Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY NHỰA HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.72 KB, 29 trang )

TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY NHỰA HÀ NỘI.
I. Tình tình và đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Nhựa Hà
Nội.
1. Sự ra đời và phát triển của công ty Nhựa Hà Nội.
Công ty Nhựa Hà Nội trực thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội đặt tại 27 Hai
Bà Trưng - Hoàn Kiếm - Hà Nội. Tiền thân là xí nghiệp Nhựa Lợi Thành, đến
24 tháng 1 năm 1972 đổi tên là xí nghiệp Nhựa Hà Nội. Năm 1993 xí nghiệp
Nhựa Hà Nội đổi tên thành công ty Nhựa Hà Nội theo Quyết định số 2977/QĐ-
UB ngày 10 tháng 8 năm 1993 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và được
duy trì đến ngày nay. Đó là tên gọi và cũng là tên giao dịch của công ty.
Công ty Nhựa Hà Nội là một công ty của Nhà nước, có tư cách pháp
nhân, có con dấu riêng có tài khoản tại Ngân hàng, được tổ chức hoạt động theo
điều lệ quản lí công ty và trong khuôn khổ pháp luật.
Nhiệm vụ chính của công ty là sản xuất kinh doanh các mặt hàng nhựa
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Từ chỗ ban đầu với một số ít công
nhân, việc sản xuất hoàn toàn bằng thủ công, máy móc không có gì, kĩ thuật
thấp kém, không có kĩ sư chuyên ngành. Trải quan nhiều năm phấn đấu liên tục
cho đến nay công ty đã có hơn 200 cán bộ và kĩ sư, công ty đã trang bị cho
mình một hệ thống máy móc tiên tiến hiện đại có thể sản xuất những mặt hàng
cao cấp đáp ứng yêu cầu của những khách hàng khó tính nhất. Nhờ vậy mà hiện
nay công ty Nhựa Hà nội được coi là một trong những con chim đầu đàn của
ngành chế phẩm nhựa, tạo được uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Các sản phẩm chính của công ty nhựa Hà nội gồm có:
- Đồ nhựa gia dụng: dép, xô...
- Chai dầu phanh, lọ các loại.
- Vỏ Starte.
- Đồ nội thất nhà tắm, mặt đồng hồ, nắp hộp xích...
- Các chi tiết xe máy.
Ngoài ra còn có nhiều sản phẩm loại khác, đặc biệt công ty còn nhận chế
tạo khuôn mẫu sản phẩm cho khách hàng theo yêu cầu.
Đến nay công ty đã có sự phát triển vượt bậc. Thông qua chỉ tiêu của một


số năm gần đây ta có thể thấy được sự lớn mạnh của công ty:
Năm 1998 Năm 2002
- Doanh số: 11.229.627.327đ 20.600.486.613đ
- Tổng số lợi nhuận: 775.599.000đ 1.310.333.298đ
- Thu nhập bình quân: 400.000đ 950.000đ
2. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty Nhựa Hà Nội.
a. Về cơ cấu tổ chức và quản lí của công ty.
Để đảm bảo sản xuất có hiệu quả và quản lí tốt quá trình sản xuất kinh
doanh, công ty Nhựa Hà Nội đã tổ chức quản lí theo mô hình trực tuyến.
Đứng đầu là giám đốc công ty, là người trực tiếp điều hành các phòng ban chức
năng và các phân xưởng sản xuất.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau(Biểu 1)
Nhiệm vụ và chức năng của các phòng ban:
- Ban giám đốc gồm 2 người: một giám đốc và một phó giám đốc.
+ Giám đốc công ty: Là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo của công ty, đại
diện cho nhà nước, có quyền quyết định điều hành toàn bộ hoạt động của công
ty theo đúng kế hoạch, chính sách pháp luật.
+ Phó giám đốc: là người giúp việc cho giám đốc và thay quyền giám đốc
lúc giám đốc vắng mặt.
- Các bộ phận phòng ban chức năng:
+ Khối kĩ thuật bao gồm: Phòng kĩ thuật cơ điện, phòng kĩ thuật công
nghệ và phòng KCS.
. Phòng kĩ thuật cơ điện: Thiết kế khuôn mẫu theo đơn đặt hàng, chỉnh
sửa máy móc, phụ trách an toàn kĩ thuật khi vận hành máy.
. Phòng kĩ thuật công nghệ: phòng này có nhiệm vụ xây dựng các tiêu
chuẩn kĩ thuật, sau đó căn cứ vào các tiêu chuẩn đã xây dựng mà xem xét kiểm
tra chất lượng sản phẩm.
. Phòng KCS: Kiểm tra chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn đã được
duyệt.

+ Khối nghiệp vụ bao gồm: Phòng Kế hoạch và phòng Tài vụ.
+ Khối nội chính bao gồm: Phòng bảo vệ và phòng Tổ chức Hành chính.
+ Phân xưởng cơ khí: có nhiệm vụ chế tạo khuôn mẫu theo đơn đặt hàng
đúng với thiết kế khuôn mẫu và các tiêu chuẩn kĩ thuật.
+ Phân xưởng nhựa: Là phân xưởng sản xuất ra sản phẩm theo khuôn
mẫu.
+ Phân xưởng hoàn thiện: là phân xưởng gia công sửa chữa hoàn thiện
các sản phẩm trước khi đem giao cho khách hàng hoặc nhập kho.
Các phòng ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu quản lí sản xuất
kinh doanh chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban giám đốc và trợ giúp cho Ban
giám đốc lãnh đạo hoạt động sản xuất kinh doanh thông suốt.
b. Về qui trình công nghệ chế tạo sản phẩm và tình tình trang bị cơ sở vật
chất kĩ thuật.
+ Về qui trình công nghệ chế tạo sản phẩm:
Là qui trình sản xuất liên tục, sản phẩm qua nhiều giai đoạn chế biến,
song chu kì sản xuất ngắn, do đó việc sản xuất một sản phẩm nằm khép kín
trong một phân xưởng (phân xưởng nhựa). Đây là điều kiện thuận lợi cho tốc độ
luân chuyển vốn của công ty nhanh. Mặc dù sản phẩm của công ty rất đa dạng
(có gần 200 loại sản phẩm) nhưng tất cả các sản phẩm đều có một điểm chung
đó là được sản xuất từ nhựa. Cho nên, qui trình công nghệ sản xuất tương đối
giống nhau.
+ Về trình độ trang bị kĩ thuật của công ty:
Do trước đây công ty sản xuất xen kẽ giữa cơ khí và thủ công, đồng thời
cùng với thời gian sử dụng đã lâu, máy móc thiết bị rất cũ và lạc hậu. Vì vậy
năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không cao.
Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo công ty đã quyết định đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ. Tính từ năm 1993 đến năm 2002 công ty đã đầu tư gần 20 tỉ
đồng cho mua sắm máy móc thiết bị. Mặt khác, công ty lại áp dụng phương
pháp khấu hao nhanh, thời gian sử dụng trung bình của số máy móc là 6
năm/1máy. Cho nên, công ty có thể thu hồi vốn nhanh, tránh được tình trạng

hao mòn vô hình và theo kịp tốc độ đổi mới công nghệ hiện nay giúp công ty
nâng cao thế mạnh cạnh tranh của mình.
c. Về tình hình tổ chức lao động:
Lao động là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, đảm bảo đủ số
lượng, chất lượng lao động là điều kiện cần thiết để kết quả của quá trình sản
xuất kinh doanh được tốt.
Hiện nay tổng số lao động của công ty gồm 230 người. Trong số đó công
nhân trực tiếp sản xuất là 203 người, chiếm 88,26% tổng số công nhân viên toàn
công ty, số bộ phận gián tiếp là 27 người chiếm 11,74%.
d. Về thị trường và khách hàng:
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty tập trung chủ yếu ở Hà nội.
Ngoài ra còn có các thị trường khác như Vĩnh Phúc, thành phố Hồ Chí Minh...
Tại thị trường Hà nội, vị trí trung tâm kinh tế của cả nước với diện tích
102,5 ngìn Km
2
, dân số 4 triệu người, mật độ dân cư đông, tốc độ phát triển
nhanh, nhiều người có mức thu nhập cao hơn nhiều so với những nơi khác. Vì
vậy Hà nội là một thị trường sôi động, hấp dẫn nhưng cũng thật phức tạp. Hơn
nữa nó là một thị trường hấp dẫn các nhà sản xuất kinh doanh, nên hiện nay thị
trường Hà nội có rất nhiều sản phẩm cùng loại của các công ty khác như sản
phẩm từ Trung Quốc, Thái lan... nhập về, sản phẩm của các công ty như công ty
Nhựa Hiệp Thành, công ty Nhựa Sài Gòn từ thành phố Hồ Chí Minh mang ra.
Tất cả các sản phẩm của các đối thủ đều có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, đặc
biệt là hàng nhập lậu từ Trung quốc bán với giá rất rẻ... chính điều này buộc
công ty phải có chiến lược cạnh tranh độc đáo, giữ vững và mở rộng thị trường.
Ngoài ra, khách hàng của công ty đều là những đối tượng khó tính, trình
độ nhận thức cao, họ có nhiều cơ hội để so sánh, lựa chọn sản phẩm, lựa chọn
nhà cung cấp đáp ứng yêu cầu cầu mình. Vì thế muốn tiêu thụ được sản phẩm
công ty phải không ngừng nâng cao chữ tín đối với khách hàng.
e. Về sản phẩm của công ty:

Hiện nay công ty đang thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm (gần
200 sản phẩm). Tuy nhiên số lượng sản xuất và tiêu thụ của từng loại sản phẩm
không lớn lắm. Các loại sản phẩm của công ty có thể phân thành một số nhóm
như sau: Bao bì, vật liệu xây dựng, phụ tùng công nghiệp, hàng tiêu dùng, chế
tạo khuôn mẫu thiết bị, nguyên liệu. Đối với cá loại sản phẩm như bao bì, vật
liệu xây dựng (tấm ốp trần...) đòi hỏi phải lịch sự trang nhã, mẫu mã đẹp, chất
lượng tốt, giá cả phải chăng. Còn đối với những sản phẩm công nghiệp cao cấp
như: vỏ ác quy, linh kiện xe máy... là những mặt hàng sản xuất cho hãng Honda
thì lại đòi hỏi rất khắt khe về mặt chất lượng. Vì thế, sản phẩm của công ty sản
xuất ra không những đáp ứng đủ về số lượng mà còn đảm bảo đạt yêu cầu về
chất lượng, mẫu mã. Do đó, sản phẩm của công ty đưa ra thị trường tiêu thụ chỉ
có duy nhất một loại phẩm cấp, đó là sản phẩm loại I.
3. Những thuận lợi và khó khăn của công ty nhựa Hà nội.
* Thuận lợi:
Trong điều kiện thị trường “mở cửa” việc cung cấp nguyên vật liệu cho
sản xuất của công ty có nhiều thuận lợi. Nguyên liệu của công ty chủ yếu do các
doanh nghiệp trong nước cung ứng. Cơ chế “mở của” nền kinh tế tạo cho công
ty thu mua dự trữ nguyên vật liệu dễ dàng.
Hơn nữa, vị trí của công ty ở ngay mặt tiền đường Hai Bà Trưng (trung
tâm thành phố) rất thuận lợi cho việc chào bán, giới thiệu sản phẩm, chuyên chở
nguyên vật liệu và chuyên chở sản phẩm đi tiêu thụ. Ngoài ra với vị trí nắm
trong lòng thị trường tiêu thụ, công ty có thể nhanh chóng nắm bắt được thị
hiếu, nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí tiêu thụ như: chi phí vận chuyển,
bốc xếp, bảo quản... làm tăng lợi nhuận.
Quan trong hơn là công ty Nhựa Hà Nội có đội ngũ công nhân có tay
nghề cao, trình độ vững trắc, ý thức trách nhiệm tốt, có thể tiếp thu được sự tiến
bộ của khoa học kĩ thuật mà công ty áp dụng.
Thêm vào đó, công ty còn có thế mạnh nữa là trang bị máy móc thiết bị
hiện đại, phương pháp hạch toán phù hợp, tránh được sự thất thoát vốn do hao
mòn vô hình gây ra.

Với một môi trường cạnh tranh có nhiều đối thủ mạnh như vậy, ta không
thể không nói tới mặt tích cực của môi trường, đó là công ty có điều kiện học
hỏi kinh nghiệm từ các đối thủ của mình.
* Khó khăn:
Thị trường của công ty hẹp (chủ yếu là Hà Nội). Trong khi đó sản phẩm
truyền thống vẫn sản xuất nhưng khối lượng ít, tiêu thụ chậm.
Tuy công ty có chỗ đứng vững chắc tại thị trường Hà Nội nhưng sức ép
cạnh tranh của thị trường này rất lớn, trên thị trường còn có nhiều hàng nhập lậu
giá rẻ, mẫu mã đẹp, chất lượng tốt làm cho công ty gặp không ít khó khăn trong
việc tiêu thụ.
Mặc dù công ty năng động tìm kiếm hợp đồng, đáp ứng mọi nhu cầu cầu
khách hàng đến đặt hàng ở công ty, nhưng khối lượng sản phẩm cần sản xuất
vẫn chưa khai thác hết được công suất của máy móc thiết bị (mới chỉ khai thác
được 80-85% công suất của máy).
Ngoài ra, các điều kiện phục vụ cho sản xuất của công ty còn phụ thuộc,
chưa chủ động được hoàn toàn, nên dẫn tới công ty vẫn còn nhiều giờ nghỉ do lí
do mất điện.
Tóm lại, bên cạnh những thuận lợi là chủ yếu thì công ty vẫn còn tồn tại
một số điểm khó khăn. Nếu công ty biết khai thác triệt để được những lợi thế
của mình và khắc phục được khó khăn một cách kịp thời thì nhất định quá trình
sản xuất kinh doanh của công nói chung và khâu tiêu thụ nói riêng sẽ được diễn
ra tốt hơn.
II. Công tác kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhựa Hà Nội
trong năm 2002.
Để chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh, hàng năm mỗi doanh nghiệp phải
lập cho mình hàng loạt kế hoạch như: kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch lao
động tiền lương, kế hoạch sản xuất, kế hoạch vốn, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm...
tất cả các kế hoạch tập hợp thành kế hoạch sản xuất - kĩ thuật - tài chính của
doanh nghiệp. Trong khuôn khổ đề tài này, ta chỉ đi vào xem xét một chỉ tiêu
của kế hoạch tài chính trong doanh nghiệp đó là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sản

xuất ra của công ty nhựa Hà Nội. Thực chất của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sản
xuất ra là việc dự đoán trước số lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trong kì kế
hoạch, đơn giá bán sản phẩm kì kế hoạch, doanh thu tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt
được trong kì kế hoạch để có thể chủ động tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Bất cứ doanh nghiệp nào muốn cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được dễ
dàng thuận lợi đều nhất thiết phải lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm một cách
chính xác cụ thể. Thông qua kế hoạch đó doanh nghiệp mới có thể tổ chức sản
xuất kinh doanh và tổ chức tiêu thụ nói riêng đi đúng hướng đã định. Nếu công
tác tiêu thụ sản phẩm không được kế hoạch hoá chặt chẽ thì quá trình tiêu thụ sẽ
bị động, sản xuất không phù hợp với tiêu thụ, cung không phù hợp với cầu, do
đó hiệu quả sản xuất kinh doanh mang lại sẽ thấp. Không thể thiếu kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm hoặc kế hoạch tiêu thụ sản phẩm không chính xác còn ảnh
hưởng đến hàng loạt kế hoạch khác như: kế hoạch vật tư, lao động, tiền lương...
khiến cho sản xuất diễn biến thất thường mất cân đối, xa rời thực tế.
Như vậy kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là cần thiết cho mọi doanh nghiệp
sản xuất trước khi bước vào tổ chức sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên lập kế
hoạch này như thế nào để đem lại hiệu quả cao còn tuỳ thuộc vào tình hình cụ
thể của mỗi doanh nghiệp.
1. Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty nhựa Hà
nội.
Nhận thức được tầm quan trong của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, công ty
nhựa Hà nội đã phân tích tình hình, đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của mình và lựa
chọn ra một phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho công ty tương đối
thích hợp.
Căn cứ lập kế hoạch: để đảm bảo kế hoạch được chính xác, khả thi. Việc
lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cả năm của công ty được lập căn cứ vào các hợp
đồng, các đơn đặt hàng sẽ thực hiện trong năm kế hoạch đã được kí kết trước
thời điểm lập kế hoạch, và năng lực sản xuất của công ty.
Hàng năm kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty được lập cho cả năm
và lập theo quí. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm quí có phân chia ra từng

tháng và trong mỗi tháng lại phân ra từng tuần.
Kế hoạch tiêu thụ từng quí được lập đựa vào kế hoạch tiêu thụ cả năm
nhưng có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế mới phát sinh.
Thời điểm lập kế hoạch: công ty nhựa Hà nội tiến hành lập kế hoạch tiêu
thụ sản phẩm cả năm vào tháng 10 năm báo cáo. Đây là thời điểm để công ty
tiến hành lập kế hoạch sản xuất, tài chính kĩ thuật khác. Do tình hình mua
nguyên vật liệu tương đối dễ dàng cho nên với thời điểm lập kế hoạch tiêu thụ
này, công ty vẫn có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ các yếu tố đầu vào cho sản
xuất kinh doanh như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng mua ngoài,
tiền lương... đảm bảo cung ứng sản phẩm cho khách theo đúng như kế hoạch.
Đối với kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng quí, công ty tiến hành lập vào
cuối tháng của quí trước, vì kế hoạch quí khá đơn giản, mọi vấn đề căn bản vẫn
như kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cả năm.
2.Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2002 của công ty nhựa Hà nội.
Cũng như các doanh nghiệp khác, hàng năm cứ đến thời điểm lập kế
hoạch thì công ty nhựa Hà nội đều tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm dựa
trên những căn cứ mang tính khoa học. Và trong năm 2002 kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm của công ty được lập như sau: (Biểu 2)
Trong biểu 2 là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập cho 7 loại sản
phẩm có tỉ trọng doanh thu thực tế lớn nhất đó là: Bộ nội thất 606, nắp bệt
PPII, vỏ tắc te, hộp đĩa CD, tay vịn ghế tựa, vỏ ác qui (50380 GN5 9020), chi
tiết xe máy Honda (80101 GN5 9001).
- Căn cứ vào sổ chi tiết tiêu thụ năm 2001 để tập hợp số lượng tiêu thụ,
đơn giá tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ của năm 2001 của công ty.
- Đối với hình thức bán sản phẩm theo hợp đồng thì căn cứ vào giá bán,
số lượng sản phẩm, thành tiền đã kí trong hợp đồng để lập nên kế hoạch về số
lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì, giá bán kế hoạch và doanh thu dự kiến của
từng hợp đồng. Sau đó tổng hợp các hợp đồng ta sẽ có kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm theo hợp đồng.
- Đối với hình thức bán sản phẩm qua đại lí, bán lẻ thì:

+ Số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì được lập căn cứ vào kết quản dự
đoán nhu cầu thị trường.
+ Đơn giá kế hoạch: là giá do công ty dự kiến dựa trên đơn giá sản phẩm
cuối năm 2001 và tình hình biến động của giá cả thị trường.
+ Trên cơ sở biết được số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì và đơn giá kế
hoạch ta tính được doanh thu dự kiến năm 2002 từ các hình thức bán sản phẩm
này bằng cách nhân số lượng tiêu thụ trong kì với đơn giá kế hoạch tương ứng.
Tổng hợp kế hoạch tiêu thụ sản phẩm từ hình thức bán theo hợp đồng,
gửi đại lí và bán lẻ sẽ được kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2002 về các chỉ
tiêu: số lượng tiêu thụ trong kì, đơn giá kế hoạch và doanh thu dự kiến.
- Vì số lượng sản phẩm sự tính tồn đầu kì kế hoạch bao gồm hai bộ phận
đó là số lượng tồn kho tính đến 31 tháng 12 năm báo cáo và số lượng sản phẩm
xuất giao cho khách hàng nhưng chưa thu được tiền. Mà kế hoạch năm thường
được lập vào tháng 10 năm báo cáo cho nên khối lượng tồn kho đầu kì được
tính dựa trên tình hình sản xuất và tiêu thụ quí I, II, III và dự đoán tình hình sản
xuất và tiêu thụ quí IV năm báo cáo.
- Đối với số lượng sản xuất trong kì lập dựa vào kế hoạch tiêu thụ trong
năm, số dư đầu kì và số dự đoán nhu cầu đột xuất của khách hàng.
- Để đơn giản và nhanh chóng thì số lượng tồn cuối kì được tính căn cứ
vào số lượng tồn đầu kì, số lượng sản xuất trong kì và số lượng tiêu thụ trong kì.
* Nhận xét về công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty
Nhựa Hà nội.
Qua nghiên cứu công tác lập kế hoạch tiêu tụ sản phẩm của công ty
Nhựa Hà nội ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty không đòi hỏi quá
phức tạp. Bên cạnh đó công ty luôn có một đội ngũ cán bộ nòng cốt trong công
tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt kịp thời các diễn biến phức tạp của nhu cầu
thị trường nên con số kế hoạch đưa ra tương đối sát với thực tế.
- Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty hiện nay rất
hợp lí và có cơ sở, vừa dựa vào các hợp đồng, các đơn đặt hàng đã được kí kết

trước thời điểm lập kế hoạch, vừa dựa vào năng lực sản xuất của công ty, thích
hợp với đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của công ty.
- Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập khá chi tiết theo thời gian (từng
quí, từng tháng, từng tuần).
Tuy nhiên kế hoạch sẽ chỉ là “kế hoạch” nếu như khả năng không được
biến thành hiện thực, vì vậy đòi hỏi công ty rất nhiều sự nỗ lực cố gắng hơn
nữa.
Mặc dù việc lập kế hoạch là như vậy, nhưng vấn đề đặt ra là công ty có
thực sự coi trọng kế hoạch đặt ra hay không? Nếu như công tác lập kế hoạch
được thực sự coi trọng thì phương pháp lập kế hoạch này sẽ giúp rất nhiều cho
công ty trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại, nếu công tác lập kế hoạch
không được coi trọng số liệu đưa ra không sát thực thì dù kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm có chi tiết đến đâu cũng khó khả thi. Điều này được đánh giá như sau:
Xét về kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2002 của công ty ta thấy doanh
thu dự kiến của công ty về một số mặt hàng như: bộ NT606, nắp bệt PPII, vỏ
tắc te, hộp đĩa CD, tay vịn ghế tựa, vỏ ắc qui, chi tiết xe máy là
5.563.878.468đồng tăng 10,12% so với doanh thu tiêu thụ sản phẩm năm 2001.

×