Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

ĐĂC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.77 KB, 89 trang )

ĐĂC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỔ CHỨC LƯU THÔNG
PHÂN BÓN VÔ CƠ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM
1-/ TỔ CHỨC LƯU THÔNG TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1-/ Lưu thông và vị trí của lưu thông trong nền kinh tế quốc dân
Lưu thông là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, là cầu nối
trung gian một bên là sản xuất và phân phối và một bên là tiêu dùng.
Thực tế cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế công tác lưu
thông được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, các cơ quan
hành chính, kinh tế can thiệp sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Quan hệ
giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và lao
động sản phẩm. Lưu thông trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho
các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Tóm lại trong nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm của nền kinh tế là: sản xuất
cái gì? sản xuất bằng cách nào? sản xuất cho ai? đều do Nhà nước quyết định thì
lưu thông hàng hoá chỉ là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch
và giá cả được ấn định trước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh hay nói khác đi các doanh nghiệp phải tự quyết định ba
vấn đề kinh tế trung tâm (sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho
ai?) thì lưu thông hàng hoá không thể đơn thuần là việc bán sản phẩm hàng hoá
ra theo kế hoạch và giá cả ấn định trước.
Muốn thực hiện được chức năng là cầu nối trung gian giữa sản xuất, phân
phối và tiêu dùng thì lưu thông hàng hoá phải được hiểu là một quá trình kinh tế
bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách
hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến
bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Quan niệm lưu thông hàng hoá
là quá trình tiêu thụ sản phẩm, Hiệp hội kế toán quốc tế định nghĩa: Tiêu thụ


(bán hàng hàng hoá, lao vụ, dịch vụ) là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản
phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được
tiền hàng hoặc được quyền thu tiền bán hàng.
Lưu thông hàng hoá nếu xét trên mối quan hệ kinh tế quốc tế thì được
chia ra lưu thông hàng hoá trong nước và lưu thông hàng hoá nước ngoài, hay
được gọi là nội thương và ngoại thương (xuất nhập khẩu). Căn cứ vào tính chất
của hàng hoá lưu thông trên thị trường chia ra: lưu thông tư liệu sản xuất (vật tư
thiết bị); lưu thông tiền vốn; sức lao động và cuối cùng là lưu thông vật phẩm
tiêu dùng.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm bốn khâu: sản xuất - phân phối -
trao đổi (lưu thông) - tiêu dùng.
Sản xuất là khâu mở đầu, là quá trình con người sử dụng tư liệu sản xuất
để tạo ra sản phẩm (dưới hai dạng: tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) cho
con người.
Phân phối là một khẩu của quá trình tái sản xuất xã hội nói lên cách chia
sản phẩm (tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) như thế nào tuỳ theo việc ai
là chủ tư liệu sản xuất đó.
Trao đổi là một khẩu trung gian đưa tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu
dùng đến nơi tiêu dùng. Trao đổi có thể tiến hành dưới dạng hiện vật hoặc dưới
dạng mua bán thông qua đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế phát triển sản xuất
hàng hoá, thì từ ngữ trao đổi thường được dùng với hàm ý là mua bán, thông
qua mua bán để trao đổi hàng hoá với nhau. Lưu thông cũng là một hoạt động
kinh tế trung gian gắn sản xuất với tiêu dùng. Tham gia khâu lưu thông này có
Sản xuất Phân phối Lưu thông Tiêu dùng
các hoạt động của các ngành vận tải, thu mua (lưu thông nông sản vật tư) cung
ứng vật tư và hoạt động trao đổi mua bán của nội thương và ngoại thương. Như
vậy khái niệm lưu thông bao hàm nội dung đầy đủ hơn, rộng hơn khái niệm trao
đổi.
Mỗi chu kỳ tái sản xuất bắt đầu từ khâu sản xuất và kết thúc ở khâu tiêu
dùng. Sản xuất là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, còn phân phối

trao đổi (lưu thông) là khâu trung gian, vì sản phẩm sau khi được sản xuất ra
muốn được tiêu dùng phải qua phân phối và trao đổi. Có thể thấy rõ vị trí của
lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội theo sơ đồ dưới đây.
Giữa các khâu của quá trình tái sản xuất có mối quan hệ quyết định và tác
động thúc đẩy lẫn nhau.
+ Xét hình thức bên ngoài, mối quan hệ này thể hiện, trong quá trình sản
xuất, các thành viên của xã hội thích nghi (tạo ra, cải biến) các sản phẩm của tự
nhiên cho phù hợp với yêu cầu của con người; phân phối xác định tỷ lệ mỗi cá
nhân tham gia vào sản phẩm đã sản xuất ra.
+ Lưu thông đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định mà anh ta
muốn dùng phần nhận được do phân phối để trao đổi (lưu thông); cuối cùng,
trong tiêu dùng các sản phẩm trở thành đối tượng tiêu dùng và đối tượng của
việc chiếm hữu cá nhân. Sản xuất sáng tạo ra những sản phẩm thích hợp với các
nhu cầu, phân phối phân chia các vật đo ra theo những quy luật xã hội; trao đổi
(lưu thông) lại phân phối lại cái đã được phân phối theo những nhu cầu cá biệt;
cuối cùng trong tiêu dùng, sản phẩm vượt ra khỏi vận động xã hội đó, trực tiếp
trở thành đối tượng phục vụ cho một nhu cầu cá biệt và thoả mãn nhu cầu đó
trong quá trình tiêu dùng. Như vậy sản xuất thể hiện ra là điểm xuất phát, tiêu
dùng là điểm cuối cùng, phân phối trao đổi là điểm trung gian. Điểm trung gian
này lại có hai yếu tố và phân phối được coi là yếu tố xuất phát từ xã hội và trao
đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân.
+ Đi sâu phân tích mối quan hệ giữa các khâu của quá trình sản xuất, ta
thấy sản xuất luôn là cái quyết định, quy định đối với phân phối, trao đổi và tiêu
dùng. Song phân phối, trao đổi và tiêu dùng không phải chỉ đơn thuần chịu sự
quy định một cách thụ động mà nó còn có tác động trở lại trong mối quan hệ
biện chứng.
* Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất cũng trực tiếp là tiêu
dùng- Tiêu dùng về hai mặt, chủ quan và khách quan: cá nhân phát triển năng
lực của mình trong quá trình sản xuất, đồng thời cũng tiêu phí, tiêu dùng các
năng lực đó trong hành vi sản xuất, cũng giống như hành vi sinh con đẻ cái là sự

tiêu phí sức sống. Mặt khác sản xuất là tiêu dùng các tư liệu sản xuất mà người
ta sử dụng các tư liệu sản xuất đó hao mòn đi một phần phân giải thành những
yếu tố cơ bản của sản phẩm. Vì vậy bản thân hành vi sản xuất trong mọi nhân tố
của nó cũng đồng thời là hành vi tiêu dùng. Trong trường hợp này, sản xuất
được coi là trực tiếp đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng được coi là trực tiếp
ăn khớp với sản xuất. Và được các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất.
Tiêu dùng đồng thời cũng trực tiếp là sản xuất, cũng như trong tự nhiên,
tiêu dùng các nguyên tố hoá chất là sự sản xuất thực vật, hay trong quá trình ăn
uống, một trong những hình thức tiêu dùng con người sản xuất ra bản thân cơ
thể của mình. Điều đó cũng có giá trị đối với mọi hình thức tiêu dùng khác,
những hình thức tiêu dùng này về mặt này hay mặt khác, mỗi hình thức một
kiểu đã góp phần vào việc sản xuất ra con người. Đó là sự sản xuất có tính chất
tiêu dùng. Sự sản xuất có tính chất tiêu dùng này - mặc dù nó là một sự thống
nhất trực tiếp của sản xuất và tiêu dùng - về căn bản khác với sản xuất theo
đúng nghĩa của nó. Sự thống nhất trực tiếp, trong đó sản xuất trực tiếp với tiêu
dùng, và tiêu dùng đồng nhất với sản xuất, vẫn giữ tính chất hai mặt trực tiếp
của chúng.
Vậy, sản xuất trực tiếp là tiêu dùng, tiêu dùng trực tiếp là sản xuất. Mỗi
cái trực tiếp là cái đối lập của nó. Nhưng đồng thời giữa hai cái đó có vận động
môi giới. Sản xuất là môi giới cho tiêu dùng, sản xuất tạo ra những vật liệu cho
tiêu dùng, không có vật liệu này thì tiêu dùng sẽ không có đối tượng. Nhưng
tiêu dùng cũng là môi giới của sản xuất vì chỉ có tiêu dùng tạo ra các chủ thể
cho các sản phẩm, mới làm cho sản phẩm trở thành sản phẩm đối với chủ thể.
Sản phẩm chỉ đạt đến sự kết thúc cuối cùng của nó trong tiêu dùng mà thôi.
Không có sản xuất thì không có tiêu dùng, nhưng không có tiêu dùng cũng
chẳng có sản xuất vì trong trường hợp đó sản xuất sẽ không có mục đích. Tiêu
dùng tạo ra sản xuất thể hiện chỉ có trong tiêu dùng thì sản phẩm mới thực sự
trở thành sản phẩm, mới đem đến cho sản phẩm một sự hoàn thiện cuối cùng và
tiêu dùng tạo ra nhu cầu về một sản phẩm mới.
Sản xuất tạo ra tiêu dùng bằng cách, tạo ra vật liệu cho tiêu dùng xác định

phương thức tiêu dùng, làm nảy ra ở người tiêu dùng các nhu cầu của đối tượng
là sản phẩm do sản xuất tạo ra, do đó sản xuất sản xuất ra đối tượng tiêu dùng,
phương thức tiêu dùng và sự kích thích tiêu dùng.
* Quan hệ giữa sản xuất và phân phối: cơ cấu của sự phân phối hoàn toàn
do cơ cấu của sản xuất quy định. Bản thân sự phân phối là sản vật của sản xuất,
không chỉ về mặt nội dung vì người ta có thể đem phân phối những kết quả của
sản xuất thôi mà về cả hình thức, vì phương thức nhất định của việc tham gia
vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối, hình thái theo đó người
ta tham gia vào sự phân phối. Tuy nhiên phân phối có tính độc lập tương đối đối
với sản xuất. Bởi vì phân phối biểu hiện thành phân phối sản phẩm và do đó
hình như nó rất cách xa đối với sản xuất và tựa hồ như độc lập với sản xuất.
Nhưng trước khi là phân phối sản phẩm thì phân phối là phân phối những công
cụ sản xuất và phân phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác
nhau, cái đó tức là một sự quy định khác của mối quan hệ trên (việc các cá nhân
lệ thuộc vào những quan hệ sản xuất nhất định). Rõ ràng phân phối sản phẩm
chỉ là kết quả của sự phân phối đó mà thôi, sự phân phối này đã bao hàm trong
bản thân quá trình sản xuất và quyết định cơ cấu sản xuất. Như vậy, sản xuất
phải xuất phát từ một sự phân phối nhất định về công cụ sản xuất, nên theo ý
nghĩa đó thì phân phối ít nhất của phải có trước sản xuất, là tiền đề của sản xuất
và do đó quyết định sản xuất.
* Quan hệ giữa sản xuất và trao đổi: bản thân lưu thông chỉ là một yếu tố
nhất định của trao đổi, hoặc là của trao đổi xét trên toàn bộ của nó. Vì trao đổi
chỉ là một yếu tố trung gian, một mặt là giữa sản xuất và phân phối do sản xuất
quyết định, và mặt khác là với tiêu dùng, còn bản thân phân phối lại thể hiện ra
một yếu tố của sản xuất, nên rõ ràng là trao đổi bao hàm trong sản xuất với tư
cách là yếu tố của sản xuất. Trước hết, sự trao đổi hoạt động và năng lực được
thể hiện trong bản thân sản xuất là một bộ phận trực tiếp của sản xuất và là mặt
căn bản của sản xuất; Thứ hai, đối với trao đổi sản phẩm sự trao đổi là phương
tiện để sản xuất ra thành phẩm nhằm phục vụ cho sự tiêu dùng trực tiếp. Trong
phạm vi đó, bản thân trao đổi là một hành vi bao gồm ở trong sản xuất; Thứ ba,

sự trao đổi giữa các nhà kinh doanh với nhau xét về mặt tổ chức của nó là hoàn
toàn do sản xuất quyết định, đồng thời nó lại là hoạt động sản xuất. Trao đổi chỉ
độc lập với sản xuất, không dính gì với sản xuất ở trong giai đoạn cuối cùng mà
thôi - khi sản phẩm được trao đổi trực tiếp để tiêu dùng. Nhưng không có phân
công lao động thì không có trao đổi; trao đổi tư nhân giả định phải có nền sản
xuất tư nhân và cường độ của trao đổi, tính chất phổ cập của trao đổi cũng như
hình thái trao đổi là do sự phát triển và kết cấu của nền sản xuất quyết định. Do
đó trong mọi yếu tố của nó trao đổi hoặc là trực tiếp bao gồm trong sản xuất,
hoặc do sản xuất quyết định.
* Sự phân tích giữa quan hệ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất cho
thấy giữa sản xuất - phân phối- lưu thông - tiêu dùng là những bộ phận của tổng
thể, là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất. Trong đó sản xuất
chi phối bản thân nó với tất cả sự đối lập trong tất cả những tính quy định của
nó, cũng như nó chi phối các yếu tố khác chính là bắt đầu từ sản xuất mà quá
trình lặp lại không ngừng. Bản thân sản xuất đến lượt nó cũng do các yếu tố
khác quyết định. Khi thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô
sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn;
phân phối biến đổi, sản xuất cũng biến đổi theo; cuối cùng thì những yêu cầu
của tiêu dùng quyết định sản xuất.
1.2-/ Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch tập trung
Lưu thông tư liệu sản xuất cũng là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, là
mắt xích không thể thiếu được giữa các chu kỳ sản xuất trong điều kiện phân
công lao động đã phát triển. Lưu thông không chỉ đơn thuần là việc “phân phối
” tư liệu sản xuất trong quá trình tái sản xuất xã hội, nó thực sự là tấm gương
phản chiếu khá đầy đủ bộ mặt kinh tế của một đất nước; Mặc dù vậy bản chất
của nó đó là một khâu của tái sản xuất có thể xem là bắt đầu của sản xuất và
cũng là kết thúc của sản xuất. K- Mác đã tóm tắt lưu thông tư bản bởi công
thức:
T - H (sx) H-T- H(sx)- H-....
(1)

Lưu thông tư liệu sản xuất xảy ra ở (1) tức là nối sản xuất với sản xuất.
Mặt khác K.Mác đã chứng minh luận đề: Lưu thông không tạo ra giá trị hàng
hoá. Nhưng trong (1) Ta thấy có sức xuất hiện của tiền (T) tức là phải có sự trao
đổi thông qua hình thái tiền tệ. Xã hội phát triển hình thành một bộ phận mới đó
là những tổ chức và cá nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông. Trong
đó có kinh doanh tư liệu sản xuất. Lĩnh vực hoạt động này ngày càng phát triển
và trong sự phát triển đa dạng đó nảy sinh những hình thức kinh doanh gây thiệt
hại cho sản xuất và đời sống xã hội, mà trước tiên là nó gây thiệt hại cho chính
những người làm lưu thông thực sự và chân chính.
Từ sơ đồ sau:
TLSX- SLĐ Sản xuất TLTD
Pk A P
k+1
TLSX.
Trong đó giả sử nền kinh tế sản xuất n loại hàng hoá .
Gọi: P
k
= (P
jk
) là giá hàng tại chu kỳ sản xuất thứ k của loại hàng hoá J
(J = 1,n)
A = (a
ij
)nxn - là ma trận chi phí
Để đơn giản giả định tiêu dùng SLĐ khi tính chi phí sản xuất như TLTD
PjaijPi
n
j

=

=
1
Như vậy trong điều kiện cân bằng và nếu kinh tế hầu
như đóng trên thị trường khu vực thì:
Hay P= A.P
∑ ∑ ∑
= = =
+=+=+
n
j
n
j
n
j
aijPjkaijPjkaijPikPik
1 1 1
)1(1
αα
Nếu
tính theo chu kỳ ta sẽ có:
Trong đó α là tỷ xuất lợi nhuận bình quân, tức là:
P
k+1
= (1+α) A P
k.
Do đó, sau t chu kỳ sản xuất:
P
t
= (1 + α )
t

A
t
P
0.
Trong điều kiện bình thường ta có thể chọn α sao cho P
t
hội tụ đến P, với
một giá gốc nhất định. Và công thức P = A.P chính là cơ sở để giải thích nguồn
gốc của lợi nhuận- đó là sức lao động, là chi phí lao động sống. Đương nhiên
không phải vì thế mà lao động vật hoá không có vai trò quan trọng, đôi khi là
quyết định trong việc tạo ra lợi nhuận. Vì vậy vấn đề đặt ra là: Muốn thực hiện
đúng bản chất của lưu thông thì bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào cũng cần
xác định một con đường qua lưu thông ngắn nhất, có thể hiểu theo nghĩa chi phí
chứ không chỉ có ý nghĩa địa lý. Thường thì lưu thông hàng hoá nói chung hay
tư liệu sản xuất nói riêng của các nước phát triển hay chưa phát triển, thì các tổ
chức, cá nhân hay các doanh nghiệp thực hiện công tác lưu thông cũng không
thể bán rẻ và không chịu mua rẻ.
Ở Việt Nam trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các hàng hoá mua
bán trên thị trường chưa phải đã vận động theo quy luật Cung- cầu, nhiều yếu
tố của sản xuất chưa trở thành hàng hoá, chẳng hạn: đất đai, sức lao động, phân
bón, xăng dầu, chất xám, tiền tệ... Nó là nền kinh tế với nhiều hoạt động kinh tế
trong xã hội chưa hoàn toàn theo đúng các quy luật của nền kinh tế, trong đó
việc mua bán tư liệu sản xuất là một trường hợp điển hình. Trong thời kỳ này
lưu thông tư liệu sản xuất ở nước ta được đánh giá là: Lộn xộn, vòng vèo, tính
xã hội thấp.
Điều đó thể hiện ở chỗ người mua của người làm lưu thông không phải là
người sản xuất tức là xảy ra hiện tượng lưu thông -lưu thông ... sản xuất, trong
đó mục đích của lưu thông về mặt xã hội hầu như không phải là sản xuất dù
người mua là người sản xuất. Từ đó dẫn đến tình trạng lộn xộn kinh doanh theo
kiểu “cò mồi, chỉ trỏ”. Mặt khác tạo nên nhu cầu giả tạo hạn chế sức sản xuất,

giá cả không phản ánh đúng quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Hàng hoá tư liệu
sản xuất lưu thông vòng vèo như một “vật ngon” thách thức người sản xuất. Và
cuối cùng chi phí sản xuất tăng do phải chấp nhận giá tư liệu sản xuất quá cao
(giá hạch toán). Còn lưu thông hầu như chỉ để lưu thông- để kiếm lời, qua quá
trình lưu thông nhiều cấp. Vậy các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp làm
công tác lưu thông trong nền kinh tế kế hoạch hoá thu được lợi nhuận ở đâu ra.
Và điều này đựoc khẳng định là chắc chắn do một chủ thể kinh doanh mạnh
dạn bỏ vốn ra, do đó phải thu lãi. Nên mỗi lần mua bán lại phải tuân theo quá
trình là: Khi người sản xuất bán tư liệu sản xuất cho người chuyên kinh doanh
tư liệu sản xuất thì phải trích ra một phần lợi nhuận ròng của mình để “nhờ ”bán
hàng. Phần trích đó sẽ không bé hơn công sức người kinh doanh tư liệu sản xuất
sẽ bỏ ra để bán hộ hàng cho mình. (K.Mác cũng đã chỉ ra lợi nhuận thương
nghiệp hình thành như vậy). Hoặc ở góc độ khác nếu người kinh doanh đầu tiên
không chia lợi nhuận đủ cho người kinh doanh tiếp theo và sau nữa thì phần lợi
nhuận đó có người ứng trước cho họ- đó chính là người sản xuất hay đúng hơn
là chu kỳ sản xuất sau đó. Vì 2 lý do: Thứ nhất có thể họ vẫn còn lãi dù lãi ít ;
Thứ hai là họ buộc phải sản xuất nếu không muốn phá sản và cho không toàn bộ
phần vốn cố định đã mua sắm. Hệ quả dẫn đến là sự luẩn quẩn trong lưu thông và
làm ảnh hưởng đến các tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong trường hợp đó chỉ
có một cách duy nhất là phá sản một số ngành và giảm lương của bản thân người
lao động để có thể làm cho chi phí sản xuất giảm tối thiểu. Điều này dẫn đến thất
nghiệp tương đối và sức lao động, kể cả số người được đào tạo ngày càng hao
mòn, năng suất lao động giảm. Mặc nhiên do yếu tố tâm lý lưu thông chu kỳ sau
sẽ chấp nhận giá cao hơn một chút và chính điều đó làm cho người chuyên kinh
doanh tư liệu sản xuất thấy có thể chấp nhận giá mua vào cao hơn, nếu xét một
chu kỳ sản xuất, lưu thông thì thấy họ có lãi, nhưng nếu kéo dài, chu kỳ tăng lên
thì tỷ lệ lãi giảm dần mà thuế doanh thu tăng dần, quan hệ đó có thể mô tả như
sau:
P
t

T
D
t
L C
T
T
0
t
D
t
: Doanh thu
T: Thuế
C: Chi phí (giả định đơn giản)
Khi đó nếu ta thấy không có sự can thiệp đủ mạnh thì sau chu kỳ(t), kinh
doanh bắt đầu thua lỗ thậm chí phá sản điều đó dẫn đến một nghịch lý đối với
người kinh doanh tư liệu sản xuất chuyên nghiệp, chuyên doanh là càng buôn
càng lỗ chứ không phải buôn gì cũng lãi. Vậy lãi vào tay ai-đó là những nhà
kinh doanh thương mại cấp 2, cấp 3... thậm chí không cần vốn mà chỉ bằng vay
ngân hàng hoặc môi giới - đó là những nhà làm lưu thông kiểu “cò mồi, chỉ trỏ”
Những người tham gia phá trật tự lưu thông này thu lãi. Về mặt lý thuyết lãi còn
được chi vào thuế ngân sách nhà nước, song thực tế không hẳn như vậy. Trong
khi đó rõ ràng thị trường khu vực cũng như thị trường thế giới thông thường có
tính ổn định theo thời kỳ, như vậy một đất nước quá nhiều tư liệu sản xuất như
nước ta thời kỳ này, thì giá tư liệu sản xuất trên thị trường thực chất phụ thuộc
vào giá nhập khẩu. Giá các loại tư liệu sản xuất không trực tiếp phụ thuộc vào
sức sản xuất trong nước mà phụ thuộc vào giá chuyển đổi đồng ngoại tệ mạnh
và các chính sách xuất nhập khẩu. Ở đây lại xuất hiện một nguy cơ cho người
sản xuất cũng như người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất, là làm cho quá
trình thua lỗ vừa kéo dài vừa đột biến không dự báo được.
Trên cơ sở những phân tích đối với hoạt động lưu thông TLSX trong nền

kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số kết luận được rút ra là:
- Nhà nước không kiểm soát được mạng lưới làm lưu thông TLSX bằng
pháp luật, do thị trường chỉ có một giá; mặt khác một số TLSX cần cho sự phát
triển của đất nước, các TLSX chủ chốt cần nhập khẩu nhà nước đã độc quyền -
độc quyền nhập và độc quyền qua chính sách thuế quan.
- Đối với tất cả các cá nhân đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước chưa
thực hiện được chế độ kiểm toán, chưa buộc các cá nhân, đơn vị phải ghi chép
hạch toán, theo một hệ thống chứng từ thống nhất nhằm đảm bảo thu quốc
doanh, thuế không bị thất thoát.
- Nhà nước chưa tổ chức được những cơ quan thông tin kinh tế chuyên
ngành nhằm thông báo không chỉ giá cả mà còn có chức năng hướng dẫn, làm
cầu nối giữa cung- cầu về thông tin qua việc bán tin, bán những bộ số liệu khởi
thảo cũng như đã xử lý. Làm cho Cung- cầu gặp nhau và giảm đáng kể hình thức
lưu thông TLSX không trực tiếp đến người sản xuất. Các doanh nghiệp nhờ đó có
thể kết hợp các thông tin khác nhau mà quyết định sử dụng TLSX.
- Đối với các nhà sản xuất cũng như các tổ chức, cá nhân đăng ký kinh
doanh vật tư cần hoàn thiện dần qui trình nghiên cứu thị trường của mình. Sở dĩ
trong thòi kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung lưu thông rối loạn một phần
cũng do chính người sản xuất không nghiên cứu thị trường cẩn thận, mặt khác,
người kinh doanh TLSX cũng không có cách nắm chắc Cung- cầu hàng mình
kinh doanh. Điều đó tất yếu dẫn đến việc xuất hiện lớp người làm lưu thông chỉ
với mục đích kiếm lời nêu trên. Làm được việc này bản thân các doanh nghiệp
phải được trang bị đầy đủ kiến thức về thị trường đặc biệt là thị trường TLSX
cộng với kinh nghiệm đặc thù thực tiễn khi kinh doanh mỗi ngành hàng.
- Về sở hữu nhà nước chưa có người chủ thực sự của tài sản đó theo
nghĩa chủ sở hữu. Đây là vấn đề phức tạp và không dễ giải quyết ngay. Nguyên
nhân không thể mua rẻ cũng chính từ vấn đề sở hữu sinh ra, thậm chí sản xuất
không cần có lãi (Lãi thực chứ không phải lãi giả) cũng xuất phát từ vấn đề sở
hữu.
1.3-/ Kinh tế thị trường và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất.

1.3.1. Kinh tế thị trường và vai trò của lưu thông.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó
sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều được quyết định thông qua thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các
doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái
độ cư xử của các thành viên tham gia thị trưòng là hướng vào tìm kiếm lợi ích
của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, đến lượt nó, cơ chế thị
trường tác động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường
cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của thị trường, cơ chế thị trường là hàng hoá tiền tệ,
người bán, người mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị
trường là quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự
do. Cơ chế này có một số đặc trưng sau:
-Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao
động, vốn được quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các
quy luật kinh tế.
-Hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều
được tiền tệ hoá.
- Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề
kinh tế cơ bản.
- Cạnh tranh là môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, là yếu tố thúc
đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất.
- Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh
tế, trật tự này được hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị
trường.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ
thống giá cả, nền kinh tế thị trường có khả năng duy trì được sự cân bằng của
sức cung và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu
thốn hàng hoá.

Quá trình tái sản xuất xã hội có liên quan mật thiết với sự tuần hoàn và
chu chuyển của vốn sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện ở lao
động xã hội trong những hình thức khác nhau của nó. Sự vận động của lao động
xã hội tạo thành nội dung các quá trình trao đổi phát sinh từ trong cơ cấu của
nền kinh tế quốc dân và nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường.
Do có mối liên hệ lẫn nhau trong quá trình chu chuyển vốn kinh doanh
nên đòi hỏi phải có sự trao đổi hoạt động giữa những người lao động, giữa
những tập thể sản xuất và các doanh nghiệp ...v.v. Trong nền kinh tế hàng hoá
việc trao đổi được thực hiện được thông qua mua bán trên thị trường. Thường
thì sự trao đổi các hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp mang tính chất trực tiếp
kỹ thuật còn sự trao đổi diễn ra giữa các doanh nghiệp mang tính chất lưu thông
hàng hoá. Rõ ràng lưu thông chỉ là một giai đoạn trao đổi nhất định bao trùm
một lĩnh vực các quan hệ sản xuất rộng lớn hơn.
Lưu thông hàng hoá phát sinh trong lĩnh vực lưu thông; Vậy lĩnh vực lưu
thông là gì? và thực chất là gì? Trước hết cần khẳng định lĩnh vực lưu thông là
lĩnh vực hoạt động mà dựa vào đó sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn kinh
doanh của doanh nghiệp được thực hiện. Nó cũng đòi hỏi có đối tượng lao động
và tư liệu lao động cho việc thực hiện hoạt động đó. Việc hoạt động bình thường
của lĩnh vực này, phù hợp với nhiệm vụ và chức năng xã hội của nó đòi hỏi hình
thành hệ thống các tổ chức kinh doanh như doanh nghiệp thương mại, vận tải,
kho vận, chuẩn bị hàng hoá...v.v. Thông qua hệ thống này một khối lượng hàng
hoá khổng lồ, nhất là về tư liệu sản xuất được lưu chuyển.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi mà chuyên môn hoá sản xuất
và phân công lao động xã hội phát triển cao độ thì hầu như mọi sản phẩm đều
được sản xuất và tiêu dùng dưới hình thức hàng hoá. Vì vậy, sự vận động của
một số lượng lớn sản phẩm xã hội từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh tiêu dùng đã
hình thành quá trình lưu thông. Trên thực tế, quá trình lưu thông chính là quá
trình hàng hoá không ngừng tách rời người sản xuất để tiếp cận với người tiêu
dùng, cũng chính là sự tổng hoà các hành vi chuyển nhượng phát sinh giữa các
chủ thể của thị trường khác nhau. Vì thế trao đổi là tế bào riêng biệt và yếu tố

cấu thành lưu thông. Do mâu thuẫn bên trong của quá trình trao đổi sản sinh ra
tiền tệ, cho nên trong lưu thông, một mặt là hiện tượng biểu hiện trong lưu
thông của một số lượng lớn hàng hoá, mặt khác là sự vận động của tiền tệ
ngược lại với phương hướng lưu thông hàng hoá. Sự tổng hợp các vận động của
tiền tệ trên phương hướng khác nhau đã hình thành lưu thông tiền tệ. Vì vậy quá
trình lưu thông trên thực tế là sự thống nhất của lưu thông hàng hoá và sự lưu
thông tiều tệ. Lưu thông hàng hoá quyết định lưu thông tiền tệ, nhưng lưu thông
tiền tệ lại có tác động ngược lại đến lưu thông hàng hoá nó là chất kích thích lưu
thông hàng hoá, thậm chí sự vận động của tiền tệ còn có tác dụng hướng hàng
hoá chảy về đâu.
Như vậy, lưu thông là một quá trình khách quan có liên hệ với sự vận
động của giá trị sản phẩm xã hội. Lưu thông là sự thay đổi hình thức giá trị của
hàng hoá. Dù là những hàng hoá dùng cho tiêu dùng sản xuất tiêu dùng cá nhân
thì cũng như thế. Bản chất của quá trình lưu thông hàng hoá là mua và bán
những hàng hoá này hay hàng hoá kia được thực hiện khác nhau. Điều này là do
đặc tính về công dụng của những hàng hoá ấy quyết định. Điều cần nhấn mạnh
ở đây là lưu thông hàng hoá là một quá trình thống nhất không phụ thuộc vào
công dụng của hàng hoá nhưng các hình thức tổ chức để chuyển đưa đến tay
người tiêu dùng lại khác nhau.
Vai trò của lưu thông trong nền kinh tế thị trường: Dưới góc độ vi mô, lưu
thông đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Khi quá trình lưu thông kết thúc, tức là sản phẩm của doanh nghiệp được
tiêu thụ, là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào
đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín
của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu
dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác lưu thông hàng
hoá phản ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Lưu thông hàng hoá gắn giữa người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp
cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của
khách hàng.

Trên giác độ vĩ mô, lưu thông hàng hoá có vai trò quan trọng trong việc
cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với
những cân bằng, với những tương quan tỉ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra
được tiêu thụ (lưu thông) tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường, trôi
chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời lưu
thông giúp các đơn vị, ngành, xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch
sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Thông qua lưu thông hàng hoá có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã
hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở
đó các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt hiệu quả
cao nhất.
1.3.2. Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường là quá trình hoạt
động kinh tế đưa sản phẩm vật tư sản xuất sang lãnh vực tiêu dùng. Nó là tên
gọi chung của hoạt động trao đổi vật tư sản xuất dùng cho sản xuất giữa các
hình thức kinh tế, các ngành kinh tế và giữa các doanh nghiệp. Vật tư lưu thông
là sản vật được xã hội phân công, nó phát triển theo sự phát triển của phân công
xã hội và sự phát triển của sản xuất. nó lấy sản xuất làm điểm khởi đầu, lấy
ngành sản xuất khác làm điểm kết thúc, đồng thời nó là cầu nối giữa sản xuất và
tiêu dùng mang tính sản xuất. Sản xuất quyết định lưu thông, lưu thông lại tác
động ngược lại sản xuất. quá trình lưu thông thông suốt, thúc đẩy sản xuất phát
triển nhanh. Ngược lại, quá trình lưu thông ngưng trệ sẽ ảnh hưởng đến sản
xuất. Quá trình đổi mới cơ chế kimh tế đã phá vỡ dần chế độ lưu thông tư liệu
sản xuất quá tập trung trước đây, thay đổi cách làm cũ không hợp lý như: quá
nhiều khâu lưu thông, cơ cấu tổ chức trùng lặp, kho bãi mọi nơi, vận chuyển
vòng vèo... dựa vào các khu vực kinh tế để tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất
hợp lý, tức là dựa vào các nhân tố như: phân bố sản xuất, phân bố các xí nghiệp,
quan hệ cung cầu, quan hệ sản xuất, quan hệ tiêu dùng, giao thông vận tải phải
thực hiện hợp lý hoá, khoa học hoá và tối ưu hoá lưu thông vật tư. Từ đó, thông
qua lưu thông tác động đến sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường,

gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá, thị trường là trung tâm của toàn bộ
quá trình sản xuất và tái sản xuất: Cần sản xuất những hàng hoá gì? với số
lượng bao nhiêu? cần có những dịch vụ gì? đều phải xuất phát từ nhu cầu của
thị trường. Qua thị trường nhu cầu của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng
được thoả mãn. Người sản xuất cần bán hàng, chuyển tiền thành những giá trị
sử dụng khác nhau.
Như vậy, ta có thể thấy rõ thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi,
mua bán hàng hoá, thị trường có tính không gian và thời gian, theo nghĩa này thị
trường có thể là các chợ, các địa danh hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo mặt
hàng, ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu
thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng.
Thị trường hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông
qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn
nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Nếu nói đến thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu
thành thị trường, đó là hàng và tiền, người mua và người bán, từ đó hình thành
các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua-bán, cung-cầu và giá cả hàng hoá.
Nói tới thị trường là phải nói tới cạnh tranh tự do, ở đây luôn diến ra sự
ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên tham gia thị trường để giành phần
có lợi cho mình, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận. Với động lực đó trên thị
trường khó tránh khỏi sự lừa gạt và gian lận.
Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh tự do mua bán, thuận mua vừa
bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường là bình đẳng.
Theo lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường có thể chia thị trường thành
2 loại:
Một là: Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, ở thị trường này, người ta
mua bán những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ như: lương thực, thực phẩm, vải,
quần áo, các phương tiện sinh hoạt gia đình, thuốc chữa bệnh...vv. Những hàng
hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà tăng của sự phát triển kinh tế hàng hoá.

Ngoài những hàng hoá vật chất phục vụ tiêu dùng cho cá nhân và gia đình, có
những hàng hoá phi vật chất được coi là dịch vụ như: sửa chữa, phương tiện đi
lại, sửa chữa Rađio, tủ lạnh, may vá, cắt tóc, làm đầu.... các hoạt động dịch vụ
ngày càng phát triển và đưa lại thu nhập ngày càng cao.
Hai là: Thị trường các yếu tố sản xuất: trên thị trường này người ta mua,
bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất và kinh doanh như các loại nguyên
nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, sức lao động...
Sự phân chia thành 2 loại thị trường như trên là dựa trên cơ sở chủng loại
hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường và dựa vào sự mở rộng, phát triển của
chính phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng ra tới đâu thì thị trường cũng mở
rộng ra tới đó.
Thị trường giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Thị
trường là trung tâm, của toàn bộ quá trình tái sản xuất là lực lượng hướng dẫn,
đặt nhu cầu cho sản xuất.
Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo một mối
quan hệ nhất định, quan hệ tỷ lệ tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, nếu
như kỹ thuật tiên tiến thì với một lượng sức lao động nhất định sẽ vận hành được
nhiều tư liệu sản xuất hơn. Để sản xuất, cần phải có các yếu tố của sản xuất. Thị
trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó, bảo đảm cho quá trình sản xuất
của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường.
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán, thị trường là nơi tiêu
thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp; thông qua thị trường, giá trị hàng
hoá được thực hiện, doanh nghiệp thu hồi được vốn và có lãi.
Như vậy doanh nghiệp là người mua các yếu tố của sản xuất và bán các
sản phẩm mình làm ra. Qui mô của việc mua vào và bán ra sẽ quyết định qui mô
của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp như một cơ thể sống thì thị trường là nơi
bảo đảm các yếu tố cho sự sống và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để sự
sống tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện, là môi
trường cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng về chủng loại hàng hoá cũng như

chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối
với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó có thể nói thị trường điều tiết sản xuất
kinh doanh và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, hoạt
động kinh tế của các doanh nghiệp ngày càng năng động, sáng tạo hơn, hiệu
quả của sản xuất kinh doanh ngày càng được nâng cao.
Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển những lao động tư nhân, lao
động cá biệt thành lao động xã hội.
Cung và cầu là khái quát hoá hai lực lượng cơ bản của thị trường là người
bán và người mua, người sản xuất và người tiêu dùng. Quan hệ cung cầu chỉ ra
rằng, mặc dù giá trị xã hội hay giá trị thị trường đã được hình thành trong quá
trình sản xuất song nó có thể được thực hiện cao hơn, thấp hơn hay ngang bằng
tuỳ theo tương quan cung cầu bằng một mức giá cụ thể. Quan hệ cung cầu ảnh
hưởng trực tiếp đến từng hành vi trao đổi. Trên thị trường, người sản xuất đứng
về phía cung và người tiêu dùng đứng về phía cầu gặp nhau để xác định giá cả và
khối lượng hàng hoá như bán ra, mua vào. Vì vậy cung- cầu giữ vai trò quan
trọng đối với việc hình giá cả thị trường và xác định lượng mua vào.
Cầu là số lượng hàng hoá và người tiêu dùng muốn mua và có khả năng
mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định(Các yếu tố
khác không đổi). Có 2 khái niệm liên quan là cầu cá nhân và cầu thị trường. Cầu
thị trường là tổng hợp của tất cả các cầu cá nhân lại với nhau theo chiều ngang.
Quy luật cầu được biểu hiện số lượng hàng hoá được cầu trong khoảng thời
gian đã cho tăng lên khi giá cả của hàng hoá giảm xuống và ngược lại. Quy luật
cầu tương ứng với trực giác, khi giá cả giảm xuống, người tiêu dùng đã cho có
thể sẵn sàng và có khả năng mua một lượng nhiều hơn và các người tiêu dùng
mới cũng sẵn sàng và có khả năng xâm nhập thị trường.
Giá cả của chính hàng hoá nào đó là yếu tố quan trọng, song không phải
là yếu tố duy nhất quyết định lượng hàng cần mua. Quyết định lượng nhu cầu
còn có nhiều yếu tố khác.Trên thực tế giá cả còn phụ thuộc vào các biến số như:
Thu nhập của người mua; giá cả của hàng hoá và dịch vụ có liên quan; dự đoán
về sự thay đổi của chính hàng hoá đó trong tương lai; thị hiếu của người tiêu

thụ.
Cung hàng hoá được định nghĩa là những số lượng khác nhau của cùng
một loại hàng hoá nhất định mà những người bán sẵn sàng và có khả năng cung
ứng ra thị trường ở mức giá khác nhau. Cung thị trường là tổng hợp của tất cả
các cung cá nhân.Quy luật về cung được biểu hiện, khi giá cả thị trường tăng
lên, người sản xuất thu được lợi nhuận họ sẽ mở rộng thêm sản xuất, hợp lý hoá
sản xuất, tăng năng suất lao động và đưa ra thị trường nhiều sản phẩm hơn, làm
cho cung tăng lên. Ngược lại khi giá cả thị trường giảm xuống, người sản xuất
thu được lợi nhuận ít, hoặc không có lợi nhuận, họ sẽ thu hẹp sản xuất, lượng
sản phẩm được đưa ra thị trường vì thế sẽ ít hơn, vì thế giá cũng sẽ giảm xuống.
Ngoài giá bán hiện tại của sản phẩm lựơng hàng hoá và dịch vụ tung ra thị
trường còn phụ thuộc vào các yếu tố: thuế- thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của
nhà nước, thuế có ảnh hưởng đến đường cung của doanh nghiệp vì rằng thuế là
chi phí mà doanh nghiệp phải chịu. Khi đánh thuế vào hàng hoá thì đường cung
dịch chuyển; trình độ công nghệ có thể áp dụng; giá của các hàng hoá liên quan
trong sản xuất; giá của các yếu tố đầu vào; số lượng người sản xuất...
Kết hợp qui mô về cung và quy luật về cầu chúng ta sẽ hiểu về quy luật
cung cầu.
Theo quy luật cung- cầu thì hàng hoá sẽ được bán theo giá cả vừa phù
hợp với cung, lại vừa phù hợp với cầu.
Giá thị trường có xu hướng vận động xung quanh điểm cân bằng cung
cầu. Nếu giá cả lên cao điểm thì cung sẽ tăng lên, cầu sẽ giảm xuống. Điều này
làm xuất hiện dư thừa, dư thừa sẽ gây ra áp lực làm giá cả giảm xuống, khi giá
cả giảm thấp hơn điểm cân bằng cung cầu thì cung sẽ giảm và cầu lại tăng lên.
Điều này,làm xuất hiện tình trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm là điều
kiện để nâng cao giá lên, giá cả có xu hướng vận động trở về điểm cân bằng
cung cầu.
1.3.3. Yêu cầu của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế
thị trường
Phân tích ở tên cho thấy lưu thông là cầu nối giữa một bên là sản xuất và

phân phối, một bên là trao đổi. Các khâu của quá trình tái sản xuất, có mối quan
hệ mật thiết với nhau trong đó, sản xuất là điểm xuất phát, là khâu quyết định
quá trình tái sản xuất. Do vậy, tổ chức lưu thông không thể đơn thuần là tổ chức
trao đổi hàng hoá mà là một quá trình có liên quan tới tất cả các khâu của quá
trình tái sản xuất. Vì vậy yêu cầu đặt ra là:
+ Muốn giải quyết đúng đắn các vấn đề của tổ chức lưu thông tư liệu sản
xuất thì phải đặt nó trong tổng thể nền kinh tế, trong mối quan hệ chặt chẽ với
sản xuất và đời sống. Tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải dựa vào sản xuất,
chủ động thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặt lưu thông tư liệu sản xuất trong tổng
thể nền kinh tế có nghĩa là đặt nó như những bộ phận hữu cơ của quá trình tái
sản xuất thống nhất bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối-lưu thông, tiêu
dùng. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất là cái gốc có tác dụng quyết định
nhất vì chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất để phân phối, lưu thông và
đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng. Tiêu dùng là mục đích của sản xuất cũng như
của phân khối, lưu thông tư liệu sản xuất tiêu dùng bao gồm tiêu dùng cho sản
xuất, đời sống, quốc phòng,... nó gắn liền với việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ
bản, còn phân phối lưu thông tư liệu sản xuất là những khâu trung gian nối liền
sản xuất với tiêu dùng cho nên công tác lưu thông tư liệu sản xuất phải lấy trình
độ sản xuất, phải lấy khối lượng sản phẩm đã sản xuất ra làm điểm xuất phát;
giữa khả năng và nhu cầu, bảo đảm quá trình tái sản xuất thông suốt và không
ngừng mở rộng trên cơ sở hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng.
+ Muốn giải quyết đúng vấn đề tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải
đặt nó trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý của Nhà nước: lưu thông tư liệu
sản xuất là một khâu cơ bản của quá trình tái sản xuất, một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân, cải tiến công tác tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải đặt
trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý kinh tế. Hệ thống quản lý kinh tế ở nước
ta phải lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hoá tiền tệ, các đòn bẩy kinh tế, thực hiện hạch toán kinh tế. Hoạt động
lưu thông tư liệu sản xuất biểu hiện cụ thể chủ yếu dưới hình thức quan hệ hàng
hoá - tiền tệ (giá cả tiền lương, tài chính, thương nghiệp, thương mại,...) song

trong quá trình quản lý kinh tế đó không phải là những quan hệ hàng hoá tiền tệ
hoạt động tự phát mà là hoạt động có tổ chức có kế hoạch. Nhà nước phải sử
dụng kế hoạch hoá định hướng làm công cụ chính, đồng thời vận dụng quan hệ
hàng hoá tiền tệ để chủ động tổ chức vào quản lý lưu thông tư liệu sản xuất, gắn
nó với sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất và đáp ứng tốt các nhu cầu của
sản xuất, đời sống và quốc phòng. Mặt khác phạm trù lưu thông tư liệu sản xuất
là những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực rất nhạy bén do đó phải phát huy được tác
dụng đòn bẩy của chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, thúc đẩy sản
xuất và lưu thông tư liệu sản xuất theo kế hoạch, thúc đẩy hạch toán kinh tế.
Chúng ta khẳng định lấy kế hoạch hoá làm chính để quản lý lưu thông tư liệu
sản xuất phân phối, nhưng đó không phải là kế hoạch hoá tập trung quan liêu
mà là kế hoạch hoá bảo đảm sự kết hợp lãnh đạo tập trung của Nhà nước với
mở rộng quyền chủ động của các ngành, các cấp nhất là cơ sở. Chúng ta khẳng
định các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối là những đòn bẩy kinh
tế, nhưng là những đòn bẩy thúc đẩy sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo
phương hướng của kế hoạch, thực hiện tốt hạch toán kinh tế. Do đó phải khắc
phục tính chất hành chính - bao cấp trong các chính sách lưu thông tư liệu sản
xuất phân phối. Hoạt động lưu thông tư liệu sản xuất phân phối chủ yếu biểu
hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó trong công tác phân phối
lưu thông tư liệu sản xuất, biết vận dụng đúng đắn các phạm trù giá trị và quy
luật giá trị, biết mở rộng thị trường có tổ chức và quản lý thị trường không có tổ
chức. Cần thấy rằng phạm trù giá trị chỉ là hình thức, là phương tiện để lưu
thông tư liệu sản xuất phân phối, để phân chia và đưa sản phẩm từ sản xuất đến
tiêu dùng. Cho nên trong công tác lưu thông tư liệu sản xuất phân phối phải coi
trọng mặt giá trị, coi trọng quy luật giá trị. Nhưng phải luôn luôn coi giá trị sử
dụng là quan trọng nhất vì chỉ có giá trị sử dụng mới đáp ứng được nhu cầu của
xã hội về sản xuất.
+ Muốn giải quyết đúng đắn vấn đề lưu thông tư liệu sản xuất bảo đảm
thúc đẩy sản xuất, ổn định cải thiện đời sống thì các chính sách lưu thông tư liệu
sản xuất, kết hợp tốt ba lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân. Kết hợp ba lợi ích phải

căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ của từng thời kỳ. Trong điều kiện hiện nay
phải chú ý hơn nữa đến nhu cầu về đời sống của người lao động, người sản
xuất, vì từ lao động và sản xuất mà tạo ra mọi của cải và thu nhập quốc dân để
phân phối cho ba lợi ích. Xét về bản chất ba lợi ích là thống nhất, song cũng có
những mặt mâu thuẫn, lưu thông tư liệu sản xuất, khắc phục những mặt mâu
thuẫn đấy, bảo đảm cho ba lợi ích đó kết hợp hài hoà với nhau tạo ra động lực
thúc đẩy người lao động, các đơn vị cơ sở, các ngành và địa phương chăm lo
đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
+ Lưu thông tư liệu sản xuất phải bảo đảm tốt mối quan hệ giữa công
nghiệp với nông nghiệp, củng cố liên minh công - nông. Kết hợp công nghiệp
với nông nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh tế là một nội dung cơ bản của chúng ta
hiện nay. Để giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đó, trong lĩnh vực lưu thông
tư liệu sản xuất phải có các chính sách và phương thức đúng đắn để tổ chức và
trao đổi sản phẩm giữa Nhà nước và nông dân, thực hiện sự viện trợ tài chính và
kỹ thuật cho nông nghiệp. Huy động nguồn tích luỹ từ nông nghiệp cho công
nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phải
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tăng nhanh sản phẩm hàng hoá phục
vụ đời sống, và tạo nguyên liệu cho công nghiệp, tăng xuất khẩu.
1.3.4. Nhà nước và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất tư liệu sản xuất
trong nền kinh tế thị trường
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự
động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực, các ngành kinh tế mà
không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào.
+ Cơ chế thị trường, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát
huy cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi người. Kích thích áp dụng kỹ
thuật mới, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn
lực... thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều
sâu.
+ Cơ chế thị trường có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con

người và xã hội. Cơ chế thị trường buộc người sản xuất phải không ngừng cải
tiến kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của người
tiêu dùng, trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà tối đa hoá lợi
nhuận, từ đó làm cho chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao.
+ Nhờ những ưu thế của mình, cơ chế thị trường có khả năng đảm bảo tốc
độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà
không một cơ chế nào trước đây có thể sánh được. Paul A.samuelson nhận xét
rằng:”Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách
không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị
trường. Nó là một phương tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá
nhân khác nhau, không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy
tính lớn nhất ngày nay không thể giải được. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất
hiện và cũng như xã hội của loài người nó đang thay đổi.”
Những nhược điểm của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường có thể gây ra những mât ổn định và thường xuyên
phá vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trường
chỉ rõ những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những
căn bệnh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của
nhà nước.
+ Cơ chế thị trường bao hàm cả những thất bại thị trường, nó là môi
trường đẻ ra các tệ nạn kinh tế như buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh
không lành mạnh.... làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
+ Cơ chế thị trường có xu hướng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày
càng tăng giữa các tầng lớp dân cư, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong
xã hội.
+ Trong cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động
kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trường, tâm lý chạy theo đồng tiền
làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu về
mặt xã hội.
+ Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trưởng

kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi
vốn chậm thường không được giới kinh doanh chú ý đầu tư phát triển,
Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trường không phải là một
hệ thống được tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều
nhược điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trường cần phải được khắc phục

×