. Những khả
7
năng phân bổ lại các quĩ này cho nhóm dân cư khác như nông dân nghèo là
rất hạn chế. Hiện nay, Nhà nước đã tìm cách giải quyết vấn đề trên bằng cách
cấp thẻ bảo hiểm y tế không mất tiền cho trên 4 triệu người nghèo. Hệ thống
cấp tài chính từ thuế này sẽ được mở rộng và phát triển. Theo hướng này, Nhà
nước có thể mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế cho những đối tượng có điều
kiện kinh tế khó khăn như nông dân, người làm nghề phụ thông qua việc cấp
thẻ khám chữa bệnh bao cấp với một mức phí rất thấp. Lợi ích mà nhóm này
được hưởng là họ sẽ được hỗ trợ khoảng 70-75% mệnh giá. Điểm tốt của hình
thức này so với cơ chế viện phí trả trực tiếp là dựa vào các khoản thanh toán
định sẵn, do đó khuyến khích người dân tiết kiệm đủ số tiền cần thiết hơn là
khi cần sử dụng dịch vụ y tế thì buộc phải thanh toán các khoản phí sử dụng
dịch vụ không dự tính. Hơn nữa, hệ thống thẻ bảo hiểm y tế bao cấp phục vụ
cả người khỏe mạnh và ốm đau nên có khả năng chia sẻ rủi ro trong khi điều
này không thể có trong cơ chế phí dịch vụ thu trực tiếp. Xét ở khía cạnh kinh
phí thu được từ cá nhân thì hệ thống bảo hiểm y tế có bao cấp có khả năng
huy động được lượng kinh phí nhiều hơn hệ thống chi trả trực tiếp mà lại
tránh được các tác động tiêu cực như thiếu công bằng trong khả năng tiếp cận
và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng. Tuy nhiên áp dụng hình
thức có hai trở ngại là: (i) làm thế nào huy động được các quĩ công cần thiết;
và (ii) so với hệ thống y tế công được nhà nước trực tiếp cấp ngân sách thì nó
tương đối phức tạp và khó triển khai hơn do chỉ có người hay đau ốm mới
quan tâm đến việc mua bảo hiểm. Nói tóm lại, so với hệ thống cấp ngân sách

từ thuế thì bảo hiểm y tế bắt buộc không tiến bộ bằng mà chỉ hạn chế trong
việc ưu tiên phục vụ cho các nhóm dân khá giả trong cả việc thanh toán lẫn sử
dụng dịch vụ và khó có thể phân bổ lại nguồn tài chính sang các nhóm dân có
thu nhập thấp hơn. Những khả năng để mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế bao
cấp cũng có nhiều khó khăn về tài chính và quản lý hành chính. Do đó giai
8
đoạn hiện nay, mặc dù có vai trò quan trọng nhưng chưa nên coi bảo hiểm y
tế là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu cho đến khi đã hoàn thiện và chứng
minh được tính khả thi, ưu việt của nó.
Mức phí dịch vụ cao mà thiếu mất các biện pháp miễn phí được thực
hiện tốt là rào cản lớn nhất khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo.
Có quan điểm cho rằng thu phí dịch vụ sẽ có điều kiện nâng cao chất lượng
dịch vụ, hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí và các vùng có điều kiện khó khăn.
Tuy nhiên thực tế hoàn toàn không phải như vậy, các tác động tiêu cực nảy
sinh như tình trạng thiếu công bằng về xã hội và địa lý trong khả năng tiếp
cận và chất lượng dịch vụ ngày càng gia tăng. Những tác động này sẽ tăng khi
phí dịch vụ tăng và có thể giảm đi bằng cách cấp thẻ khám chữa bệnh không
mất tiền, được bao cấp từ thuế cũng như phân bổ lại nguồn ngân sách Nhà
nước từ những địa phương có khả năng thu được nhiều tiền từ phí sử dụng
dịch vụ, bảo hiểm y tế bắt buộc hơn sang địa phương nghèo. Phí dịch vụ ở
Việt Nam hiện nay ở vào mức trên 10% tổng các nguồn lực là một vấn đề
đáng lưu ý và cần có hướng giảm xuống khi nguồn thu từ ngân sách Nhà
nước tăng.
Trong các nguồn lực tài chính thì viện trợ nước ngoài chỉ nên coi là
một nguồn tạm thời tạo điều kiện cho các chính sách lâu dài của Nhà nước
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, cải thiện khả năng tiếp cận về kinh tế và
xã hội. Tuy nhiên viện trợ nước ngoài có thể gây những tác động tiêu cực như
rút mất nhiều nguồn lực ngân sách từ việc tăng chi phí cho việc duy tu, bảo
dưỡng và vật tư thay thế sau khi đầu tư quá nhiều vào xây dựng cơ bản, nhập
máy móc, trang thiết bị... Do vậy cần phải có các cuộc đối thoại và thỏa thuận

nhất định giữa hai bên cũng như xây dựng các chính sách để sử dụng viện trợ
nước ngoài một cách hữu hiệu nhất đạt được các mục tiêu chung trong chăm
sóc sức khỏe.
9
Thứ hai, phân bổ nguồn lực.
Trong các nguồn lực tài chính khác nhau thì chỉ có nguồn từ thuế là có
thể phân bổ lại giữa các vùng giàu và nghèo. Các quĩ huy động được từ bảo
hiểm y tế bắt buộc theo lý thuyết chỉ có thể phân bổ lại qua hình thức bao cấp
chéo nhưng cũng không thể thực hiện được trong tình trạng lúc nào cũng
thiếu ngân sách. Các quĩ thu được từ phí dịch vụ có thể được hỗ trợ cho việc
cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo ở tuyến cơ sở và trong chừng mực
nhất định ở tuyến huyện và tỉnh. Vì thế chỉ có nguồn thuế là có hiệu quả phân
bổ cao để giải quyết mức chênh lệch trong phân bổ ngân sách giữa các vùng.
Hiện nay hệ thống phân bổ ngân sách Nhà nước trên cơ sở đầu người và có
một phần theo yêu cầu biểu hiện bằng sức mua nên tạo ra sự ưu tiên cho các
tỉnh và khu vực kinh tế khá giả hơn như đã chỉ ra ở chương 2. Phân bổ theo
đầu người thực chất không công bằng do không phải mọi nhóm dân cư đều có
cùng nhu cầu sử dụng dịch vụ, tức là có cùng gánh nặng bệnh tật. Người
nghèo thường mắc bệnh nặng hơn và khả năng lành bệnh cũng lâu hơn do thể
trạng và điều kiện sống kém. Vì thế kiểu phân bổ theo đầu người sẽ càng mất
công bằng khi tình trạng thiếu công bằng xã hội và kinh tế nói chung gia tăng
trong xã hội. Do vậy việc phân bổ ngân sách nhà nước giữa các tỉnh cần phải
dựa vào đánh giá nhu cầu để đảm bảo sự đồng đều cho những nhu cầu tương
ứng. Phân bổ theo nhu cầu dựa trên dự tính bằng cách xem xét số dân sẽ được
phục vụ, gánh nặng bệnh tật mà các nhóm dân khác nhau phải gánh chịu cũng
như các điều kiện nhất định của từng địa phương như mật độ dân cư thấp làm
tăng đơn giá cho mỗi dịch vụ được cung cấp. Trong điều kiện hiện nay,
phương thức phân bổ nguồn lực nhà nước dựa trên nhu cầu sẽ được xây dựng
và áp dụng cần tính đến cả những quĩ huy động được qua hình thức bảo hiểm
y tế bắt buộc và phí dịch vụ.

Thứ ba, sử dụng nguồn lực có sẵn một cách hiệu quả.
10
Sử dụng nguồn lực có sẵn một cách hiệu quả là vấn đề hết sức cần thiết
và liên quan đến nhiều lĩnh vực, do vậy ở đây chỉ xét những khía cạnh có liên
quan đến chính sách tài chính như: ngân sách tổng thể so với phí dịch vụ, sử
dụng dịch vụ, sắp xếp lại cơ cấu dịch vụ bệnh viện, đào tạo về quản lý.
Giải pháp xây dựng hệ thống ngân sách tổng thể dựa trên đầu ra như
kết quả về tình hình sức khỏe được cải thiện và sự hài lòng của bệnh nhân là
phương pháp khắc phục tình trạng không khuyến khích các cơ sở tăng năng
suất, thiếu tập trung vào kết quả đạt được như hiện nay để tăng hiệu quả kinh
tế. Các công cụ chủ yếu để xây dựng ngân sách tổng thể tính đến đầu ra như
vậy là các đánh giá công nghệ y tế và các phương pháp khác để nghiên cứu,
tìm hiểu tác động thực tế của các hoạt động can thiệp về y tế khác nhau và
việc xác định, giới thiệu chỉ số chất lượng dịch vụ nhất định như những
trường hợp tử vong có thể tránh được. Một công cụ quan trọng khác vừa phục
vụ cho việc đánh giá những tác động tự cảm đối với sức khỏe, các mức dịch
vụ và thái độ nói chung là phỏng vấn bệnh nhân đều đặn, có hệ thống. Tóm
lại, cách thích hợp hiện nay là cố gắng xây dựng các ngân sách tổng thể có
tính đến đầu ra nhiều hơn, trong đó có cả đánh giá thường xuyên xem những
dịch vụ được cung cấp có gắn với mục tiêu của nhà chuyên môn cũng như
bệnh nhân hay không.
Một vấn đề thường thấy là bệnh nhân có chiều hướng tìm kiếm dịch vụ
ở tuyến quá cao trong hệ thống y tế một cách không cần thiết. Việc sử dụng
dịch vụ không phù hợp như vậy rất tốn kém vì giá thành của các dịch vụ được
cung cấp ở các bệnh viện tuyến tỉnh cao hơn rất nhiều so với chi phí dịch vụ
cung cấp tại các trạm y tế xã. Vì thế những cố gắng để đảm bảo người bệnh
sử dụng các tuyến y tế thích hợp hơn cũng rất quan trọng trong việc quản lý
nguồn lực.
11
Kinh nghiệm thế giới cho thấy việc sắp xếp lại cơ cấu dịch vụ bệnh

viện theo hướng giảm thời gian giảm điều trị nội trú sang ngoại trú dựa trên
các kỹ thuật y tế hiện đại có ý nghĩa rất tích cực cả về khía cạnh y tế và tài
chính. Tuy nhiên, vì hiện nay số giường bệnh là một chỉ tiêu phân bổ ngân
sách nhà nước quan trọng nên điều quan trọng là phải xem xét lại phương
pháp này còn phù hợp hay không căn cứ vào công nghệ y học mới và nhu cầu
cấp thiết phải sử dụng các nguồn lực công khan hiếm cho y tế một cách hiệu
quả.
Thiếu kỹ năng quản lý, trong đó có cả những kiến thức cơ bản về kinh
tế y tế là đánh giá mà các chuyên gia của Bộ y tế đã chỉ ra là rất nghiêm trọng
so với các ngành công cộng khác vì hầu hết các vị trí quản lý then chốt đều do
các bác sĩ được đào tạo rất hạn chế hay không được đào tạo trong lĩnh vực
này nắm giữ. Do vậy việc đào tạo đội ngũ cán bộ y tế nắm giữ các vị trí quản
lý chắc chắn sẽ là giải pháp tốt với chi phí thấp mà hiệu quả đạt được cao.
Những phân tích và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính
nêu trên chắc chắn cần phải cần phải cân nhắc kỹ hơn dựa vào tình hình thực
tế về chính trị, kinh tế và xã hội nhằm khắc phục những tồn tại của hệ thống y
tế đang có ảnh hưởng không tốt đến chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
Sử dụng chiến lược thúc đẩy sức khỏe để nâng cao sức khỏe cho người dân
Bên cạnh khám chữa bệnh thì việc nâng cao sức khỏe cho người dân
thông qua cung cấp tri thức bằng các chương trình truyền thông thường hay
được áp dụng. Các nghiên cứu đánh giá cho thấy ở Việt Nam những chương
trình như vậy không đem lại nhiều kết quả như mong muốn, do vậy việc vận
dụng những kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này là điều cần được xem xét.
Thúc đẩy sức khoẻ là một phương pháp có thể áp dụng cho nhiều vấn
đề sức khoẻ. Giống như các dịch vụ khám chữa bệnh tập trung vào ốm đau và
12
chẩn đoán các loại bệnh tật, thúc đẩy sức khoẻ tập trung vào sức khoẻ và cách
phòng bệnh. Phương pháp thúc đẩy sức khoẻ có thể được áp dụng vào tất cả
các lĩnh vực nếu không có sự tham gia của cộng đồng và hưởng ứng của từng
cá nhân thì không thể giải quyết được vấn đề như lối sống, môi trường, bệnh

truyền nhiễm ...
Chính phủ cần phải ủng hộ nhu cầu, tạo điều kiện để nhân dân có được
thông tin, sống và làm việc trong những môi trường đảm bảo sức khỏe. Quan
trọng hơn hết là nhân dân cần phải biết rằng chính họ kiểm soát phần nào đó
cuộc sống và sức khoẻ của bản thân. Nếu họ không được trực tiếp tham gia
vào việc xác định nhu cầu, lựa chọn ưu tiên, thiết kế những hoạt động can
thiệp thì sẽ không có gì ràng buộc họ thực hiện những thay đổi đó. Tóm lại,
những phương pháp đáp ứng các nhu cầu này tạo ra phương pháp thúc đẩy sức
khoẻ.
Phải có sự thay đổi lối sống ở các ngành, tổ chức và trong cộng đồng,
những nơi mà người ta sống, học tập, làm việc, vui chơi và chăm lo sức khoẻ.
Đây chính là những cơ sở hình thành nên hành vi. Việc duy trì những cải
thiện về tình trạng sức khoẻ đòi hỏi: (i) thay đổi về chế tài kinh tế, luật pháp
và xã hội nhằm hạn chế các hành vi không lành mạnh trong cộng đồng; (ii)
phát triển các lực lượng hỗ trợ về xã hội, văn hoá và kinh tế nhằm khuyến
khích hành vi lành mạnh; và (iii) phát triển năng lực của cá nhân cũng như
của tổ chức để có thể giúp cho cộng đồng đương đầu được với những thách
thức về sức khoẻ.
Kinh nghiệm từ các chiến dịch tuyên truyền sức khỏe ở Việt Nam cho
thấy kết quả đạt được không cao chính vì không có được những yếu tố như
nêu trên. Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ đáp ứng bất cứ vấn đề nào đã được
13
vạch ra đòi hỏi phải có một phương pháp toàn diện và một loạt các phương
thức:
Thứ nhất, xây dựng các chương trình liên ngành
Sức khoẻ phần lớn là kết quả của cuộc sống con người, nó có liên hệ
đến tất cả các yếu tố xã hội, văn hoá, kinh tế và chính trị. Việc giải quyết tất
cả những yếu tố này vượt quá khả năng những nhà chuyên môn y tế. Vì thế
chiến lược thúc đẩy sức khoẻ đòi hỏi toàn dân và các tổ chức ngoài ngành y tế
tham gia đóng góp trong các nỗ lực nhằm cải thiện sức khoẻ của nhân dân.

Các Bộ, các cơ quan phải cùng làm việc để đảm bảo xây dựng những chương
trình phù hợp và có thể áp dụng được ở các ngành khách nhau và trong các
điều kiện khác nhau. Ví dụ tham gia vào chương trình chống hút thuốc lá
không chỉ có Bộ Y tế mà phải có các cơ quan khác như Bộ Công an, Bộ Tài
chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Văn hoá - Thông tin, Bộ Quốc phòng... cũng như các tổ chức phi Chính phủ
trong và ngoài nước.
Thứ hai, lồng ghép các chương trình dọc
Các chương trình thúc đẩy sức khoẻ có xu hướng chỉ chú trọng vào một
khía cạnh của công tác dự phòng, một loại bệnh, một hành vi nguy cơ, một
thông điệp. Thế nhưng các hành vi nguy cơ lại khu trú trong những hoàn cảnh
có nguy cơ. Phương pháp một vấn đề duy nhất (không đề cập đến các nguyên
nhân ngầm) sẽ trở nên có hiệu quả trong việc đưa một vấn đề quan trọng vào
chương trình nghị sự chính trị, nếu có phương pháp tốt để giành được sự ủng
hộ. Nó cũng có hiệu quả trong việc truyền tải những thông điệp đơn giản tới
đông đảo quần chúng. Tuy nhiên, các phương pháp một vấn đề rất hiếm khi
có hiệu quả đối với nhóm đối tượng khó khăn, những người thường có tình
trạng sức khoẻ kém nhất. Các hành vi, lối sống nguy hại khác nhau đều có
14

×