Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VÀ SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM

PHẠM XUÂN TƯỜNG

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VÀ SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM

PHẠM XUÂN TƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của TS Đỗ Thị Dung. Các trích dẫn, số liệu, kết luận khoa học sử dụng trong luận
văn đều có nguồn gốc rõ ràng, không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu nào đã được
công bố.

Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 2019
Người thực hiện

Phạm Xuân Tường


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành chương trình đào tạo sau đại học và luận văn thạc sĩ này, trước hết tôi xin
trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Mở Hà Nội nói chung và
Khoa đào tạo Sau đại học của Trường nói riêng.
Tiếp đến, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, tiến sĩ Đỗ Thị Dung - người
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình chọn đề tài, lập đề cương nghiên cứu,
xử lý tài liệu và hoàn thiện bản luận văn.
Tôi xin cảm ơn các đồng nghiệp trong cơ quan nơi tôi công tác, gia đình, người
thân và tất cả bạn bè - những người luôn động viên và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.

Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 2019
Học viên

Phạm Xuân Tường


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN .......................................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về lao động chưa thành niên và tuyển dụng, sử dụng lao
động chưa thành niên ...............................................................................................7
1.1.1. Lao động chưa thành niên ..........................................................................7
1.1.2. Tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên ..................................10
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành
niên.........................................................................................................................13
1.2.1. Khái niệm pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên .....13
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật tuyển dụng và sử dụng lao động chưa
thành niên ...........................................................................................................14
1.2.3. Nội dung pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành
niên ........................................................................................................ 17
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................233
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN ...............................................................................................244
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tuyển dụng lao động chưa thành
niên và thực tiễn thực hiện ...................................................................................244
2.1.1. Về điều kiện tuyển dụng lao động chưa thành niên ...............................244
2.1.2. Về thủ tục tuyển dụng lao động chưa thành niên ...................................277
2.1.3. Về giao kết hợp đồng lao động đối với lao động chưa thành niên ..........29
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về sử dụng lao động chưa thành
niên và thực tiễn thực hiện ...................................................................................311
2.2.1. Về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo vệ sức khỏe đối với lao động

chưa thành niên ................................................................................................311


2.2.2. Về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi đối với lao động chưa thành niên
..........................................................................................................................331
2.2.3. Về tiền lương và thu nhập đối với lao động chưa thành niên ................355
2.2.4. Về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất đối với lao động chưa thành niên
..........................................................................................................................366
2.2.5. Về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với lao động chưa thành niên ...366
2.2.6. Về xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp khi sử dụng lao động
chưa thành niên ................................................................................................388
Kết luận chương 2 ...................................................................................................422
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VÀ SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM ...................................................433
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển
dụng và sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam......................................433
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa
thành niên ...............................................................................................................49
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng
và sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay ..................................55
Kết luận chương 3 .....................................................................................................59
KẾT LUẬN ............................................................................................................600
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................622


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLLĐ


: Bộ luật lao động

BLDS

: Bộ luật dân sự

BHXH

: Bảo biểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

ILO

: Tổ chức lao động quốc tế

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động


Nxb

: Nhà xuất bản


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng lao động chưa thành niên ngày càng có xu
hướng gia tăng. Một bộ phận trẻ em có hoàn cảnh gia đình khó khăn đang sớm phải
bán sức lao động để mưu sinh đem lại một số lợi ích vật chất cho gia đình và cho
chính bản thân các em ngày càng trở nên phổ biến. Thay vì các em được đến trường
học tập, tham gia các hoat động vui chơi giải trí, thì các em đã phải lao động sớm để
phụ giúp kinh tế cho gia đình. Điều này cũng có nghĩa các em đang tự đánh mất đi
tương lai của chính mình, các em không được học hành, kém hiểu biết sẽ dẫn đến
tình trạng bị lạm dụng và gây ra hậu quả xấu về trí tuệ, nhân cách.
Để điều chỉnh vấn đề trên và đảm bảo phù hợp với những đặc thù về tâm, sinh
lý, sức khỏe, nhận thức của lao động chưa thành niên, Việt Nam đã cam kết bảo vệ
lao động chưa thành niên thông qua hệ thống pháp luật, chính sách và xây dựng thể
chế liên quan. Đó là xây dựng Bộ luật lao động và một số văn bản hướng dẫn có
những quy định riêng về lao động chưa thành niên, trong đó quy định cụ thể về vấn
đề tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên. Các quy định này đã tạo cơ sở
pháp lý quan trọng trong bảo vệ lao động chưa thành niên và phòng chống lao động
trẻ em. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, các quy định của pháp luật về tuyển dụng
và sử dụng lao động chưa thành niên dần bộc lộ một số bất cập, làm ảnh hưởng không
ít tới quyền lợi về việc làm và thu nhập của lao động chưa thành niên.
Trên thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua, đã có nhiều cơ sở, đơn vị, cá nhân
sử dụng lao động có ý thức chấp hành tốt quy định pháp luật về tuyển dụng và sử
dụng lao động chưa thành niên, như những quy định về việc làm, giao kết hợp đồng
lao động, bảo đảm điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động,… Song bên cạnh
đó, cũng không ít các đơn vị sử dụng lao động thực hiện những quy định về tuyển

dụng và sử dụng lao động chưa thành niên chưa được tốt nên quyền lợi của lao động
chưa thành niên chưa được đảm bảo. Theo Báo cáo về lao động trẻ em quốc gia của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy hiện nay có khoảng gần 2 triệu trẻ

1


em tham gia lao động, chiếm 9,6% trẻ em trên cả nước, trong đó có đến 34% trẻ em
làm việc hơn 42 giờ/tuần. Tình trạng lao động chưa thành niên phải làm nghề, công
việc nặng nhọc, độc lại nguy hiểm xảy ra phổ biến. Tình trạng NSDLĐ vi phạm quy
định về độ tuổi, việc làm, giao kết HĐLĐ, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền
lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động… đối với lao động chưa thành niên xảy ra
ở nhiều địa phương trong cả nước. Điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
trí tuệ, sức khỏe và tâm lý cũng như quyền lợi của lao động chưa thành niên khi tham
gia quan hệ lao động.
Để góp phần hoàn thiện một số quy định của pháp luật lao động về tuyển dụng
và sử dụng lao động chưa thành niên cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện quy định
của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của lao động này, em đã chọn đề
tài “Pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam” để
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo cứu, hiện đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
lao động chưa thành niên hay lao động trẻ em và pháp luật về lao động chưa thành
niên, trong đó đề cập tới pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành
niên.
Trước tiên, có thể kể đến các bài viết được đăng trong các tạp chí khoa học pháp
lý chuyên ngành, như bài viết “Những vấn đề pháp lý về lao động chưa thành niên”
của TS Nguyễn Hữu Chí, Trường Đại học Luật Hà Nội, đăng trên tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 11 năm 2003. Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về lao động chưa thành
niên” của tác giả Đào Mộng Điệp, được đăng trên Thông tin Khoa học số 13 năm

2004 của Trường Đại học Huế. Bài viết “Lao động trẻ em và vấn đề vi phạm pháp
luật đối với lao động trẻ em” của tác giả Đỗ Thị Dung, Trường Đại học Luật Hà Nội,
đăng trên Tạp chí Luật học số 2 năm 2012.
Các bài viết này đã đề cập đến một số vấn đề pháp lý về lao động chưa thành
niên, cụ thể đã đưa ra khái niệm lao động chưa thành niên và đưa ra nhận xét về thực
trạng pháp luật về lao động chưa thành niên, đồng thời đã đề ra các giải pháp nhằm
2


bảo vệ lao động đặc thù này. Tuy nhiên, do giới hạn phạm vi bài viết đăng trên tạp
chí nên các nội dung được đề cập chưa tổng quát được tất cả các vấn đề pháp lý về
lao động chưa thành niên.
Tiếp đó, có một số luận văn nghiên cứu về vấn đề lao động chưa thành niên
như luận văn thạc sĩ luật học “Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt
Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Nhàn, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam, năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học "Pháp luật về lao động trẻ em và thực tiễn
thực hiện ở tỉnh Nghệ An" của tác giả Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người lao
động chưa thành niên ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Huyền Trang, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2008; Luận văn “Các công ước quốc tế về lao động trẻ
em và các vấn đề đặt ra với Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hoàng Phương, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009.
Nhìn chung các luận văn này đã nghiên cứu một số nội dung về lý luận, thực
trạng quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên, từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam. Tuy nhiên,
phần lớn các công trình khoa học nghiên cứu quy định về lao động chưa thành niên
trong Bộ Luật lao động năm 1994 và sửa đổi, bổ sung năm 2002. Một số công trình
nghiên cứu đã đề cập tới lao động chưa thành niên được quy định trong Bộ luật lao
động năm 2012, song chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về pháp luật tuyển
dụng, sử dụng lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển

dụng, sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam.
Vì thế, đề tài luận văn “Pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành
niên ở Việt Nam”, tuy được kế thừa các kết quả của các công trình đã nghiên cứu về
pháp luật lao động chưa thành niên, song không trùng lặp với các đề tài, công trình
khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
pháp luật tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên, thực trạng pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt
3


Nam. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam hiện
nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành
niên và pháp luật về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tuyển
dụng và sử dụng lao động chưa thành niên.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển
dụng và sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Bộ luật lao động năm
2012 về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên và các văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật lao động. Bên cạnh các quy định của pháp luật Việt Nam về tuyển dụng

và sử dụng lao động chưa thành niên, các quy định của pháp luật quốc tế và một số
quốc gia cũng được luận văn đề cập ở mức độ phù hợp.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp
luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên theo quy định của pháp
luật hiện hành, có so sánh với các quy định trong giai đoạn trước dây. Đồng thời
luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao
động chưa thành niên tại Việt Nam dựa trên số liệu công bố của cơ quan có thẩm
quyền trong phạm vi thời gian từ khi Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực đến
nay.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn được thực
hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin cũng như quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước về lao động nó chung, lao động chưa thành niên nói riêng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
lịch sử, phương pháp so sánh luật học, phương pháp nghiên cứu thực tiễn, phương
pháp dự báo khoa học. Các phương pháp này được sử dụng linh hoạt tùy vào nội dung
và yêu cầu của các chương và tiểu mục trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên và pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao
động chưa thành niên. Đánh giá thực trạng pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động
chưa thành niên cũng như thực tiễn thực hiện các quy định về tuyển dụng, sử dụng
lao động chưa thành niên. Đưa ra được một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tuyển
dụng, sử dụng về lao động chưa thành niên và nâng cao hiệu quả thực thi các quy

định pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp các
kiến thức pháp luật về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên cho lao động
chưa thành niên và NSDLĐ sử dụng lao động chưa thành niên, để nhằm giúp họ tuyển
dụng, sử dụng lao động này đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi cho lao động chưa thành
niên. Đồng thời luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho học viên, sinh viên trong
hoạt động nghiên cứu về khoa học luật lao động nói chung. Ngoài ra, ở mức độ nhất
định, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những nhà hoạch
định chính sách, những người quan tâm đến pháp luật lao động chưa thành niên nói
chung, pháp luật về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên nói riêng.
7. Bố cục của luận văn

5


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành
niên và pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tuyển dụng, sử dụng
lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam.

6


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ PHÁP LUẬT

TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. Một số vấn đề lý luận về lao động chưa thành niên và tuyển dụng, sử dụng
lao động chưa thành niên
1.1.1. Lao động chưa thành niên
1.1.1.1. Khái niệm
Trên thế giới hiện chưa có khái niệm thống nhất về “lao động chưa thành niên”.
Theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và Công ước số 182
năm 1999 của ILO về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất không đưa
ra khái niệm “lao động chưa thành niên” mà đưa ra khái niệm “lao động trẻ em”.
Theo đó, “trẻ em được xác định là người dưới mười tám tuổi, trừ khi pháp luật quốc
gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”.1
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, hiện đang sử dụng cả hai thuật ngữ “trẻ
em” và “người chưa thành niên”. Theo Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 thì “trẻ em là
người dưới mười sáu tuổi”. Còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người
chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”.2 Điều đó cho thấy khái niệm “trẻ em”
trong pháp luật Việt Nam là không hoàn toàn đồng nhất với quy định của Công ước
Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, “trẻ em” theo quan niệm của Liên
hợp quốc tương ứng với khái niệm “người chưa thành niên” của pháp luật Việt Nam
là người dưới 18 tuổi.
Trong lĩnh vực pháp luật lao động, khái niệm người lao động chưa thành niên
hiện nay được quy định tại Điều 161 Bộ luật lao động năm 2012. Theo đó, “Người

1
2

Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của ILO.
Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015.

7



lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Quy định này thể hiện sự
phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về xác định độ tuổi, năng lực chủ
thể và trách nhiệm chủ thể, thông qua đó để xác định phạm vi tham gia công việc,
điều kiện bảo đảm và phương hướng bảo vệ lao động chưa thành niên trong quan hệ
lao động. Đồng thời quy định này cũng thể hiện sự phù hợp với quy định của Công
ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của
ILO.
Từ đó có thể thấy rằng lao động chưa thành niên được hiểu là người lao động
dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và giao kết hợp đồng lao động. Đây là nhóm lao
động đặc thù, có những đặc điểm riêng biệt so với người lao động đã thành niên. Mục
đích của lao động chưa thành niên khi xác lập quan hệ lao động là nhằm mang lại thu
nhập để nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình.
1.1.1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên có một số đặc điểm riêng cơ bản như sau:
Thứ nhất, lao động chưa thành niên là người có độ tuổi dưới 18 tuổi. Ở giai
đoạn dưới 18 tuổi, thì về cơ bản thể lực và trí lực của lao động chưa thành niên đang
phát triển, chưa ổn định, họ cần được hỗ trợ, chăm sóc và giáo dục tốt. Do đó, nếu
lao động ở độ tuổi này làm việc trong môi trường làm việc nặng nhọc, độc hại, khắc
nghiệt sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển về mặt thể chất và ảnh hưởng tới
sự phát triển về mặt trí tuệ. Để bảo vệ và tạo điều kiện cho lao động chưa thành niên
được tham lao động mà không bị ảnh hưởng tới sức khỏe, trí tuệ, Bộ luật lao động
năm 2012 đã có những quy định cho phép nhóm đối tượng này tham gia quan hệ lao
động với những công việc phù hợp với sức khỏe và khả năng của mình, đồng thời
pháp luật cũng có các quy định nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành niên vào
các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Thứ hai, lao động chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về sức khỏe
và trí tuệ. Ở độ tuổi dưới 18, lao động chưa thành niên chưa phát triển toàn diện về
thể lực, trí lực và nhân cách, dễ bị thay đổi tác động bởi môi trường khách quan. Bên


8


cạnh đó lao động chưa thành niên còn có nhiều hạn chế về khả năng nhận thức, dễ
dàng bị lôi kéo cho nên rất dễ bị tác động bởi các yếu tố như: môi trường sống, môi
trường học tập, môi trường giáo dục, môi trường lao động,… Khi các yếu đó tác động
một cách tích cực đến lao động chưa thành niên thì họ có thể sẽ phát triển tốt về mặt
nhân cách, trở thành những con người tốt, sự phát triển đó sẽ diễn ra một cách lành
mạnh và tạo ra những mối quan hệ tốt đẹp. Ngược lại, nếu họ sống trong môi trường
không tốt, không có sự giáo dục, chăm sóc, có nhiều yếu tố tiêu cực tác động đến thì
nhân cách của họ rất dễ dàng bị chuyển hướng theo chiều hướng xấu.
Chính vì vậy, các yếu bên ngoài là một trong những yếu tố để hình thành nhân
cách, lối sống của lao động chưa thành niên. Mặt khác, lao động chưa thành niên là
người chưa hoàn thiện về nhận thức, trí tuệ, còn non nớt về xã hội và pháp luật cho
nên rất khó để họ độc lập thực hiện và bảo vệ tính mạng, danh dự của mình. Vì thế,
đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị xâm hại, bị lợi dụng, dụ dỗ, bóc lột lao
động. Xuất phát từ đặc điểm này mà pháp luật lao động cũng có quy định chặt chẽ
các vấn đề liên quan đến việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên.
Thứ ba, lao động chưa thành niên còn thiếu kinh nghiệm sống và làm việc,
chưa hiểu biết pháp luật, hiểu biết xã hội. Do độ tuổi còn trẻ, nên lao động chưa
thành niên chưa có nhiều kinh nghiệm sống, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa
nhận thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ lao động của mình. Cho nên khả năng
tự bảo vệ là chưa cao, nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột, lợi dụng sức lao
động.
Đối với nhóm lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi là nhóm
tuổi tham gia quan hệ lao động khá phổ biến hiện nay. Theo như Bộ luật dân sự năm
2015 thì đây cũng là nhóm tuổi tối thiểu để có năng lực chủ thể khi tham gia vào
quan hệ lao động, có thể tự mình xác lập một số quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao
động (Ví dụ như giao kết hợp đồng lao động ). Việc quy định nhóm tuổi lao động này

căn cứ vào một số yếu tố như: cơ cấu và nhu cầu giải quyết việc làm của xã hội, điều
kiện kinh tế, xã hội của một quốc gia, lực lượng lao động xã hội và một số yếu tố
khác. Bên cạnh đó, việc quy định về nhóm tuổi này hoàn toàn phù hợp với Công ước
9


số 138 năm 1973 về độ tuổi tối thiểu. Mặc dù, pháp luật cho phép độ tuổi này được
tham gia lao động, học nghề nhưng do chưa hoàn thiện đầy đủ về thể chất lẫn tinh
thần nên độ tuổi này chỉ được phép làm những công việc phù hợp với sức khỏe, không
được làm những công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công
việc ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ.
Đối với nhóm lao động dưới 15 tuổi là nhóm tuổi đang trong quá trình hoàn thiện
về trí tuệ, nhân cách và thể lực. Nhóm tuổi này đa phần còn đang là học sinh, vẫn còn
đang đi học và vì một số nguyên nhân mà các em phải lao động để phụ giúp gia đình
hoặc để phục vụ nhu cầu cho chính bản thân mình. Trong khoa học pháp lý thường gọi
đây là những người có năng lực pháp luật lao động không đầy đủ. Vì vậy, khi các em
ở độ tuổi này tham gia lao động chỉ được được làm những công việc nhẹ nhàng, đơn
giản, không ảnh hưởng tới việc học tập của các em. Còn đối với người dưới 13
tuổi,pháp luật quy định không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi trừ một số
công việc do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định.
1.1.2. Tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên
1.1.2.1. Khái niệm tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên
- Khái niệm tuyển dụng lao động chưa thành niên:
Do sức lao động của lao động chưa thành niên tồn tại trong chính bản thân họ,
nên bất kỳ NSDLĐ nào khi bước vào sản xuất kinh doanh đều phải quan tâm đến việc
tìm và lựa chọn lao động chưa thành niên có sức lao động phù hợp với nhu cầu và
đáp ứng được đòi hỏi của vị trí công việc đặt ra.
Theo Từ điển tiếng Việt, “tuyển” được hiểu là việc “chọn lấy một số theo yêu
cầu trong một số đông cùng loại”. Còn “tuyển dụng” được hiểu là chọn và nhận vào
làm việc ở đơn vị (cơ quan, doanh nghiệp,…) nào đó.3 Từ cách hiểu chung này, có

thể hiểu tuyển dụng lao động chưa thành niên là chọn và nhận lao động chưa thành
niên vào làm việc trong các đơn vị sử dụng lao động.

3

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, 2000, tr.1068.

10


Hoạt động chọn và nhận lao động chưa thành niên thích hợp về năng lực, trình
độ, phẩm chất vào làm việc trong đơn vị là quyền của NSDLĐ. Tuy nhiên, để bảo vệ
lao động chưa thành niên và tránh trường hợp NSDLĐ lạm quyền xâm phạm đến
quyền lợi của lao động chưa thành niên, pháp luật các quốc gia đều quy định cụ thể
điều điều kiện tuyển lao động chưa thành niên của NSDLĐ. Cụ thể như: điều kiện
tuyển dụng, phương pháp tuyển dụng, cách thức tuyển (tuyển trực tiếp hay thông qua
tổ chức dịch vụ việc làm hay thuê lại lao động của doanh nghiệp khác), quyết định
tăng, giảm số lao động chưa thành niên cần tuyển, quyết định nhận hay không nhận
lao động chưa thành niên.
- Khái niệm sử dụng lao động chưa thành niên:
Theo Từ điển tiếng Việt, “sử dụng” được hiểu là “đem dùng vào mục đích nào
đó”. Từ cách hiểu này, có thể hiểu “sử dụng lao động chưa thành niên” là “đưa lao
động chưa thành niên vào thực hiện một công việc nào đó”,4 hay nói rõ hơn là bố trí
lao động chưa thành niên vào việc làm, công việc theo yêu cầu của lao động chưa
thành niên và nhu cầu của NSDLĐ theo quy định của pháp luật. Theo đó, khi quan
hệ lao động được xác lập thì cũng là lúc lao động chưa thành niên thực hiện các nghĩa
vụ lao động. Đối lại, lao động chưa thành niên sẽ được hưởng các quyền lợi tương
ứng theo quy định.
Theo đó, NSDLĐ có quyền bố trí công việc cho lao động chưa thành niên mới
tuyển, kiểm tra, giám sát lao động chưa thành niên để đánh giá kết quả lao động. Khi

lao động chưa thành niên hoàn thành công việc tốt sẽ được NSDLĐ khen thưởng.
Nếu lao động chưa thành niên vi phạm các quy định của đơn vị thì có thể bị xử lý kỷ
luật lao động, chấm dứt việc sử dụng lao động. Trong quá trình sử dụng lao động
chưa thành niên, NSDLĐ phải bảo đảm đầy đủ các điều kiện lao động, điều kiện sử
dụng lao động để lao động chưa thành niện làm việc.
1.1.2.2. Ý nghĩa của tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên
Tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên có ý nghĩa như sau:

4

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, 2000, tr.876.

11


- Tạo điều kiện cho lao động chưa thành niên được tham gia quan hệ lao động
hợp pháp.
Vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 32 Công ước của Liên hợp quốc
về quyền của trẻ em. Đó là “Các quốc gia bảo vệ trẻ em không bị bóc lột về kinh tế
và không phải làm bất kì công việc gì nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành
của các em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh
thần, đạo đức hay xã hội của trẻ em”. Do là những người đang độ tuổi phát triển, được
hưởng quyền chăm sóc, bảo vệ và các em không phải tham gia vào quan hệ lao động
sớm và nếu có tham gia thì NSDLĐ cần quan tâm đến lợi ích của các em như tạo điều
kiện vừa học vừa làm, chế độ tiền lương, sức khỏe,… tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất
cho các em được trau dồi thêm kinh nghiệm, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc.
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm việc làm, thu nhập để nuôi sống bản
thân và gia đình, lao động chưa thành niên xác lập quan hệ lao động với chủ sử dụng
lao động. Tuy nhiên, việc xác lập này phải tuân theo quy định của pháp luật, để bảo
vệ lao động chưa thành niên.

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động chưa thành niên.
Mục đích của việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên không chỉ
nhằm đáp ứng nhu cầu lao động của đơn vị sử dụng lao động, mà còn phải bảo đảm
các quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động chưa thành niên, tạo ra môi trường
lao động an toàn, hiệu quả, giúp cho lao động chưa thành niên tránh bị bóc lột sức lao
động hay bị lạm dụng sức lao động từ phía người sử dụng lao động. Từ đó đảm bảo
cho lao động chưa thành niên phát triển đầy đủ thể lực, trí lực đầy đủ và phát triển
toàn diện.
Đối với người sử dụng lao động, việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa
thành niên có ý nghĩa đảm bảo cho NSDLĐ tuân thủ thực hiện tốt các quy định
pháp luật về lao động chưa thành niên và đưa ra được tiêu chuẩn phù hợp để tuyển
dụng, sử dụng lao động chưa thành niên. Từ đó tạo ra năng suất, hiệu quả lao động,
đáp ứng được nhu cầu công việc khi sử dụng lao động chưa thành niên một cách

12


hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và theo đúng quy định của pháp
luật.
- Bảo đảm cho lao động chưa thành niên có cơ hội thăng tiến và đóng góp cho
xã hội.
Việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên còn giúp lao động chưa
thành niên có cơ hội làm việc, trau dồi kinh nghiệm, tăng thu nhập. Từ môi trường
lao động an toàn, ổn định, sẽ giúp họ phấn đấu, có cơ hội tham gia các hoạt động xã
hội. Việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên cũng chính là để người sử
dụng lao động phải tuân thủ thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về sử dụng
lao động chưa thành niên phù hợp với từng nhóm tuổi lao động. Với việc làm ổn định,
thu nhập ổn định, sẽ là cơ hội cho lao động chưa thành niên thực hiện nghĩa vụ công
dân, trách nhiệm xã hội, từ đó có những đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành

niên
1.2.1. Khái niệm pháp luật tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên
Trong hệ thống pháp luật nói chung có nhiều ngành luật điều chỉnh đối với
người chưa thành niên/lao động trẻ em. Theo đó, lao động chưa thành niên với tư
cách là một chủ thể pháp luật, các mối quan hệ xã hội về lao động chưa thành niên
cũng là một trong những đối tượng điều chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp
luật.
Pháp luật về lao động chưa thành niên có phạm vi điều chỉnh rộng liên quan
đến nhiều nhóm quan hệ xã hội, nhiều ngành luật khác nhau. Các ngành luật thuộc hệ
thống pháp luật Việt Nam như: Luật Hiến pháp, Luật trẻ em, Luật Quốc tịch, Luật
Hành chính, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình... đều bảo vệ
quyền của người chưa thành niên theo một đặc thù riêng của ngành luật mình. Có thể
thấy, các ngành luật này có điểm chung đó là đều coi trẻ em hay là người chưa thành
niên là các chủ thể đặc biệt và có các quy định riêng đối với nhóm chủ thể này. Việc
có các quy định riêng như thế là xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của nhóm

13


chủ thể này. Đó là: độ tuổi, khả năng nhận thức, đặc điểm của tâm, sinh lý chưa phát
triển toàn diện và đầy đủ. Đồng thời xuất phát từ quan niệm, tư tưởng nhân đạo,
truyền thống, văn hóa của dân tộc và từ những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Tất cả các quy định của pháp luật đều hướng
đến mục đích bảo vệ quyền lợi của trẻ em/người chưa thành niên, định hướng hoàn
thiện nhân cách, tạo môi trường phát triển toàn diện cho trẻ em/người chưa thành
niên.
Trong lĩnh vực luật lao động, lao động chưa thành niên được coi là nhóm lao
động đặc thù. Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, nhân cách, nên khi tham
gia quan hệ lao động, ngay từ khi tuyển dụng và trong suốt quá trình sử dụng, pháp
luật đều quy định cụ thể. Mục đích là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của lao động chưa

thành niên trong mối tương quan với lao động khác.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao
động chưa thành niên là tổng hợp các quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến tuyển
dụng và sử dụng lao động chưa thành niên, quyền và nghĩa vụ của lao động chưa
thành niên trong quan hệ lao động.
Sự điều chỉnh của pháp luật xác định địa vị pháp lý của lao động chưa thành niên,
đồng thời cụ thể các điều kiện tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên. Địa vị
pháp lý này được hiểu là tổng thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý của lao động chưa
thành niên trong quá trình tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên cùng với
những đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ ấy.
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành
niên
Như đã trình bày, lao động chưa thành niên là nhóm đối tượng đặc thù, nên
việc điều chỉnh pháp luật về tuyển dụng và sử dụng đối với nhóm đối tượng này nhằm
tạo hành lang pháp lý để bảo vệ an toàn cho họ khi tham gia lao động, đảm bảo phát
triển đầy đủ về trí tuệ và thể lực và hạn chế các tác động tiêu cực của thị trường lao

14


động. Vì lẽ đó một số nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với việc tuyển dụng và sử
dụng lao động chưa thành niên được đặt ra đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải tuân
theo.
- Bảo đảm quyền được tham gia quan hệ lao động của lao động chưa thành niên
Tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định “Công dân có quyền làm việc, lựa
chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Theo đó, NSDLĐ cần tôn trọng quyền
được tham gia quan hệ lao động của lao động chưa thành niên. Lao động chưa thành
niên được tuyển dụng và sử dụng bất kỳ công việc gì và nơi làm việc nào mà pháp
luật không cấm tùy theo năng lực của mình và được hưởng các quyền lợi khi tham

gia quan hệ lao động. Do lao động chưa thành niên là đối tượng chưa phát triển đầy
đủ về thể lực, nhận thức, họ đang trong độ tuổi đi học, cần được vui chơi, được quan
tâm chăm sóc từ gia đình và những người xung quanh, nhưng có thể vì nguyên nhân
nào đó mà các em phải lao động kiếm sống. Có thể do nghèo đói dẫn đến tình trạng
các em phải kiếm sống. Hoặc do cuộc sống gia đình rơi vào hoàn cảnh eo le, không
có nguồn nuôi dưỡng, túng thiếu, nguồn thu nhập thấp mà một số gia đình không đủ
điều kiện cho con em mình theo học buộc các em phải nghỉ học để phụ giúp gia đình
và cũng có thể là do bản thân các em không muốn đi học, thích kiếm tiền. Mỗi người
một hoàn cảnh vì vậy pháp luật cần thừa nhận và tôn trọng quyền tham gia quan hệ
lao động của lao động chưa thành niên.
- Cấm phân biệt, đối xử về tuyển dụng và sử dụng đối với lao động chưa thành
niên
Khi tham gia các quan hệ trong nền kinh tế thị trường, vì nhu cầu lợi ích, các
chủ thể thường tìm cách thiết lập và thực hiện những mối quan hệ có lợi nhất cho
mình. Điều đó đồng nghĩa với việc các chủ thể “yếu thế”, “kém may mắn” sẽ khó có
cơ hội cạnh tranh một cách bình đẳng. Điều này đặc biệt đúng với việc tham gia của
các chủ thể trong thị trường lao động. Trong thực tế quan hệ lao động, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, người lao động thường ở vào vị trí yếu thế hơn so với
NSDLĐ. Điều này dễ tạo cho NSDLĐ tâm lý lạm dụng quyền quản lý, điều hành để
chèn ép, ngược đãi, cưỡng bức, bóc lột người lao động, NLĐ nói chung, lao động
15


chưa thành niên nói riêng trong quá trình lao động. Vì thế, đây là nguyên tắc được
nhiều quốc gia quan tâm trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về việc làm
đối với lao động chưa thành niên.
Nguyên tắc này đã được quy định cụ thể tại Điều 32 Công ước của Liên hợp
quốc về quyền của trẻ em “Các quốc gia bảo vệ trẻ em không bị bóc lột về kinh tế và
không phải làm bất kì công việc gì nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của
các em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần,

đạo đức hay xã hội của trẻ em”. Trẻ em là những người đang độ tuổi phát triển, được
hưởng quyền chăm sóc, bảo vệ và các em không phải tham gia vào quan hệ lao động
sớm và nếu có tham gia thì NSDLĐ cần quan tâm đến lợi ích của các em như tạo điều
kiện vừa học vừa làm, chế độ tiền lương, sức khỏe,… tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất
cho các em được trau dồi thêm kinh nghiệm, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc.
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp trong tuyển dụng và sử dụng lao động
chưa thành niên
Để tạo điều kiện cho lao động chưa thành niên tham gia quan hệ lao động và
bảo vệ quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên trong quá trình tham gia quan
hệ lao động, pháp luật các quốc gia đều chú trọng nguyên tắc này. Mục đích là nhằm
giúp lao động chưa thành niên đảm bảo được lợi ích và tránh trường hợp NSDLĐ vì
quyền và lợi ích của mình mà xâm phạm hoặc cản trở các gây ảnh hưởng đến quyền
lợi hợp pháp của lao động chưa thành niên.
Nguyên tắc này đã được thể hiện rõ trong BLLĐ năm 2012, tại Điều 163 của
Bộ luật này đã quy định: Pháp luật nghiêm cấm NSDLĐ sử dụng lao động chưa thành
niên làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc
ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành. Không được sử dụng lao động chưa
thành niên làm các công việc liên quan đến sản xuất kinh doanh chất cồn, rượu, bia,
thuốc lá hoặc các chất gây nghiện. Đồng thời, phải bố trí thời gian làm việc hợp lý,
không được vượt quá thời gian mà BLLĐ đã quy định.

16


1.2.3. Nội dung pháp luật về tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên
1.2.3.1. Tuyển dụng lao động chưa thành niên
Tuyển dụng lao động chưa thành niên là hoạt động quan trọng nhằm để tạo điều
kiện cho các bên NSDLĐ và lao động chưa thành niên xác lập quan hệ lao động.
Tuyển dụng lao động tốt sẽ giúp NSDLĐ chọn được lao động như ý, phù hợp với nhu

cầu của quá trình sản xuất, kinh doanh, từ đó sử dụng lao động hiệu quả để nâng cao
năng suất lao động. Còn lao động chưa thành niên có cơ hội có việc làm.
- Điều kiện tuyển dụng lao động chưa thành niên:
Điều kiện tuyển dụng lao động chưa thành niên được hiểu là những điều kiện
cần phải có để lựa chọn được lao động chưa thành niên phù hợp với yêu cầu công
việc. Đó là các điều kiện về độ tuổi, sức khỏe và công việc được được làm hoặc cấm
làm.
Xuất phát từ tầm quan trọng của bước tuyển dụng này mà từ khi thành lập đến
nay, ILO đã có gần 30 văn kiện đề cập đến việc bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bóc
lột và lạm dụng lao động. Đặc biệt trong Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu (1973)
và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999), ILO đưa ra các tiêu chuẩn về việc làm khi tuyển
dụng lao động chưa thành niên.
Pháp luật các quốc gia, tùy vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mình mà
quy định cụ thể hoặc quy định khung. Một số quốc gia quy định khung thông qua các
điều cấm NSDLĐ được làm khi tuyển dụng lao động chưa thành niên. Một số quốc
gia khác, quy định cụ thể các điều kiện tuyển dụng, thủ tục tuyển dụng và điều kiện
giao kết hợp đồng lao động giữa các bên. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng
có quy định riêng áp dụng cho lao động chưa thành niên trong lĩnh vực việc làm. Pháp
luật quy định 2 nhóm độ tuổi, theo đó người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi, có đủ sức khỏe và được làm những công việc pháp luật không cấm. Đối với
người dưới 15 tuổi, pháp luật quy định họ phải có đủ sức khỏe, và chỉ được làm những

17


công việc pháp luật cho phép, phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển toàn
diện.
- Thủ tục tuyển dụng lao động chưa thành niên:
Khi tuyển dụng lao động chưa thành niên, NSDLĐ và lao động chưa thành niên

phải tuân theo trình tự nhất định theo quy định của pháp luật. Mục đích là nhằm tránh
trường hợp NSDLĐ lạm quyền không bảo đảm tuyển lao động chưa thành niên một
cách hợp pháp.
Thủ tục tuyển dụng lao động chưa thành niên về cơ bản được thực hiện theo
thủ tục tuyển dụng NLĐ nói chung. Thông thường bao gồm các trình tự: 1) Thông
báo tuyển dụng, nội dung thông báo bao gồm: a) Nghề, công việc, trình độ chuyên
môn, số lượng cần tuyển; b) Loại hợp đồng dự kiến giao kết; c) Mức lương dự kiến;
d) Điều kiện làm việc cho từng vị trí công việc; 2) Hồ sơ đăng ký dự tuyển lao động
của người lao động gồm các văn bản theo yêu cầu của NSDLĐ; 3) Thông báo kết quả
thi tuyển và giao kết HĐLĐ.
- Giao kết hợp đồng lao động đối với lao động chưa thành niên:
Với tư cách là một người lao động, khi tham gia vào quan hệ lao động, lao động
chưa thành niên cũng phải giao kết hợp đồng lao động. Theo Tổ chức lao động quốc
tế thì hợp đồng lao động là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý giữa một NSDLĐ và
một công nhân, trong đó xác lập các điều kiện và chế độ làm việc. Trên cơ sở đó pháp
luật Việt Nam quy định tại Điều 15 BLLĐ 2012 quy định “Hợp đồng lao động là sự
thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương,
điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”. Qua quy
định này, có thể thấy hợp đồng lao động mang bản chất chung của khế ước, đó là sự
thỏa thuận tự nguyện giữa các bên. Quy định về điều kiện giao kết hợp đồng lao động
của lao động chưa thành niên được xác định chủ yếu dựa trên cách phân loại tiêu chí
độ tuổi. Mỗi nhóm độ tuổi khác nhau thì được làm các công việc tương ứng mà pháp
luật đã quy định. Ngoài ra còn phải đáp ứng điều kiện về nội dung công việc mà pháp
luật đã quy định, khi đó thì hợp đồng mới được coi là hợp pháp.

18


×