Tải bản đầy đủ (.pdf) (262 trang)

Luận án Tiến si Tôn giáo học: Đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.56 MB, 262 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ HÙNG YÊN

ĐẠO TIN LÀNH
Ở VÙNG TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ HÙNG YÊN

ĐẠO TIN LÀNH
Ở VÙNG TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 62.22 03 09

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Ngô Hữu Thảo
2. TS. Trần Hữu Hợp

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN

Đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi. Các kết quả, thông tin, số liệu trong luận án là có xuất
xứ rõ ràng và trung thực.

Tác giả luận án

Lê Hùng Yên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Các tư liệu liên quan đề tài luận án
1.2. Giá trị của các công trình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra
1.3. Lý thuyết nghiên cứu
1.4. Một số khái niệm sử dụng cho luận án
Chương 2: QUÁ TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở
VÙNG TÂY NAM BỘ

Khái quát những tác nhân ảnh hưởng đến đạo Tin Lành ở vùng
Tây Nam Bộ
2.2. Quá trình du nhập và phát triển của đạo Tin Lành ở vùng Tây
Nam Bộ
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠO TIN LÀNH

Trang
1
7

7
24
26
29
34

2.1.

VÙNG TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

3.1.
3.2.

Thực trạng đạo Tin Lành vùng Tây Nam Bộ hiện nay
Thực trạng đạo Tin Lành trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, chính trị vùng Tây Nam Bộ
3.3. Đặc điểm của đạo Tin Lành vùng Tây Nam Bộ hiện nay
Chương 4: XU HƯỚNG, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Xu hướng phát triển của đạo Tin Lành vùng Tây Nam Bộ
4.2. Những vấn đề đặt ra từ đạo Tin Lành vùng Tây Nam Bộ đối
với công tác tôn giáo hiện nay
4.3. Khuyến nghị đối với hệ thống chính trị nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác với đạo Tin Lành vùng Tây Nam Bộ
KẾT LUẬN
DANH SÁCH CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

34

48
69
69
82
97
107
107
115
123
139
141
142
156


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GHBTVN

:

Giáo hội Báp-tít Việt Nam

Hội TGPÂLH

:

Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp

Ms


:

Mục sư

MSNC

:

Mục sư nhiệm chức

MTTQVN

:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

TL VNMN

:

Tin Lành Việt Nam miền Nam

TNB

:

Vùng Tây Nam Bộ của Việt Nam



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án
Đạo Tin Lành ra đời ở Châu Âu đầu thế kỷ XVI và đã có ảnh hưởng rất
lớn tới đời sống chính trị, xã hội và văn hoá, tới cả tâm lý, lối sống, phong tục
tập quán của nhiều quốc gia, nhất là quốc gia tư bản, cho đến tận ngày nay. Đạo
Tin Lành chính thức truyền vào Việt Nam năm 1911, với mốc đánh dấu việc
thành lập Hội thánh Tin Lành đầu tiên ở Đà Nẵng.
Đến trước năm 2004, khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, đạo Tin Lành
có khoảng 40 vạn tín đồ. Nhưng đến năm 2017, theo Vụ Tin Lành, thuộc Ban
Tôn giáo Chính phủ, tôn giáo này đã có 10 tổ chức hệ phái được Nhà nước công
nhận, với 1,4 triệu tín đồ (tăng hơn 3 lần chỉ sau 13 năm), 4.000 điểm nhóm, hơn
600 chi hội, hơn 900 mục sư, hơn 600 mục sư nhiệm chức, khoảng 1.000 truyền
đạo, với hơn 300 nhà thờ. Vậy đây là một tôn giáo phát triển nhanh và mạnh vào
bậc nhất, trong 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận. Lý giải về việc đạo Tin
Lành tăng mạnh đến như vậy, các nhà tôn giáo học Việt Nam thường chú ý tới
yếu tố tự thân, rằng nó là hiện thân của phong trào cải cách tôn giáo ở Châu Âu,
tiếp thu được tính dân chủ, hiện đại của chính trị - văn hoá Hoa Kỳ, hội nhập
quốc tế cao và phương thức truyền giáo rất linh hoạt. Nghiên cứu về đạo Tin
Lành ở Tây Nam Bộ, nghiên cứu sinh sẽ có cơ sở bổ sung cho kết luận trên, từ
phương diện yếu tố môi trường của tôn giáo này, đó là nền tảng kinh tế - xã hội văn hoá của vùng đất, con người Tây Nam Bộ Việt Nam.
Đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ, theo báo cáo của 13 tỉnh, đến năm
2016, có 08 hệ phái được công nhận tổ chức và được cấp đăng ký hoạt động;
ngoài ra còn nhiều hệ phái, điểm nhóm Tin Lành chưa được công nhận, chưa
cấp đăng ký hoạt động, với tổng số 86.684 tín đồ, chiếm tỉ lệ 1,45% so với
tổng số tín đồ các tôn giáo vùng Tây Nam Bộ, là 5.944.807 người và bằng
0,49% tổng dân số của vùng, là 17.594.400 người. Vậy, đạo Tin Lành không



2

phải là tôn giáo có số lượng tín đồ đông ở vùng Tây Nam Bộ, song tôn giáo này
lại có nhiều đặc điểm tiêu biểu cả về phương diện tôn giáo học và thực tiễn xã
hội - chính trị, đòi hỏi phải được nghiên cứu làm rõ.
Đạo Tin Lành từ lâu đã tồn tại như một thực thể tôn giáo - văn hoá - xã
hội của vùng Tây Nam Bộ, song đang còn nhiều vấn đề đặt ra. Như: Tin Lành
có các yếu tố tích cực và tiêu cực đang được các cộng đồng xã hội Tây Nam Bộ
thừa nhận đến mức độ nào; có ảnh hưởng ra sao đến đời sống xã hội ở vùng
Tây Nam Bộ; có sự phát triển, biến đổi mang tính phổ biến, hoặc tính đặc thù
ra sao ở Tây Nam Bộ, một địa bàn rất đa dạng về tôn giáo và rất phong phú về
dân tộc… Vậy, việc nghiên cứu là cấp thiết nhằm phát triển nhận thức xã hội
và đóng góp cho chuyên ngành tôn giáo học.
Hơn nữa, thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam, với tinh thần đổi
mới sâu sắc, đã ban hành chính sách, pháp luật về công tác tôn giáo, trong đó
có chủ trương riêng đối với đạo Tin Lành. Theo đó, ở vùng Tây Nam Bộ, đạo
Tin Lành đã trực tiếp chịu sự điều chỉnh bởi Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, của
Thủ tướng Chính phủ (2005), về một số công tác đối với đạo Tin Lành, và đã
phát triển rất nhanh, thậm chí đột biến. Sự phát triển như vậy, một mặt, làm cho
sinh hoạt của tôn giáo này thuận lợi hơn trước rất nhiều; nhưng mặt khác, đã làm
nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp mới về văn hoá, xã hội, kể cả ở phương diện an
ninh chính trị - xã hội trên địa bàn Tây Nam Bộ... Giải quyết tình hình này theo
chủ trương của Đảng và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, chủ thể công tác tôn giáo ở
Tây Nam Bộ còn vẫn chưa có sự nhất quán; định kiến đối với đạo Tin Lành do
lịch sử để lại đã ảnh hưởng không ít đến nhận thức của cả chủ thể và khách thể
công tác tôn giáo. Điều này khiến một bộ phận tín đồ, chức sắc Tin Lành nhận
thức sai hoặc chưa đầy đủ về chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước, nên việc thực hiện chủ trương phát huy nguồn lực của đạo
Tin Lành còn nhiều khó khăn. Đó cũng là vấn đề để các nhà lãnh đạo, quản lý

xã hội và giới khoa học quan tâm nghiên cứu, giải quyết.


3

Những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ đạo Tin Lành đối với nhận
thức xã hội và với hệ thống chính trị Tây Nam Bộ như nêu trên, trở thành vấn
đề cấp bách để nghiên cứu sinh triển khai đề tài: "Đạo Tin Lành ở vùng Tây
Nam Bộ hiện nay", làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Tôn giáo học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra từ đạo Tin Lành ở
vùng Tây Nam Bộ, từ đó khuyến nghị đối với công tác tôn giáo nhằm tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, để đồng bào theo đạo Tin
Lành đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu quá trình phát triển của đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ.
- Làm rõ thực trạng, đặc điểm của đạo Tin Lành trên địa bàn vùng Tây
Nam Bộ và những vấn đề đặt ra hiện nay.
- Dự báo tình hình và đề xuất khuyến nghị nhằm đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, để tín đồ, chức sắc, chức việc của đạo Tin Lành đồng
hành cùng sự phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay.
Thời gian: Từ năm 2004 đến nay, sau khi có Thông báo số 160-TB/TW
của Ban Bí thư Khóa IX "Về chủ trương công tác đối với đạo Tin Lành".
Không gian: Do địa bàn vùng Tây Nam Bộ rộng lớn, có nhiều hệ phái
Tin Lành hoạt động, có hệ phái đã hoạt động lâu năm, cũng có một số hệ phái

mới hoạt động, có hệ phái đã được nhà nước công nhận tổ chức, có hệ phái
chưa được công nhận tổ chức,... Vì vậy khi nghiên cứu về đạo Tin Lành vùng
này, nghiên cứu sinh tập trung chủ yếu vào địa phương có đông tín đồ, có nhiều
hệ phái. Từ đó, nghiên cứu sinh nhận thấy: trong số 13 tỉnh, thành phố vùng


4

Tây Nam Bộ của Việt Nam (TNB), thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long là
hai địa phương có đông tín đồ, nhiều hệ phái Tin Lành và các hệ phái thường
lấy Cần Thơ làm trung tâm để phát triển và lan tỏa ra các tỉnh, thành khác. Vậy
nên, nghiên cứu sinh chọn Cần Thơ và Vĩnh Long là hai địa phương chính để
thực hiện điền dã, khảo sát, thống kê...
Ở Cần Thơ nghiên cứu sinh tập trung vào các địa phương mang tính đại
diện như: Quận Ninh Kiều là nơi có hai Ban Đại diện của hai hệ phái đông tín đồ
nhất vùng TNB, với nhiều cơ sở tôn giáo, nhiều chi hội và điểm nhóm. Huyện
Phong Điền, Thới Lai là nơi Giáo hội Báp-tít Việt Nam phát triển mạnh, đông
tín đồ. Quận Ô Môn là nơi điểm nhóm có đông tín đồ là người dân tộc Khmer...
Còn về hệ phái, nghiên cứu sinh tập trung vào hai hệ phái có tính đại
diện cao, là:
- Tin lành Việt Nam miền Nam (TL VNMN): là hệ phái hoạt động ổn
định lâu dài, có đông tín đồ và cơ sở tôn giáo.
- Giáo hội Báp-tít Việt Nam: là hệ phái phát triển khá nhanh, đại diện
cho các hệ phái mới được công nhận tổ chức.
Về số liệu, nghiên cứu sinh khảo sát và sử dụng số liệu thống nhất của
Ban Tôn giáo 13 tỉnh, thành vùng Tây Nam Bộ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Triển khai luận án, nghiên cứu sinh đặt một số câu hỏi nghiên cứu như sau:
Câu hỏi 1: Thực trạng tình hình và đặc điểm của đạo Tin Lành ở vùng

Tây Nam Bộ hiện nay ra sao, tại sao đạo Tin Lành có thể phát triển nhanh, mạnh
ở vùng đa tôn giáo - Tây Nam Bộ?
Câu hỏi 2: Đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay, từ yếu tố cộng
đồng, đức tin cho đến hành vi tôn giáo, có những đặc điểm và những vấn đề
gì đặt ra cần quan tâm?
Câu hỏi 3: Trách nhiệm trực tiếp của chủ thể công tác đối với đạo Tin


5

Lành - hệ thống chính trị các cấp vùng Tây Nam Bộ, phải như thế nào để đạo
Tin Lành hoạt động tuân thủ pháp luật, hài hòa cùng xã hội?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: quá trình đạo Tin Lành truyền giáo vào vùng Tây Nam
Bộ với những khó khăn nhiều hơn thuận lợi, nhưng đạo Tin Lành vẫn trụ
vững ở vùng đất này.
Giả thuyết 2: đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay đang thể hiện
như một thực thể tôn giáo và cùng các tôn giáo khác tạo nên sự đa dạng hóa tôn
giáo vùng Tây Nam Bộ.
Giả thuyết 3: chủ thể công tác đối với đạo Tin Lành - hệ thống chính trị
các cấp vùng Tây Nam Bộ, cần chủ động tác động để đạo Tin Lành phát triển
hài hòa cùng xã hội Tây Nam Bộ.
4.3. Cơ sở lý luận
- Về lý luận: Đề tài luận án được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn
giáo; đồng thời có sự tham khảo một số cơ sở lý luận khác về tôn giáo.
4.4. Phương pháp nghiên cứu
- Về phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng những phương pháp luận
chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tôn giáo học; đồng thời sử

dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, như xã hội học tôn giáo, nhân học
tôn giáo, văn hoá tôn giáo, chính trị học và kết hợp phương pháp lịch sử với
phương pháp logic. Trong đó, các phương pháp của xã hội học như: xử lý tư
liệu, khảo sát, phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi, được coi trọng.
Nghiên cứu sinh phỏng vấn sâu, điều tra bằng bảng hỏi với 200 đối tượng
[Bảng 16, 17, 18, 19, 20, 21] ở 50 điểm nhóm và chi hội Tin Lành; 30 chức sắc
các hệ phái Tin Lành; 20 công chức làm công tác tôn giáo tại cơ sở của hệ thống
chính trị; lấy ý kiến bằng bảng hỏi được thực hiện với 100 chức sắc, tín đồ Tin
Lành, trong đó có 30 tín đồ người dân tộc Khmer.


6

Các phương pháp xã hội học đó giúp cho nghiên cứu sinh trong việc định
lượng và định tính kết quả nghiên cứu và đánh giá sát, đúng mức độ hiệu quả
của công tác tôn giáo đối với đạo Tin Lành vùng TNB ở cả phương diện chủ thể
công tác và đối tượng - khách thể công tác.
5. Đóng góp mới của luận án
- Lần đầu tiên, đề tài luận án nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện quá trình truyền giáo, phát triển của đạo Tin Lành ở vùng Tây Nam Bộ,
từ năm 1919 cho đến nay.
- Từ phương diện tôn giáo học, đề tài luận án nghiên cứu khảo sát làm
rõ thực trạng của đạo Tin Lành ở Tây Nam Bộ, với hơn 10 hệ phái, từ đó khái
quát vấn đề đặt ra đối với công tác tôn giáo của hệ thống chính trị và với các
tổ chức hệ phái Tin Lành trên địa bàn.
- Đề tài luận án khuyến nghị đối với hệ thống chính trị vùng Tây Nam
Bộ, nhằm tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tôn giáo và để tín đồ, chức sắc,
chức việc đạo Tin Lành đóng góp tích cực vào sự phát triển toàn diện, bền
vững vùng Tây Nam Bộ hiện nay và mai sau.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về lý luận, luận án góp phần bổ sung, làm phong phú lý luận chuyên
ngành tôn giáo học và làm rõ thêm tính quy luật của mối quan hệ giữa đạo Tin
Lành với đời sống xã hội, qua thực tiễn tôn giáo - xã hội vùng Tây Nam Bộ.
Về thực tiễn, luận án từ việc làm rõ thực trạng đạo Tin Lành vùng Tây Nam
Bộ, đã đề xuất khuyến nghị có tính giải pháp đối với việc đổi mới công tác đối với
đạo Tin Lành của hệ thống chính trị Tây Nam Bộ.

Luận án còn là một nguồn tài liệu tham khảo quý đối với công tác
giảng dạy tôn giáo học của các trường đại học và trường chính trị của các
tỉnh, thành vùng Tây Nam Bộ hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
có kết cấu gồm 4 chương, 12 tiết.


7

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. CÁC TƯ LIỆU LIÊN QUAN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về vùng đất và cư dân vùng Tây
Nam Bộ
Nghiên cứu về vùng đất và con người Tây Nam Bộ, đã có nhiều công
trình khoa học và tiêu biểu là:
Sơn Nam với sách Đồng bằng sông Cửu Long: Nét sinh hoạt xưa và
văn hóa miệt vườn [99], đã hệ thống quá trình khai khẩn vùng đất Tây
Nam Bộ thuở xa xưa, nơi "rừng thiêng, nước độc", song được cư dân nơi
đây dày công biến thành vùng đất trù phú, thành vựa lúa lớn nhất Việt
Nam. Cũng ở nơi đây, cư dân đã lập nên những "miệt vườn" với những

nét riêng có ở vùng Tây Nam Bộ. Môi trường sống được cải thiện, dưới
nước có cá, có lúa, trên bờ có cây trái, chim, thú. Tất cả tạo ra môi trường
sống khá thuận lợi, từ đó cũng dần tạo nên đời sống tinh thần phong phú và
phóng khoáng của cư dân ở đây.
Cuốn sách là tài liệu có ý nghĩa giúp nghiên cứu sinh đưa ra nhận định
và giải pháp nhằm hài hòa các giá trị văn hóa trong đời sống tinh thần người
dân vùng Tây Nam Bộ với văn hóa đạo Tin Lành.
Phạm Văn Búa, "Tìm hiểu đặc điểm cư dân và tâm lý người dân đồng
bằng sông Cửu Long nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược đại đoàn kết toàn
dân tộc" [15]. Bài viết nghiên cứu nhiều tài liệu lịch sử, như: "Văn hóa và cư
dân đồng bằng sông Cửu Long" của các tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân
Diệm, Mạc Đường; "Phủ Biên Tạp Lục" của Lê Quý Đôn; quyển "Lịch sử
khẩn hoang Nam Bộ" của nhà Sử học Huỳnh Lứa;… Qua đó, bài viết đúc kết:
4 cộng đồng dân tộc chính ở TNB, mặc dù có lịch sử hình thành, ngôn ngữ và
một số nét văn hóa khác nhau nhưng qua quá trình cộng cư, đã đoàn kết hỗ trợ
nhau vượt qua thiên tai, dịch họa, tạo nên điều kiện tự nhiên, xã hội, con


8

người, dân tộc, tôn giáo mang nét riêng ở vùng Tây Nam Bộ, đặc biệt là các
đức tính quí báu của cư dân: tự lực, tự cường, phóng khoáng, chịu thương,
chịu khó, sáng tạo, năng động, kiên cường, bất khuất.
Phan Huy Lê, Chủ nhiệm đề tài: Quá trình hình thành và phát triển
vùng đất Nam Bộ [86]. đã hệ thống hóa khá đầy đủ về quá trình hình thành,
phát triển, cùng các thiết chế văn hóa, đặc điểm dân cư, dân tộc, tín ngưỡng,
tôn giáo vùng TNB. Sự hấp dẫn của vùng đất mới TNB đã thu hút nhiều dân
tộc, mà nhiều nhất là 4 dân tộc Kinh, Khmer, Chăm, Hoa. Sự giao thoa văn
hóa là một nguyên nhân để vùng này trở thành cái nôi hình thành nhiều tôn
giáo bản địa mang bản sắc khu vực, ít lan tỏa sang khu vực khác, đã tạo nên

bức tranh phong phú, đa sắc màu tâm linh của cư dân vùng TNB.
Qua tác phẩm này, tác giả thấy mối quan hệ giữa đời sống vật chất với
đời sống tinh thần của cư dân vùng TNB, từ đó làm rõ hơn ảnh hưởng của đạo
Tin Lành đến đời sống tinh thần, tôn giáo của cư dân TNB hiện nay.
Trần Ngọc Thêm, Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ [126]. Tác giả
đặt TNB là một vùng văn hóa riêng biệt thuộc "miền văn hóa Nam Bộ", nơi
có sự hòa nhập văn hóa Việt - Khmer - Hoa - Chăm, nơi có sự giao thoa, hội
nhập với văn hóa Phật giáo, văn hóa Nho giáo, nơi có sự ứng xử với văn hóa
phương Tây. Tác giả đã hệ thống nét văn hóa đặc trưng qua tính cách con
người, văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức, văn hóa ứng xử, tín ngưỡng, tôn
giáo của người Việt ở TNB.
Cuốn sách giúp nghiên cứu sinh nhận thức rõ hơn về văn hóa truyền
thống và khuynh hướng biến đổi ở TNB hiện nay, từ đó có khuyến nghị sát hợp.
Nhóm tác giả thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam do Vũ Minh Giang
chủ biên, cùng với Nguyễn Quang Ngọc, Lê Trung Dũng, Cao Thanh Tân,
Nguyễn Sĩ Tiến, có sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam [105]. Nội dung
cuốn sách khái quát những nét cơ bản nhất của vùng đất và con người Nam
Bộ, từ thế kỷ thứ I đến nay.


9

Cuốn sách có giá trị tham khảo, giúp nghiên cứu sinh cập nhật thêm
những vấn đề cơ bản về quá trình hình thành và phát triển của vùng TNB và
là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan của đạo Tin Lành.
Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên là nguồn tư
liệu liên quan trực tiếp đến đề tài luận án. Qua đó, nghiên cứu sinh có cơ sở
khoa học để so sánh, đánh giá, khuyến nghị một cách khách quan về mối quan
hệ biện chứng, quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội khi nhận
thức về xã hội, con người vùng TNB với sự phát triển của đạo Tin Lành.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đạo Tin Lành
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo Tin Lành trên
thế giới và ở Việt Nam nói chung
Nguyễn Thanh Xuân, Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và
ở Việt Nam [143]; Nguyễn Thanh Xuân (chủ biên), Tôn giáo và chính sách
tôn giáo ở Việt Nam [146]. Qua 02 công trình này, tác giả đã trình bày bao
quát quá trình ra đời và phát triển của đạo Tin Lành ở Việt Nam và trên thế
giới; giáo lý, giáo luật, tổ chức giáo hội; sự giống và khác nhau giữa Tin Lành
và Công giáo, cung cấp cho đọc giả kiến thức cơ bản về đạo Tin Lành trên thế
giới và ở Việt Nam.
Với hai công trình này, nghiên cứu sinh hiểu thêm về đạo Tin Lành; về
sự hình thành, du nhập, phát triển của đạo Tin Lành ở Việt Nam; về chính
sách, pháp luật đối với tôn giáo nói chung và với Tin Lành nói riêng.
Hoàng Minh Đô - Chủ nhiệm đề tài, Đạo Tin Lành ở Việt Nam - Thực
trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra trong lãnh đạo, quản lý
[35]. Chủ nhiệm đề tài khái quát tương đối đầy đủ về đạo Tin Lành ở Việt
Nam, thực trạng hoạt động, nguyên nhân, ảnh hưởng, xu hướng phát triển và
vấn đề đặt ra cho công tác đối với đạo Tin Lành ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp nghiên cứu sinh khái quát về những
vấn đề đặt ra cho công tác đối với đạo Tin Lành ở Việt Nam, từ đó có cơ sở
để nhận định về vấn đề đặt ra cho công tác đối với đạo Tin Lành ở TNB.


10

Phạm Hồng Thái (chủ biên), Sự truyền bá và phát triển của đạo Tin
Lành ở một số nước và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á [119]. Đề tài chỉ rõ, đạo
Tin Lành có mặt tại vùng Đông Bắc Á gắn liền với hoạt động củng cố địa bàn
thực dân và mở rộng thị trường của các Đế quốc phương Tây, điển hình là
Mỹ, Anh, Hà Lan... Tin Lành có đóng góp nhất định vào đời sống văn hóa xã

hội. Quan hệ của đạo Tin Lành với nhà nước ở từng nước cũng có nét đặc thù.
Ở các nước theo mô hình tư bản chủ nghĩa, các tổ chức Tin Lành dù chưa có
xung đột với chính quyền, nhưng cũng không đơn giản xuôi chiều. Tại các
nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa, đạo Tin Lành nhiều khi bị lợi dụng làm
công cụ gây chia rẽ dân tộc, làm mất ổn định xã hội, can dự vào đời sống
chính trị âm mưu lật đổ chính quyền do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Vậy, các
nhà nước vẫn kiểm soát các hoạt động tôn giáo nói chung và hoạt động của
đạo Tin Lành nói riêng.
Công trình này là cơ sở để nghiên cứu sinh nhận xét về mặt tích cực
của đao Tin Lành trong đời sống xã hội vùng TNB, đồng thời quan tâm đến
vấn đề đạo Tin Lành bị chính trị lợi dụng.
Đỗ Quang Hưng, "Vài nhận xét về Tin Lành Mỹ'' [70], tác giả đã chỉ ra
một số nhận xét và một số đặc trưng của Tin Lành Mỹ. Điều đó đã giúp
nghiên cứu sinh có thêm cơ sở để nhận định sâu sắc hơn về ảnh hưởng của
Tin Lành đối với vùng TNB, nơi có nhiều hệ phái Tin Lành xuất thân từ Mỹ.
Trần Hồng Liên "Sự chuyển đổi tôn giáo trong người Khmer ở Trà
Vinh hiện nay'' [88, tr.47-52 ]. Trần Hữu Hợp, "Sự cải giáo của một bộ phận
người Khmer vùng Tây Nam Bộ" [65, tr.98-107]. Hai tác giả đã khái quát sự
chuyển đổi tôn giáo sang đạo Tin Lành trong người Khmer, nhất là từ 10 năm
trở lại đây, nêu một số nguyên nhân từ những biến đổi trong sinh hoạt của tu
sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đưa đến tình trạng cải đạo, dự báo xu hướng
truyền đạo vào cộng đồng người Khmer trong thời gian tới.


11

Hai bài viết có giá trị tham khảo cho tác giả luận án khi viết về vấn đề
đạo Tin Lành phát triển vào dân tộc Khmer ở vùng TNB.
Vũ Thị Thu Hà, "Nguyên nhân Tin Lành phát triển nhanh trong vùng
dân tộc đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay [42, tr.112-122].

Bài viết đã khái quát một số nguyên nhân Tin Lành phát triển nhanh trong
vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Đó là: sự thay đổi thể chế chính trị, hoàn
cảnh sống, phương thức truyền giáo, giá trị đạo đức của đạo Tin Lành và một
số nguyên nhân khác.
Bài viết thêm dữ liệu để nghiên cứu sinh so sánh và đánh giá tại sao Tin
Lành khó phát triển vào vùng dân tộc ở TNB so với vùng Tây Nguyên.
Vũ Thị Thu Hà, "Những đóng góp của Tin Lành thời kỳ đầu du nhập
vào Trung Quốc và Việt Nam" [43, tr.97-108]. Bài viết phân tích nguyên
nhân chính dẫn đến sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng đến xã hội của Tin
Lành đến Trung Quốc và Việt Nam ở thời kỳ đầu truyền giáo thông qua các
lĩnh vực như y tế, thông tin, báo chí, từ thiện xã hội, và thúc đẩy giao lưu văn
hóa... Những nguyên nhân có thể được nghiên cứu sinh tham khảo, vận dụng
vào thực tế ảnh hưởng của đạo Tin Lành ở vùng TNB.
Trần Thị Phương Anh, "Quan niệm của Tin Lành về các mối quan hệ
gia đình qua Kinh Thánh'' [1, tr.99-110]. Bài viết đã tìm hiểu các qui tắc ứng
xử liên quan đến mối quan hệ trong gia đình của đạo Tin Lành được thể hiện
trong Kinh Thánh như: hôn nhân, cha mẹ - con cái, anh chị em, qua đó chỉ ra
yếu tố tích cực của các mối quan hệ đó. Bài viết cung cấp thêm thông tin cho
phần nội dung đánh giá liên quan đạo đức Tin Lành của luận án.
Đỗ Quang Hưng, Tôn giáo và tính hiện đại [77]. Tác giả nhận định:
đạo Tin Lành chính là tôn giáo của tính hiện đại. Công trình bao quát về đạo
Tin Lành ở Việt Nam từ nguồn gốc, diện mạo, quá trình xâm nhập, phát triển,
đặc điểm thần học, đời sống đạo, hoạt động truyền giáo, tính hiện đại và sự
chuyển biến thần học Tin Lành ở Việt Nam... Nghiên cứu trường hợp Tin


12

Lành ở Tây Nguyên, tác giả nhận định việc giải quyết vấn đề Tin Lành ở đây
khi chính trị đã ổn định, thì vấn đề văn hóa trở thành vấn đề phức tạp và đáng

quan tâm cả ở trước mắt và lâu dài.
Những nhận định này là cơ sở đối chiếu cho nhận định về đạo Tin Lành
đối với vùng TNB hiện nay trong luận án.
Luận văn Thạc sĩ triết học của Nguyễn Lương Chung, Công tác tôn
giáo đối với đạo Tin Lành ở tỉnh Đồng Nai hiện nay [18]. Công trình đã
nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của đạo Tin Lành, thực trạng công
tác tôn giáo đối với đạo Tin Lành tại tỉnh Đồng Nai, đưa ra những giải pháp,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối với đạo Tin Lành tại tỉnh
Đồng Nai.
Lê Minh Quang, "Đạo Tin Lành ở Lâm Đồng giai đoạn 1929-1975''
[112]. Tác giả viết về phương thức truyền giáo và tác động của việc truyền
giáo vào vùng dân tộc thiểu số.
Thi Tú , Thúy Ly, Ngô Đại Đức; Thảo Nguyên cùng viết về: "Kết quả
thực hiện Chỉ thị 01/2005/CT-TTg". Những bài viết này đề cập sâu đến công
tác tôn giáo đối với hoạt động của đạo Tin Lành qua kết quả thực hiện Chỉ thị
01/2005/CT-TTg từ năm 2005 - 2011, chỉ ra thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân, đồng thời có một số đề nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo
ở các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum, Tây Ninh.
Nghiên cứu sinh tham khảo các bài viết trong công tác về đạo Tin Lành.
Các tư liệu nước ngoài, có:
Jean Bau Bérot, Lịch sử đạo Tin Lành [10], tác giả tìm hiểu sự ra đời và
tính phân ly, hiện đại, cải cách và đa giáo phái của đạo Tin Lành. Công trình
này góp phần để nghiên cứu sinh lý giải về thực trạng đạo Tin Lành đã, đang
và sẽ diễn ra ở Việt Nam và ở vùng TNB.
Cuốn sách Modernity and Re - enchantment in Post - revolutionary Việt
Nam (Tính hiện đại và niềm say mê tìm hiểu thời kì hậu cách mạng Việt Nam)


13


của P.Taylor [107]. Tác giả viết về thực trạng đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay, qua đó, nhận xét: Tôn giáo ở Việt Nam đang hồi sinh và
phát triển theo chiều hướng đổi mới. Nhận xét đó cho luận án tham khảo khi
nhận xét về chiều hướng phát triển của đạo Tin Lành.
Cuốn The Emergence of a Nonprofit Sector and Philanthropy in the
Socialist Republic of Vietnam (Sự xuất hiện của các tổ chức phi lợi nhuận và
các tổ chức từ thiện tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) của Mark Sidel
[96] đã nghiên cứu về vai trò của các nhóm xã hội trong đó có tôn giáo, mối
quan hệ của nhà nước với các đoàn thể, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam là
năng động và đầy triển vọng. Nghiên cứu này có thể tham khảo cho công tác
tôn giáo đối với đạo Tin Lành hiện nay.
Chang-Yau Hoon, "Truyền bá phúc âm và đa văn hóa: sự năng động
của Tin Lành ở Indonesia" [50, tr.58-78]. Bài viết khảo sát người Tin Lành ở
Indonesia đã vượt qua môi trường đa văn hóa ra sao và làm thế nào để điều
chỉnh sự đa dạng Tin Lành. Bài viết có một số thông tin có thể đối chiếu vào
đặc thù Tin Lành vùng TNB.
Marion Aubree (Lê Văn Tuyên dịch), "Tân Tin Lành ở Châu Á và Mỹ
Latinh: Nghiên cứu so sánh" [97, tr.110-123]. Theo tác giả, sự năng động của
phong trào Ngũ Tuần ngày nay ở các nền văn hóa Đông Nam Á có thể tạo ra
sự so sánh giữa Mỹ Latinh và Đông Nam Á bằng cách xem xét các khái niệm
và phương pháp khác nhau đã phát triển hơn 70 năm qua trong nghiên cứu các
phong trào Phúc âm mới.
Nhận định về sự năng động đó của phong trào Ngũ Tuần là cơ sở để
nghiên cứu sinh lý giải tại sao phong trào này phát triển khá mạnh ở TNB
hiện nay.
Các công trình nước ngoài liên quan đến luận án được xem là những
gợi ý mới để tác giả tham khảo và sử dụng như là một trong những cái phổ
biến được đặt trong cái đặc thù là đạo Tin Lành vùng TNB.



14

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo Tin Lành ở
vùng Tây Nam Bộ
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học của Lê Hùng Yên, Quản lý nhà nước
đối với hoạt động của đạo Tin Lành ở thành phố Cần Thơ hiện nay [147].
Luận văn đã làm rõ quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin Lành trên
địa bàn thành phố Cần Thơ thời gian qua có nhiều thành tựu, nhưng cũng bộc
lộ những hạn chế, bất cập và từ đó đề xuất khuyến nghị. Tư liệu này là một cơ
sở đánh giá tình hình chung của công tác tôn giáo đối với đạo Tin Lành vùng
Tây Nam Bộ.
Luận văn Thạc sĩ Triết học của Phạm Châu Hải, Đạo Tin Lành và ảnh
hưởng của nó trong đời sống xã hội tỉnh Vĩnh Long hiện nay [44]. Tác giả
tìm hiểu những vấn đề chung và đặc điểm quá trình du nhập, phát triển của
đạo Tin Lành ở tỉnh Vĩnh Long; phân tích tình hình đạo Tin Lành ở Vĩnh
Long hiện nay và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội, rút ra vấn đề đặt ra
và khuyến nghị. Tác giả nhận định: đạo Tin Lành đã vào tỉnh Vĩnh Long dưới
thời thực dân Pháp, với nhiều hạn chế, khó khăn, song với sức sống của một
tôn giáo cách tân, nó vẫn lan tỏa, ảnh hưởng rộng ra mọi tầng lớp dân cư Vĩnh
Long. Thời đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, đạo Tin Lành ở Vĩnh Long có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi
mới, với những thành tựu kinh tế xã hội được khẳng định, cùng với chính
sách đổi mới về tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đạo Tin
Lành ở Vĩnh Long phát triển rất thuận lợi. Đạo Tin Lành thể hiện cả đặc điểm
truyền thống và mới hình thành, do tính quy định của đời sống xã hội ở Việt
Nam, trong đó có Vĩnh Long thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Luận văn cũng là một cơ sở khoa học cho luận án khi viết về đạo Tin
Lành ở vùng Tây Nam Bộ.
Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Minh Ngọc, Tôn giáo - Tín ngưỡng của
các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long [19]. Nội dung sách khái quát về



15

tôn giáo, tín ngưỡng ở vùng TNB, trong đó có đạo Tin Lành. Hai tác giả chỉ
ra ba nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc theo đạo Tin Lành của cư dân
vùng TNB, vì vậy có thể kế thừa.
Nguyễn Xuân Hùng, "Đạo Tin Lành tại Tây Nam Bộ: Lịch sử, hiện
trạng và những vấn đề đặt ra'' [69, tr.59-72]; Nguyễn Khắc Đức, Một số vấn
đề về đạo Tin Lành ở Việt Nam [39]. Hai bài viết trên đã nghiên cứu khái quát
về quá trình truyền giáo của của đạo Tin Lành tại vùng TNB từ ngày khởi đầu
đến nay và những vấn đề đặt ra.
Các bài viết có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến nội dung luận án,
vì vậy cần tham khảo để củng cố thêm tính khoa học cho luận án.
Trần Hữu Hợp, "Tin Lành vùng đồng bằng sông Cửu Long - hiện trạng
và vài vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển", Kỷ yếu tọa đàm về đạo Tin
Lành ở Việt Nam giai đoạn 1976-2011, do Viện Nghiên cứu tôn giáo, Hội
Việt - Mỹ và Viện Liên kết toàn cầu tổ chức tại Hà Nội [61]. Tác giả Trần
Hữu Hợp có một số khái quát về vùng TNB, về lịch sử phát triển và hiện
trạng đạo Tin Lành trên địa bàn, một số vấn đề đặt ra đối với chính sách, pháp
luật về tôn giáo và với sự phát triển bền vững vùng TNB.
Bài viết giúp nghiên cứu sinh thêm cơ sở để có những đề xuất cho đạo
Tin Lành phát triển hài hòa trong sự phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
Trần Hữu Hợp, Việc đào tạo giáo sĩ của Tin Lành - Trường hợp Báp-tít
Việt Nam (Nam Phương) và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà
nước, Kỷ yếu: biến động tín ngưỡng, tôn giáo vùng đồng bằng sông Cửu
Long trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do Ban Chỉ đạo TNB,
Viện Nghiên cứu tôn giáo và Sở Nội vụ Thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức
[62]. Theo tác giả, vẫn còn có nhiều bất cập, nhiều vấn đề đặt ra cho quản lý
nhà nước về công tác đào tạo của hệ phái Báp-tít Việt Nam (Nam Phương).

Đây là cơ sở để luận án đề xuất cho công tác quản lý nhà nước, đặc biệt
là tạo điều kiện cho đạo Tin Lành có thêm trường đào tạo.


16

Nguyễn Văn Diệu, "Tìm hiểu quá trình truyền giáo Kitô giáo vào các
dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long và Đông Nam Bộ'' [20, tr.61]. Tác giả đã tóm tắt kết quả truyền giáo vào
vùng dân tộc Khmer: "Năm 1922, có một mục sư đã đến truyền đạo tại vùng
cư trú người Khmer Nam Bộ dọc theo biên giới Campuchia, thuộc tỉnh Châu
Đốc. Trong nhiều năm nỗ lực rất lớn, cuối cùng mục sư đã đưa được một số
người Khmer tại địa phương nguyên là những tín đồ Phật giáo Tiểu thừa chịu
cải đạo để gia nhập đạo Tin Lành. Nhưng sau đó do sức đề kháng khá mạnh
mẽ của Phật giáo, số tín đồ đạo Tin Lành người Khmer không phát triển thêm
được và ngày một rơi rụng".
Bài viết giúp tác giả luận án lý giải tại sao gần 100 năm nhưng đạo Tin
Lành chưa thể phát triển mạnh ở vùng dân tộc Khmer TNB như ý muốn.
Ngoài các tài liệu trên còn có các nghiên cứu, báo cáo tổng kết của Ủy
ban nhân dân, Ban Dân vận, Ban Tôn giáo, Công an các tỉnh vùng TNB về
tình hình và hoạt động của đạo Tin Lành; về kết quả thực hiện Thông báo
160-TB/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) về chủ trương đối
với đạo Tin Lành; kết quả thực hiện Chỉ thị 01/2005/CT-TTg, 04/02/2005 của
Thủ tướng Chính phủ đối với đạo Tin Lành. Đó cũng là nguồn tài liệu quí.
Các công trình nêu trên là nguồn tài liệu phong phú, toàn diện liên quan
đến luận án, là cơ sở để luận án kế thừa, phát triển và làm rõ thêm.
1.1.3. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách, pháp
luật và giải pháp đối với đạo Tin Lành
Lê Quang Vịnh trong bài viết "Đằng sau việc vu cáo Việt Nam đàn áp
tôn giáo", được đăng trong công trình Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù

địch, của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (lưu hành nội bộ) [140].
Chứng minh qua thực tế tôn giáo ở Việt Nam, tác giả khẳng định: Nhà nước
Việt Nam không chống hoạt động thuần túy tôn giáo, không thành kiến với
đạo Tin Lành, pháp luật Việt Nam chỉ xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo


17

gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc và cộng đồng. Đây là tham khảo để
tác giả luận án nhận định về âm mưu thủ đoạn lợi dụng đạo Tin Lành.
Ngô Hữu Thảo, Công tác tôn giáo - Từ quan điểm Mác-Lênin đến thực
tiễn Việt Nam [124]. Trên cơ sở bàn về nội hàm, ngoại diên khái niệm "Công
tác tôn giáo", tác giả đã khái quát kết quả công tác tôn giáo ở Việt Nam, luận
giải và khuyến nghị một số vấn đề của công tác tôn giáo trong thời gian tới.
Tác giả khẳng định, công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cần phải trở về
với chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề tôn giáo, coi đó là kim chỉ nam chứ
không phải giáo điều. Tư liệu này bổ sung cho cơ sở lý luận, phương pháp
luận cho nghiên cứu đạo Tin Lành ở TNB.
Ngô Hữu Thảo, Công tác tôn giáo hiện nay - một số vấn đề đặt ra từ hệ
thống chính trị ở nước ta [125], đã khẳng định thành tựu trong công tác tôn
giáo ở Việt Nam những năm qua. Song, thực tiễn công cuộc đổi mới công tác
tôn giáo cho thấy cần phát huy có hiệu quả sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,
cần quán triệt sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo; cần có căn cứ lý luận chính
xác, có chiều sâu và phải được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn công tác tôn
giáo. Phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của công tác tôn giáo cho từng
cấp, từng ngành, từng tổ chức, tạo ra sự phối hợp thống nhất, tránh tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm, gây phiền hà. Phải quan tâm củng cố bộ máy, xây dựng
đội ngũ chuyên trách làm công tác tôn giáo mang tính ổn định, chiến lược,
chuyên nghiệp; phải coi công tác đối ngoại tôn giáo có vai trò quan trọng cho

sự thành công của công tác tôn giáo. Công tác tôn giáo cần phải đi đôi với
công tác dân tộc.
Nghiên cứu của tác giả có nhiều ý nghĩa tham khảo cho luận án khi đề
cập đến công tác tôn giáo nói chung và đối với đạo Tin Lành nói riêng.
Tác giả Phạm Dũng, Tiếp tục đổi mới công tác tôn giáo đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới [21]. Tác giả phân tích tình hình tôn giáo ở


18

Việt Nam, chỉ ra sự đa dạng và những vấn đề phức tạp nảy sinh trong tôn
giáo, như: tình trạng chuyển nhượng, hiến tặng đất, mở rộng cơ sở thờ tự, xây
dựng nhà thờ, nhà nguyện trái phép, không phép diễn ra ở nhiều địa phương;
các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, lợi dụng tôn giáo vào mục đích ngoài
tôn giáo; mâu thuẫn nội bộ ở một số tổ chức tôn giáo; hoạt động phức tạp của
một số tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hoạt động chống đối
chính quyền của các phần tử phản động; các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo
mới, đạo lạ và tà đạo. Từ đó, tác giả khái quát một số vấn đề đặt ra đối với
công tác tôn giáo hiện nay.
Bài viết có thể tham khảo cho công tác tôn giáo nói chung và quản lý
nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin Lành nói riêng.
Tác giả Nguyễn Hồng Dương với các công trình, Quan điểm đường lối
của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay [32];
Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề
lý luận cơ bản [29] và Quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước Việt
Nam về tôn giáo [31]. Trong ba công trình này, tác giả đã nghiên cứu từng
giai đoạn lịch sử, hệ thống các văn kiện, nghị quyết của Đảng, việc thể chế
hóa quan điểm của Đảng về tôn giáo, nhất là từ đổi mới đến nay. Tác giả đã
nhấn mạnh ý nghĩa to lớn mang tính bước ngoặt của Nghị quyết số 24 trong
nhận thức mới về tôn giáo và công tác tôn giáo. Tác giả cũng khẳng định bức

tranh tôn giáo đa dạng và sôi động hiện nay có được là từ sự đổi mới quan
điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo,
đồng thời đề cập đến vấn đề đặt ra cho chính sách, pháp luật về tôn giáo. Tác
giả cũng đúc kết kinh nghiệm ứng xử với tôn giáo ở một số nước, làm luận cứ
khoa học để hoàn thiện chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam.
Tác giả đã giúp nghiên cứu sinh thấy được quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn ở Việt Nam, mặt khác cũng thấy
những bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện, để điều chỉnh.


19

Tác giả Đỗ Quang Hưng với hai công trình Vấn đề tôn giáo trong cách
mạng Việt Nam - Lý luận và thực tiễn [71]; Chính sách tôn giáo và nhà nước
pháp quyền [76], đã đúc kết quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam về tôn giáo và vấn đề tôn giáo, vai trò quan trọng của Nhà nước
Việt Nam trong việc thể chế hóa đường lối, chính sách tôn giáo qua các thời
kỳ, đặc biệt là thực tiễn tôn giáo và kết quả thực hiện chính sách tôn giáo ở
nước ta hiện nay. Vấn đề về mối quan hệ Nhà nước và các Giáo hội cũng
được đề cập. Tác giả Đỗ Quang Hưng nhận định: Là một lực lượng xã hội,
tôn giáo chịu sự tác động xã hội cụ thể và là tất yếu khách quan; Đảng, Nhà
nước cần tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đối với tôn giáo.
Hai công trình này giúp người đọc định hình rõ nét hơn về mối quan hệ
Nhà nước pháp quyền thế tục với các giáo hội tôn giáo ở Việt Nam.
Công trình do Hoàng Minh Đô, Lê Văn Lợi (Đồng chủ biên), 10 năm
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khóa
IX về công tác dân tộc và tôn giáo [36]. Công trình gồm nhiều bài chuyên
khảo khẳng định Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo hộ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Công trình cũng đánh giá
thực trạng về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo;

khẳng định mặt thành tựu và mặt còn tồn tại trong công tác tôn giáo từ nhận
thức và hành động.
Ở đây, nghiên cứu sinh có thêm cơ sở đánh giá thực trạng bộ máy, con
người làm công tác tôn giáo và ảnh hưởng đến công tác tôn giáo.
Công trình của tác giả Hoàng Minh Đô - Đỗ Lan Hiền, Quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo và Công giáo,
những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [37], đã đánh giá kết
quả thực hiện và hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo và Công giáo.
Riêng đối với đạo Công giáo, các tác giả đã làm rõ quan điểm của Đảng về
công tác vận động chức sắc, tín đồ và khẳng định mấu chốt của công tác tôn


20

giáo là công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo. Công trình này có ý nghĩa
tham khảo về công tác vận động quần chúng Kitô giáo.
Tác giả Nguyễn Thanh Xuân (chủ biên), Tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam [146]. Công trình trình bày khá toàn diện về chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ và việc thực hiện chính sách đó,
nhất là từ khi đổi mới. Tác giả khẳng định, công tác tôn giáo đã làm thay đổi
đời sống tôn giáo ở Việt Nam theo hướng tích cực và tiến bộ, góp phần quan
trọng vào sự phát triển của đất nước.
Tác giả Phạm Huy Thông trong bài "Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo:
gần 10 năm nhìn lại" [127, tr.3-5, tr.26], ngoài việc khẳng định những thành
quả trong thực hiện Pháp lệnh, tác giả chỉ ra những vấn đề cần phải khắc
phục, như: tư cách pháp nhân tôn giáo, xã hội hóa tôn giáo, chồng chéo, lấn
sân của các cơ quan làm công tác tôn giáo. Tác giả khuyến nghị cần điều
chỉnh pháp luật sát hơn với thực tế tôn giáo ở Việt Nam.
Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học của Bùi Hữu Dược, Quản lý nhà nước về
tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay [25]. Tác giả trình bày cơ sở lý luận

và thực tiễn cho quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam là Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo; khảo sát thực tiễn ứng xử với tôn giáo của
một số nước trên thế giới. Từ đó, tác giả khẳng định quản lý nhà nước về tôn
giáo là một trong những yêu cầu cấp thiết, quan trọng trong hiện tại và lâu dài
ở Việt Nam. Luận án có nhiều ý nghĩa tham khảo cho nghiên cứu sinh.
Tác giả Phạm Dũng trong bài viết "Thành tựu và bài học kinh nghiệm
trong đổi mới công tác tôn giáo gần 30 năm qua" [22, tr.60-67] đã khẳng định
thành tựu của công tác tôn giáo ở Việt Nam và đưa ra luận điểm: "trong tổng
thể công tác tôn giáo, đổi mới công tác vận động quần chúng tín đồ và quản lý
nhà nước về tôn giáo là trọng tâm".
Tác giả Hồ Tấn Sáng, "Bàn thêm về ứng xử với tôn giáo và đạo đức tôn


×