Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Luận án Tiến sĩ Triết học: Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 176 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG VĂN KHẢI

GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN
VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG VĂN KHẢI

GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN
VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Vũ Hồng Sơn

2. PGS, TS Đặng Quang Định



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Hoàng Văn Khải


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............ 6
1.1. Những công trình nghiên cứu về lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội,
các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội ....................................................................................................... 6
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng, nguyên nhân giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.................................................. 18
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp để giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ........................................................................ 25
1.4. Giá trị của những công trình trên và một số vấn đề luận án cần tiếp
tục giải quyết .................................................................................................... 32
Chƣơng 2. GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ
HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN.................................................................................... 35


2.1. Khái niệm, nội dung giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ................. 35
2.2. Những nhân tố tác động đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ............... 64
Chƣơng 3. GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ
HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA .................................................................... 77

3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay .................................. 77
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay............ 115
Chƣơng 4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ
NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ..................................................................................................................................124

4.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội................................................ 124
4.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối nhằm đảm bảo
công bằng và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế để giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ............................................................. 130
4.3. Khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng
thời thực hiện lợi ích xã hội ........................................................................... 140
4.4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện
tốt chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội .............................................. 145
KẾT LUẬN................................................................................................................................156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................................................158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................159



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH

: An sinh xã hội

CBXH

: Công bằng xã hội

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CTSH

: Chủ thể sở hữu

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước


ĐTSH

: Đối tượng sở hữu

HTSH

: Hình thức sở hữu

KTTT

: Kinh tế thị trường

KTTN

: Kinh tế tư nhân

KTNN

: Kinh tế nhà nước

LLSX

: Lực lượng sản xuất

LIXH

: Lợi ích xã hội

LICN


: Lợi ích cá nhân

PLXH

: Phúc lợi xã hội

TLSX

: Tư liệu sản xuất

QHSX

: Quan hệ sản xuất

QHSH

: Quan hệ sở hữu

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suy cho cùng, sự phát triển xã hội là kết quả của những hoạt động có ý thức
của con người “đang theo đuổi những mục đích nhất định”. Trong sự phát triển đó,
lợi ích là một trong những động lực thúc đẩy hoạt động của con người, của sự biến
đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất các

mối quan hệ trong xã hội. Đề cập tới vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “Lợi ích là thuộc tính tất yếu của con người và nó gắn kết các thành viên xã
hội dân sự lại với nhau” [88, tr.184]. Trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội, sự
tác động lẫn nhau giữa các chủ thể lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu sẽ hình thành
quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các lợi ích, đặc biệt giữa lợi ích cá nhân (LICN)
và lợi ích xã hội (LIXH), tạo nên những vector thúc đẩy hoạt động của con người và
sự vận động của xã hội theo những chiều hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau.
Tuy nhiên, quan hệ giữa các chủ thể lợi ích luôn nảy sinh vấn đề phức tạp, chứa
đựng những mâu thuẫn, nhất là giữa LICN và LIXH, bởi lợi ích luôn biến đổi theo
sự biến đổi của nhu cầu xã hội. Cho đến hiện nay, ở tất cả các cấp độ của lý luận lợi
ích nói chung, LICN và LIXH nói riêng vẫn đặt ra những vấn đề cần phải nghiên
cứu, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường (KTTT) - nơi các loại lợi ích thể hiện
vai trò của mình một cách đặc thù, khác biệt so với các điều kiện xã hội khác.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN hiện
nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi ích đối với
sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng khi chúng ta giải quyết được hài hòa
các quan hệ lợi ích khác nhau, đặc biệt là quan hệ giữa LICN và LIXH - quan hệ lợi
ích căn bản của xã hội, nếu không thì trái lại, mâu thuẫn, xung đột lợi ích sẽ trở
thành lực cản sự tiến bộ xã hội, có thể phá hoại nghiêm trọng những thành quả bước
đầu mà đất nước đạt được, thậm chí xuất hiện những vấn đề chính trị - xã hội phức
tạp. Ở nước ta trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, khi chúng ta đi ngày càng đi
sâu vào nền KTTT, vấn đề lợi ích nói chung, LICN và LIXH nói riêng lại trở nên


2
phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết. Xuất hiện những biểu
hiện của sự mất cân bằng trong giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, trong nhiều
biểu hiện chính là việc đề cao quá mức LICN hoặc LIXH. Một số lực lượng xã hội
nhân danh lợi ích, để mưu cầu LICN không chính đáng, xâm phạm LIXH. Những
hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát tài sản Nhà nước, buôn lậu,

trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, lừa đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn
việc quản lý, điều hành và phân phối nói chung xảy ra với tính chất ngày càng phức
tạp, nhiều vụ việc có quy mô lớn, gây những tổn hại đến sự phát triển xã hội. Thực
chất của những hiện tượng đó chính là việc đề cao quá mức LICN, bất chấp luật
pháp, đạo đức để đạt được LICN. Song ở thái cực ngược lại, lại có những LICN
chính đáng chưa được quan tâm đúng mức, đời sống của một bộ phận nhân dân còn
nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng ngày càng doãng ra; thành
phần kinh tế tư nhân chưa được tạo những điều kiện tốt nhất để phát triển, chưa phát
huy hết tiềm năng của thành phần kinh tế này... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế
và phát triển KTTT mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa
mãn lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những LIXH để vừa bảo
đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng XHCN. Chính vì vậy, để thúc đẩy sự
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đòi hỏi chúng ta
phải giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH. Song, để làm được điều đó,
chúng ta cần hiểu rõ bản chất, vai trò, quy luật tồn tại, phát triển của từng loại lợi
ích, nội dung, phương thức, các nhân tố tác động cũng như phân tích thực trạng,
nguyên nhân của việc việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, để từ đó có những
giải pháp tác động phù hợp trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội và của cả cá nhân.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên và với mong muốn
góp phần đóng góp vào việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, nghiên cứu sinh
chọn vấn đề “Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án của mình.


3

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, nguyên nhân và

những vấn đề đặt ra từ việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết
hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo
định hướng XHCN.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận án cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH
như khái niệm, nội dung, phương thức và các nhân tố tác động.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề đặt
ra từ giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam
hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN
và LIXH góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH là vấn đề rất rộng, ở đây, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu việc giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH chủ yếu thông qua lợi ích kinh tế trong lĩnh vực
sở hữu và phân phối; chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này chủ yếu là Đảng, Nhà
nước, xã hội và cá nhân. Luận án cũng chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu LICN là lợi


4
ích của cá nhân cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thân, đảm bảo sự phát triển của

mỗi cá nhân; LIXH ở đây chính là lợi ích của cả xã hội với tính cách là một dân tộc
- quốc gia.
- Về không gian: nghiên cứu quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam.
- Về thời gian: Việc nghiên cứu được tiến hành chủ yếu trong giai đoạn từ
khi bắt đầu đổi mới đất nước (1986) cho đến nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ nội dung giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, những nhân tố tác
động tới việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt
Nam hiện nay.
- Phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của việc giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án phân tích những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH trên một số khía cạnh chủ yếu như nhận thức của các chủ thể, các
chính sách về sở hữu, các chính sách về phân phối.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH
trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay, trong đó đặc biệt là giải pháp khuyến
khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời thúc đẩy thực hiện
LIXH. Cùng với đó, giải pháp về tiếp tục thực hiện các chính sách đảm bảo công bằng
xã hội (CBXH) đã có nhiều công trình nói tới, song tiếp tục thực hiện và tổ chức thực
hiện trên thực tế các chính sách đảm bảo CBXH là những đóng góp mới của luận án.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cá nhân, xã hội, lợi ích, quan
hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội... Ngoài ra, luận án cũng kế thừa thành quả của
những công trình nghiên cứu trước đó về những vấn đề liên quan trực tiếp đến nội
dung của luận án.



5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch s để phân tích bản chất của lợi ích, điều kiện hình thành, tồn
tại, biến đổi và tính lịch s của lợi ích, LICN, LIXH, quan hệ giữa LICN và LIXH...
Luận án s dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê, các phương pháp thu
thập và x lý số liệu, thông tin (thứ cấp)... để phân tích thực trạng việc giải quyết
quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay bằng các
dẫn liệu cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận án
- Góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà nước trong việc đề
ra các chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người làm công tác quản lý xã hội xây dựng và thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong những điều kiện cụ thể nhất định ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy, nghiên cứu giảng dạy triết học, các ngành khoa học xã hội và nhân văn
tại các học viện, trường đại học, cao đẳng, trường chính trị tỉnh (thành phố).
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm: 04
chương, 12 tiết.


6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LỢI ÍCH, LỢI ÍCH CÁ NHÂN,

LỢI ÍCH XÃ HỘI, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN
HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phạm trù lợi ích
Xung quanh phạm trù lợi ích nói chung, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước đề cập đến các khía cạnh rất đa dạng của lợi ích như: khái
niệm, bản chất, vai trò, phân loại lợi ích...
Về khái niệm, bản chất lợi ích
Năm 1997, trong cuốn sách Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
[123] tác giả Lê Hữu Tầng đã chỉ ra bản chất và nội dung của lợi ích, đó là: “xét về
bản chất, lợi ích chính là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế
giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái
thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu” [123, tr.35]. Các tác giả cũng phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa một số loại lợi ích, như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần;
lợi ích riêng và lợi ích chung; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Đây là một công
trình tham khảo tốt cho chúng tôi khi phân tích những vấn đề lý luận về lợi ích và
vai trò của lợi ích đối với sự phát triển.
Tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Lợi ích - động lực của sự phát
triển xã hội [75], năm 1999, đã lược khảo những quan điểm của các nhà khoa học
Liên Xô trước đây đã đề cập đến vấn đề lợi ích. Tác giả Nguyễn Linh Khiếu đã
phân tích những quan điểm về lợi ích của các tác giả như: K.B.Ixabêcốp,
A.S.Aizicôvích, V.I.Pripisnov, D.I.Chesnocov... Trên cơ sở lược khảo các quan điểm
của các nhà nghiên cứu Liên Xô và các nhà nghiên cứu trong nước, tác giả đã đưa ra
khái niệm “lợi ích là một sự vật hay một hiện tượng khách quan biểu hiện những mối
quan hệ tất yếu của con người và dùng để thỏa mãn những nhu cầu cấp bách của họ
trong một hoàn cảnh sinh sống nhất định” [75, tr.50]. Đây là tài liệu tham khảo tốt cho
chúng tôi để khảo cứu lịch s nghiên cứu vấn đề lợi ích, nhất là ở Liên Xô trước đây.


7

Năm 2005, tác giả Lê Thị Kim Chi trong cuốn sách Nhu cầu: động lực và định
hướng xã hội [15] đã có những phân tích cụ thể về mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích,
theo đó, tác giả khẳng định: “Lợi ích xuất hiện trong quan hệ giữa nhu cầu của con
người với môi trường xung quanh; lợi ích thể hiện mối quan hệ xã hội giữa con người
với con người nhằm thỏa mãn nhu cầu; lợi ích là cái trung gian giữa nhu cầu và hoạt
động của con người, là động lực thúc đẩy hoạt động của con người và của xã hội” [15,
tr.31]. Những phân tích của tác giả về quan hệ nhu cầu và lợi ích đã gợi mở cho chúng
tôi nghiên cứu sâu thêm về vấn đề lợi ích trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Năm 2010, trong công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay [36], tác giả Đặng Quang Định trên cơ sở tiếp cận lợi ích từ nhu cầu, đã nêu
rõ định nghĩa về lợi ích: “lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và
dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng
lớp...) trong những điều kiện lịch s - xã hội nhất định” [36, tr.30]. Từ đó, tác giả
khẳng định: “về bản chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn
nội dung là để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy” [36, tr.30]. Chúng tôi đồng ý với
quan điểm này và coi đây là tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa.
Năm 2012, cũng trên cơ sở tiếp cận lợi ích từ nhu cầu, song đề cập đến khía
cạnh động lực của lợi ích đối với con người, tác giả Lê Văn B u, trong công trình
Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng
Nam bộ hiện nay [9] đã nêu: “Lợi ích là sự thể hiện mâu thuẫn khách quan giữa nhu
cầu và điều kiện để thỏa mãn nhu cầu. Trong khi thể hiện mâu thuẫn nói trên, lợi ích
kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người và “thúc ép” con người phải hành
động, đấu tranh vì lợi ích của mình” [9, tr.35]. Đây là quan điểm mà chúng tôi cũng
đã có sự tham khảo trong quá trình nghiên cứu về lợi ích.
Như vậy, vấn đề khái niệm, bản chất của lợi ích cũng đã được nhiều học giả
trong và ngoài nước nghiên cứu trong những giai đoạn lịch s khác nhau, song có
thể thấy, cơ bản đều thống nhất quan hệ lợi ích là khách quan, là cái phản ánh quan
hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội và
về bản chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn nội dung là



8
để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy. Đây là những công trình có giá trị tham khảo
tốt cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Về vai trò của lợi ích
Nhìn chung, qua khảo cứu các công trình, đa số các tác giả đều chỉ ra tính
tích cực của lợi ích trong hoạt động của con người. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, lợi
ích chính là động lực sâu xa nhất thúc đẩy con người hành động và mọi hành động
của con người đều có động cơ nhất định. Và kết quả ra sao phụ thuộc vào việc nhận
thức và hành động thực tiễn của họ về lợi ích.
Năm 1997, đi vào nghiên cứu vai trò lợi ích đối với sự phát triển xã hội, trong
công trình Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, [123] các tác giả đã chỉ ra vai
trò của lợi ích trong sự phát triển xã hội “Nếu lợi ích đúng là khâu trung gian chuyển hóa
những yêu cầu khách quan bên ngoài thành những động cơ tư tưởng bên trong thúc đẩy
con người ta hành động, thì có thể nói, đó chính là khâu cần được đặc biệt quan tâm
trong sợi dây chuyền dẫn tới chỗ khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của con người và
thông qua tính tích cực ấy mà thúc đẩy quá trình phát triển xã hội” [123, tr.39]. Việc
phân tích lợi ích với vai trò là một trong những động lực của sự phát triển, cùng với
những động lực khác được đề cập trong công trình này là những gợi mở tốt cho chúng
tôi trong quá trình nghiên cứu.
Năm 2008, trong bài viết Quan điểm của Triết học Mác về lợi ích với tư cách
động lực của lịch sử [34] tác giả Đặng Quang Định đã khẳng định vai trò của lợi ích
trong sự phát triển xã hội: “việc nhận thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ
bản, nhận thức đó vẫn chỉ mang tính trừu tượng. Khi nói về vai trò của lợi ích, triết
học Mác cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội, nó được đặt
trong quan hệ giữa con người với nhau làm cơ sở cho việc xác lập các quan hệ giữa
họ” và “Lợi ích thúc đẩy đời sống các dân tộc” [34, tr.76]. Mặc dù dừng lại ở góc độ
là một bài viết, song đây là công trình có nhiều gợi mở, tạo tiền đề cho chúng tôi
nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội.

Năm 2011, trong công trình Lợi ích - động lực của sự phát triển bền vững
[84] tác giả Hoàng Văn Luân đã khẳng định: Mâu thuẫn lợi ích và giải quyết mâu
thuẫn lợi ích là động lực phát triển xã hội [84, tr.93]. Trên cơ sở đó tác giả nêu ra


9
những định hướng quan hệ lợi ích vì sự phát triển xã hội, trong đó nêu khá cụ thể
các nguyên tắc và biện pháp điều chỉnh cũng như điều chỉnh một số quan hệ lợi ích
cơ bản của xã hội, đặc biệt nhấn mạnh đến việc điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây
là công trình có nhiều giá trị đối với chúng tôi trong việc phân tích về lợi ích, cũng
như có những gợi mở để nghiên cứu về việc giải quyết các lợi ích.
Về phân loại lợi ích
Các công trình về lợi ích nêu trên đều đã đề cập về phân loại lợi ích theo
nhiều cách tiếp cận, nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát, theo
tác giả Đặng Quang Định trong công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp
công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay [Theo 36], đã phân tích cách phân loại lợi ích của các học giả Liên
Xô được đề cập trong “Bách khoa toàn thư Liên Xô”, viết năm 1972, trên cơ sở các
nguyên tắc, tiêu chí nhất định, lợi ích phân loại như sau: dựa vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội, chia thành lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi
ích chính trị; dựa vào phạm vi cộng đồng, chia thành LICN, lợi ích giai cấp, lợi ích
tập thể, LIXH; dựa vào xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội, chia thành
lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ;…
Ngoài ra, lợi ích còn có thể phân loại dựa trên một số căn cứ sau: dựa vào
thời gian tồn tại của lợi ích, chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào
tầm quan trọng của lợi ích, chia thành lợi ích căn bản và lợi ích không căn bản, lợi
ích cấp bách và lợi ích không cấp bách; dựa vào tính chất và các biện pháp thực
hiện lợi ích, chia thành lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng.
Đây là cách tiếp cận để phân loại lợi ích khá toàn diện, vì vậy, công trình này
là tài liệu tham khảo bổ ích cho chúng tôi trong việc phân loại lợi ích.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về khái niệm lợi ích cá nhân, lợi ích
xã hội và lợi ích kinh tế
Năm 2012, trong công trình Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển của xã
hội [40], tác giả Đặng Quang Định đã đề cập đến khái niệm LICN, LIXH và lợi ích
kinh tế. Tác giả phân tích: “Lợi ích cá nhân là tất cả những giá trị vật chất, tinh thần
mà các cá nhân thực hiện được trong những điều kiện nhất định, dùng để thoả mãn


10
nhu cầu, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân” [40, tr.13-14] và “Lợi ích
xã hội là lợi ích chung của cộng đồng người trong một xã hội nhất định, đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung” [40, tr.17]. Tác giả cũng đã đưa ra
khái niệm lợi ích kinh tế: “lợi ích kinh tế là giá trị kinh tế mà mỗi cá nhân có được
khi tham dự vào quá trình sản xuất kinh tế, dùng để thỏa mãn nhu cầu của các cá
nhân đó” [40, tr.19]. Đây là công trình này có giá trị cung cấp cho chúng tôi những
tư liệu tổng hợp để xây dựng nên những khái niệm được s dụng trong luận án.
Năm 2012, tác giả Lê Văn B u, trong công trình Vấn đề lợi ích trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay [9] đã
khẳng định: “lợi ích cá nhân là lợi ích của những con người cá thể, riêng rẽ”; “lợi
ích toàn xã hội là lợi ích chung của các thành phần (cá nhân và các tập thể) trong xã
hội” [9, tr.44-45]. Tác giả cũng phân tích quan hệ giữa các loại lợi ích, trong đó
khẳng định “lợi ích riêng bao giờ cũng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc
đẩy hoạt động của cá nhân”, “lợi ích chung trong trường hợp này lại là điều kiện
đóng vai trò định hướng trong việc thực hiện lợi ích riêng” [9, tr.42-45]. Chúng tôi
tham khảo ở tài liệu này những phân tích lý luận gắn với việc giải quyết các mâu
thuẫn lợi ích cụ thể.
Vấn đề lợi ích kinh tế cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ những
năm 80 của thế kỷ trước, phải kể đến như:
Năm 1982, trong cuốn sách Bàn về các lợi ích kinh tế [132], các tác giả Đào
Duy Tùng, Lê Xuân Tùng, Vũ Hữu Ngoạn… đã phân tích và đưa ra quan niệm về

lợi ích kinh tế: “lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế,
quan hệ giữa người với người trong sản xuất” [132, tr.9]. Ở điểm khác các tác giả
phân tích “Lợi ích kinh tế của xã hội là lợi ích của nhân dân lao động trên phạm vi
cả nước, lợi ích của tất cả các tập đoàn, các thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lợi ích kinh tế của xã hội nảy sinh trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ tập thể về
tư liệu sản xuất, về lao động, đất đai, về tài nguyên thiên nhiên” [132, tr.11]. Cùng
với đó, các tác giả cho rằng: “lợi ích của cá nhân người lao động biểu hiện trước hết
ở tiền lương, tiền thưởng trong các xí nghiệp quốc doanh, ở thu nhập của các xã
viên trong các đơn vị kinh tế tập thể, ở các khoản phụ cấp xã hội về học hành, bảo
vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, v.v..” [132, tr.13].


11
Năm 1988, tác giả Nguyễn Duy Hùng trong công trình Bàn về sự hình thành và
kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể ở nước ta hiện nay, [60] đã cho
rằng: “lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, có tính vật chất, có ý nghĩa thiết
thực đối với hoạt động và phát triển của chủ thể. Song chưa đủ: lợi ích kinh tế còn đảm
bảo duy trì các mối quan hệ giữa các chủ thể” [60, tr.12] và “lợi ích cá nhân là điểm
xuất phát và là động lực mạnh mẽ nhất cho mọi hoạt động” [60, tr.18].
Đi vào phân tích lợi ích kinh tế trong điều kiện hiện nay, năm 2013, tác giả Đỗ
Huy Hà trong công trình Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa
ở nước ta hiện nay [48] khẳng định: “lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế phản
ánh những nhu cầu, động cơ khách quan về sự hoạt động của các chủ thể khi tham gia
vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định” [48,
tr.10]. Công trình cũng đã khẳng định thực chất, nội dung, phân tích thực trạng của
việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay và
đề xuất quan điểm, giải pháp giải quyết tốt quan hệ này. Đây là công trình có nhiều
gợi mở ý tưởng cho tác giả trong việc giải quyết các nội dung cụ thể của giải quyết
quan hệ lợi ích trong đời sống xã hội.
Có thể nói, đây là những công trình hết sức quan trọng, có ý nghĩa đối với

việc nghiên cứu của tác giả; các khái niệm về vấn đề về LICN, LIXH, lợi ích kinh tế
đã được đề cập ở những bối cảnh lịch s khác nhau. Về cơ bản, tác giả kế thừa và
thống nhất với các quan điểm trên đây về định nghĩa LICN, LIXH, lợi ích kinh tế.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về quan hệ và giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội
Đề cập tới quan hệ và vai trò của quan hệ giữa LICN và LIXH, năm 2001,
trong công trình Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với
vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay [74], tác
giả Phạm Huy Kỳ cho rằng: “do mỗi con người cụ thể có những nhu cầu riêng, lợi
ích riêng, không ai giống ai, có thể phù hợp hay không phù hợp, thậm chí đối lập
với LIXH, nên việc giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội có vai
trò và ý nghĩa to lớn. Nó đóng vai trò là cơ sở, động lực cho sự phát triển quan hệ


12
cá nhân - xã hội, và cũng có thể làm triệt tiêu sự phát triển đó, nếu giải quyết không
đúng qui luật của quan hệ lợi ích” [74, tr.21] và “Mối quan hệ biện chứng giữa cá
nhân và xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng đắn khi quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
xã hội được giải quyết một cách hài hòa” [74, tr.22].
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trước đó, năm 2002,
tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích
[76], đã phân tích quan hệ giữa các lợi ích trong sự phát triển xã hội, tác giả cũng đã
chỉ ra: “Quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung thực chất là các quan hệ cơ bản
của một cá nhân hay một nhóm xã hội với cả cộng đồng” [76, tr.98] và “Mối quan hệ
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, hay còn gọi là lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có
ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội” [76, tr.102]. Do vậy, tác giả đã dành
sự quan tâm đến việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH nói riêng và các quan
hệ lợi ích nói chung.

Nói về LICN và LIXH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, trong đề tài Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay [106] (năm 2013) các tác giả khẳng định: “thực chất
của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho
mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực
hiện” [106, tr.33]. Các tác giả cũng đã phân tích quan hệ biện chứng giữa sự phát
triển của cá nhân và sự phát triển của xã hội: “thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã
hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián
tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và
động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp” [106, tr.33]. Cách tiếp cận
về quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích trong công trình này đã gợi mở cho chúng tôi
nhiều ý tưởng để có sự nhìn nhận rộng hơn về quan hệ lợi ích trong xã hội.
Đề cập đến lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân, tác giả Tang Shan Qing
trong Mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân [153] đã
phân tích quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân trong điều
kiện ở Trung Quốc. Tác giả cho rằng: lợi ích công và lợi ích cá nhân có mối quan hệ


13
biện chứng vừa đối lập, lại vừa thống nhất. Một mặt, lợi ích công và lợi ích cá
nhân có tính thống nhất, tương hỗ, chuyển hóa lẫn nhau; mặt khác lợi ích công và
lợi ích cá nhân lại thể hiện tính đối lập, giữa chúng không tránh khỏi việc tồn tại
những mâu thuẫn nhất định. Để giải quyết những mâu thuẫn giữa lợi ích công và lợi
ích cá nhân, cần nhìn nhận lợi ích công dưới góc độ khoa học; thiết lập cơ chế công
khai dân chủ trong nhân dân; thực hiện công bằng, hợp lý; có chính sách bồi thường
lợi ích thỏa đáng; từ đó góp phần làm cho lợi ích công và lợi ích cá nhân có sự phối
hợp nhịp nhàng, hiệu quả.
Như vậy, các công trình nêu trên dù không phải là công trình chuyên biệt, chưa
nêu một cách trực tiếp về quan hệ giữa LICN và LIXH, nội dung và thực chất của nó,

song cũng đã phân tích quan hệ này ở những góc độ khá đa dạng, đó là cơ sở của quan
hệ giữa cá nhân và xã hội. Đây chính là cơ sở ban đầu để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
sâu hơn về quan hệ giữa LICN và LIXH.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về giải quyết quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội
Dù chưa có công trình chuyên biệt nào về giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH, song, qua khảo cứu, chúng tôi nhận thấy cũng đã có nhiều công trình đề cập ở
góc độ nhất định hoặc gián tiếp đến nội dung này, có thể kể đến các công trình như:
Năm 1989, tác giả Phạm Ngọc Quang trong bài viết: “Đổi mới nhận thức về
mâu thuẫn. Vấn đề mâu thuẫn trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta” [108] cho
rằng: mâu thuẫn xã hội thực chất là mâu thuẫn giữa các lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi
ích chính trị, lợi ích tư tưởng...); cách giải quyết các mâu thuẫn xã hội thực chất là
giải quyết, thay đổi mối quan hệ lợi ích giữa các thực thể mang lợi ích đối lập đó;
con đường giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích (nếu đó là những lợi ích chính
đáng, phù hợp với pháp luật của nhà nước) không phải bằng cách thủ tiêu, hạn chế
bất kỳ lợi ích nào trong các lợi ích đối lập ấy, mà bằng con đường tạo ra một cơ chế
cho phép kết hợp hài hòa các lợi ích đối lập. Năm 2008, trong bài viết Những mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con
đường và động lực lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay [109] tác giả Phạm
Ngọc Quang cũng đã chỉ ra rằng: “Động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã


14
hội là một hệ thống: kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn dân;” [109,
tr.8]. Việc chỉ ra cách thức giải quyết mâu thuẫn là kết hợp các lợi ích cũng gợi mở
cho chúng tôi nhiều ý tưởng nghiên cứu.
Năm 2006, trong bài viết Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò,
động lực của nhu cầu, lợi ích trong sự phát triển xã hội [33] tác giả Đặng Quang
Định cho rằng: dưới góc độ phát triển xã hội, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc
nhìn nhận vị trí, vai trò của lợi ích trong hoạt động của mỗi cá nhân cụ thể mà

chúng ta phải nói đến quan hệ biện chứng giữa các lợi ích đó nhằm tìm ra những
động lực chung cho sự phát triển xã hội. Có như vậy, chúng ta mới tạo ra được
những hoạt động của “khối quần chúng đông đảo”, của “một dân tộc trọn vẹn” thúc
đẩy xã hội phát triển. Những đề xuất trong công trình này đặt ra cho chúng tôi
nhiệm vụ tìm kiếm những cách thức giải quyết quan hệ lợi ích một cách lâu dài, trên
cơ sở kết hợp các lợi ích.
Năm 2014, tác giả Hoàng Văn Luân trong công trình Quản trị xung đột lợi
ích - các lý thuyết và vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay [85] đã cho rằng giữa các
lợi ích khác nhau trong xã hội luôn có xu hướng xung đột với nhau, đó là một tất
yếu khách quan và phổ biến. Xung đột lợi ích được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm
hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định. Tác giả
cũng đã lược khảo quan điểm của các nhà tư tưởng trong cách tiếp cận xung đột lợi
ích như F.W.Taylor, Mary Packer Follet... Từ đó, tác giả cho rằng, để thúc đẩy xã
hội phát triển, cần có quản trị xung đột lợi ích - tức là quá trình tác động của nhân tố
chủ quan đến các xung đột lợi ích, hay cụ thể hơn là đến các xu hướng khách quan
của sự cạnh tranh, đấu tranh giữa các lợi ích không phải là sự triệt tiêu sự cạnh
tranh, đấu tranh này, cũng không phải là để đẩy sự cạnh tranh đó thành đối kháng,
thù địch mà tạo ra sự cân bằng năng động giữa các lợi ích - động lực phát triển xã
hội. Tác giả cũng cho rằng: xung đột lợi ích giữa các chủ thể khác nhau có thể là
xung đột LICN - LIXH, xung đột LICN, lợi ích nhóm, xung đột lợi ích nhóm - lợi
ích nhóm, xung đột LICN và/hoặc lợi ích nhóm - lợi ích chung... Công trình rất có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn khi lược khảo các lý thuyết quản trị xung đột trên
thế giới, từ đó có những đánh giá, liên hệ việc quản trị xung đột lợi ích ở Việt Nam.


15
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài nghiên cứu trên tạp chí, tác giả chưa đề cập
cụ thể tới các nhân tố chủ quan trong việc giải quyết xung đột lợi ích.
Đề cập cụ thể tới cách thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích, theo tác giả Nguyễn
Linh Khiếu trong cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [76] đó là: “các

quan hệ lợi ích đặc biệt được thể hiện rõ nhất trong khâu phân chia, phân phối các
sản phẩm lao động” [76, tr.133], tuy nhiên “Cái gốc của phân phối sản phẩm lao
động lại ở vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất” [76, tr.135], do vậy, tác giả khẳng định,
cơ sở giải quyết vấn đề lợi ích của người lao động hiện nay đó chính là vấn đề sở
hữu: “vấn đề lợi ích gắn chặt với vấn đề sở hữu, do đó cơ sở để giải quyết vấn đề lợi
ích của người lao động phải đa dạng hóa vấn đề sở hữu” [76, tr.136]. Cùng với đó,
tác giả cho rằng “chỉ có thể tạo ra sự kết hợp thống nhất giữa lợi ích riêng và lợi ích
chung mới có thể tạo nên sự phát triển chung của xã hội. Cụ thể là, cần tạo ra một
cơ chế kích thích sao cho mỗi cá nhân khi hoạt động thực hiện các lợi ích riêng của
mình, nhất là các lợi ích riêng được phản ánh trong lợi ích chung của cộng đồng,
đồng thời tạo nên xu hướng vận động chung của cộng đồng” [76, tr.96]. Tác giả
cũng xác định: “trong giai đoạn hiện nay, lợi ích kinh tế là lợi ích quan trọng nhất
đối với đa số nhân dân ta” [76, tr.96]. Mặc dù đây mới là những phân tích ban đầu,
song chúng tôi s dụng những phân tích này để xây dựng tổng thể cách thức giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH được nêu trong luận án.
Năm 2011, khi bàn về chủ thể giải quyết mâu thuẫn lợi ích, tác giả Hồ Bá
Thâm trong công trình Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện nay [127], đã nêu:
“những chủ thể rất quan trọng trước hết là bản thân các nhóm, giai tầng xã hội.
Nhưng Nhà nước, chính quyền địa phương và nhất là các cấp từ cơ sở đến trung
ương đều có vai trò cực kỳ quan trọng cả tầm vĩ mô và vi mô trong việc tạo nên môi
trường thể chế và tạo nên hệ thống nhân lực chính làm nòng cốt, đủ sức huy động
mọi tầng lớp xã hội tham gia giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh và xung đột”
[127, tr.328]. Cùng với đó, theo tác giả, việc giải quyết hài hòa các mâu thuẫn, xung
đột - trọng tâm chính là nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền. Những


16
phân tích, luận giải về mâu thuẫn, xung đột lợi ích được nêu trong công trình, giúp
chúng tôi nghiên cứu một cách tổng quát hơn về mâu thuẫn lợi ích trong xã hội.
Có thể nói, mặc dù đã ít nhiều bàn tới tầm quan trọng và phương thức, chủ thể

giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, song vấn đề nội dung của quan hệ này vẫn
chưa được bàn nhiều, vẫn là khoảng trống cần nghiên cứu. Tuy nhiên, qua các công
trình này, chúng tôi đã kế thừa một số nội dung, cùng với các nhận định ở các nghiên
cứu khác sau này để đi đến sự khẳng định về thực chất của việc giải quyết quan hệ
giữa LICN và LIXH đó là việc điều chỉnh hệ thống các lợi ích ở các lĩnh vực khác
nhau, để đạt được sự hài hòa về lợi ích đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của cá
nhân và xã hội.
1.1.4. Những công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hƣởng tới việc
giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Đi vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH có rất nhiều công trình nghiên cứu ở phạm vi rộng, với nhiều khía
cạnh khác nhau, có thể kể đến một số công trình như:
Về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, công trình Những đặc trưng của
kinh tế thị trường và nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa [98] tác giả Vũ Văn Phúc đã nêu lên những đặc trưng mang tính quy luật,
bản chất của KTTT, nêu lên sự khác biệt giữa nền KTTT TBCN và nền KTTT định
hướng XHCN là ở chỗ ai làm chủ sức mạnh kinh tế và sức mạnh chính trị trong một
nước. Cùng với đó, bài viết cũng đã phân tích quá trình nhận thức của Đảng ta về
KTTT định hướng XHCN qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đây là công trình chúng tôi
đã tham khảo trong quá trình nghiên cứu những nội dung về KTTT trong luận án.
Cùng với đó, trong các công trình như: Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay [9] của tác giả Lê Văn
B u, Mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay [59] của tác giả Trần Thị Bích Huệ, Quan hệ giữa
cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [106] của
tác giả Trần Văn Phòng... đã nêu những đặc trưng của nền KTTT định hướng


17
XHCN ở Việt Nam gồm nhiều đặc trưng, trong đó khẳng định những đặc trưng cơ

bản đó là: mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước; là mô hình KTTT với đa dạng các hình thức sở
hữu và đa dạng các thành phần kinh tế, đất đai thuộc sở hữu toàn dân; việc phân
phối trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được thực hiện trên nguyên tắc
chủ yếu theo kết quả, hiệu quả lao động, theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác, đồng thời chú trọng phân phối lại thông qua an sinh xã hội (ASXH) và phúc
lợi xã hội (PLXH)... Các công trình này đã giúp chúng tôi định hình rõ nét các đặc
trưng về KTTT định hướng XHCN ở nước ta có ảnh hưởng tới việc giải quyết quan
hệ giữa LICN và LIXH.
Trên cơ sở những đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN, nhiều công
trình đã đi vào nghiên cứu các tác động của nó đối với việc giải quyết các mâu
thuẫn lợi ích, trong đó có mâu thuẫn giữa LICN và LIXH, biểu hiện bên ngoài đó là
mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội ở nước ta. Về nội dung này đã có một số công
trình đề cập đến như:
Công trình Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay [106] các tác giả đã đề cập trực diện những tác động của
KTTT đến quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Trong đó, ở khía cạnh tích cực, KTTT
định hướng XHCN tạo điều kiện để cá nhân thực hiện quyền làm chủ của mình trên
lĩnh vực kinh tế; tạo lập tiền đề cho sự phát triển toàn diện của cá nhân, khẳng định
cá nhân; phát huy tối đa năng lực, tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mỗi cá
nhân... Tuy nhiên, khi nền KTTT chưa hoàn thiện cũng có thể gây ra những tác
động tiêu cực đối với quan hệ giữa cá nhân và xã hội, đó là: xu hướng đề cao lợi ích
vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần, tạo ra sự tha hoá về đạo đức, lối sống, vô cảm,
thờ ơ, thiếu trách nhiệm; chủ nghĩa cá nhân có cơ hội phát triển mạnh; tạo ra sự bất
bình đẳng xã hội; gia tăng phân hóa giàu nghèo,... Đây là công trình chúng tôi tìm
thấy nhiều giá trị tham khảo cho việc phân tích những tác động của KTTT tới việc
giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH.


18

Đề cập tới yếu tố cá nhân - nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, trong bài viết Cá nhân và sự phát triển của cá
nhân trước những yêu cầu và trong điều kiện hiện nay ở nước ta, [53] tác giả Đoàn
Đức Hiếu đã nêu quan điểm khá căn bản về cá nhân và những yêu cầu, thách thức
trong điều kiện của nước ta (vào những năm 90 của thế kỷ XX) đòi hỏi sự phát triển
của cá nhân. Cũng tác giả Đoàn Đức Hiếu, trong bài viết Về cơ chế đánh giá cá
nhân trong sự phát triển con người [54] đã đề cập đến quan hệ cá nhân trong lịch s
và hiện tại, nhưng nghiêng về cách đánh giá cá nhân trong sự phát triển con người.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra các quan điểm trong việc nhìn nhận, đánh giá cá
nhân trong bối cảnh KTTT hiện nay đó là: cần đảm bảo tính khách quan, đầy đủ,
chính xác, rõ ràng và tạo mọi điều kiện cho cá nhân phát triển. Các bài báo tuy
ngắn gọn nhưng có những gợi mở lý thú trong quan niệm về cá nhân và yêu cầu
phát triển cá nhân gắn với những yếu tố LICN.
Đi vào phân tích vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là cá nhân,
doanh nghiệp trong việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, có khá nhiều bài
viết như: Nâng cao trách nhiệm xã hội của cá nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường [56] của tác giả Nguyễn Đình Hòa; Mối quan hệ giữa trách nhiệm cá nhân
và trách nhiệm nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
[130] của tác giả Lê Thi; Trách nhiệm xã hội của cá nhân và yêu cầu nâng cao
trách nhiệm này ở Việt Nam [131] của tác giả Trần Thị Tuyết. Các bài viết này đã
có những đề cập tới vai trò, trách nhiệm của chủ thể cá nhân, nhà nước trong thực
hiện lợi ích liên quan đến cá nhân và xã hội. Các công trình này đã cung cấp những
phân tích thực tế cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu luận án.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI

Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu về lợi ích chúng tôi nhận thấy, chưa
có công trình nghiên cứu chuyên biệt về thực trạng giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH. Song, có thể nói, đã có khá nhiều công trình đề cập tới thực trạng việc giải



19
quyết các mâu thuẫn lợi ích cụ thể của xã hội trong những điều kiện nhất định. Các
công trình có thể kể đến như:
Năm 1999, trong cuốn sách Lợi ích - động lực của sự phát triển xã hội [75]
của tác giả Nguyễn Linh Khiếu cho rằng: Trong việc nhận thức các vấn đề xã hội,
điều quan trọng là, phải tìm ra được những lợi ích nào đang là bức thiết và căn bản
nhất trong hệ thống các lợi ích đang chi phối sự hoạt động của từng cá nhân, của các
nhóm xã hội cũng như của cả xã hội trong giai đoạn lịch s ấy. Theo đó, một số vấn
đề lợi ích đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là: vấn đề quan hệ của các hệ
thống lợi ích cụ thể trong cơ chế thị trường hiện nay (lợi ích nhà nước, lợi ích tập
thể, lợi ích người lao động); vấn đề quan hệ giữa một số lợi ích chủ yếu trong giai
đoạn hiện nay (lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài); vấn đề lợi ích trong quan hệ kinh tế đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam; lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn
hiện nay. Những đánh giá về thực trạng quan hệ lợi ích trong công trình này đã khá
lâu, song những nhận định của tác giả về các vấn đề đặt ra vẫn còn giá trị thực tiễn và
chúng tôi tham khảo từ công trình này những quan điểm đó để có những đánh giá về
thực trạng giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH.
Năm 2002, đánh giá về quan hệ giữa LICN và LIXH nhưng qua góc độ đạo
đức xã hội, tác giả Phạm Văn Đức trong công trình Mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay [42] đã chỉ
ra quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, nhất là LICN và đạo đức trong điều kiện KTTT
nói chung và ở Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra những thay đổi đạo đức do LICN
thay đổi, đặc biệt đề cập đến những tác động tiêu cực của KTTT, thông qua LICN
đã có những tác động tiêu cực tới đạo đức truyền thống.
Năm 2012, trong công trình Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội
[40] của tác giả Đặng Quang Định đã có những phân tích về thực trạng vấn đề lợi
ích trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước ta hiện nay. Trong đó, theo tác giả,
trong những năm đổi mới, chúng ta đã tìm ra được phương thức điều chỉnh hợp lý

hơn quan hệ giữa cá nhân và xã hội, nhất là tạo điều kiện để cá nhân phát triển. Tuy
nhiên, dưới tác động của mặt trái của KTTT, trong những năm gần đây, quan hệ


20
giữa cá nhân và xã hội ở nước ta đang bộc lộ những bất cập mới, đó là xu hướng
quá đề cao LICN làm cho lợi ích chung, LIXH bị tổn hại. Mặc dù trong công trình
này, dung lượng đề cập tới vấn đề lợi ích trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội
không nhiều, song là những gợi mở quan trọng để chúng tôi kế thừa trong đánh giá
về thực trạng vấn đề này trong nội dung của luận án.
Năm 2012, trong công trình Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: từ góc nhìn
lịch sử đạo đức học [97], tác giả Nguyễn Văn Phúc đã lược khảo lịch s tư tưởng
đạo đức hai khuynh hướng đối lập nhau khi tiếp cận và giải quyết vấn đề quan hệ
giữa LICN và LIXH: một khuynh hướng tuyệt đối hóa LICN, một khuynh hướng
tuyệt đối hóa LIXH. Tuy nhiên, theo tác giả bài viết, xu thế vận động của tư tưởng
đạo đức của nhân loại là tiến tới sự thống nhất giữa LICN và LIXH trên cơ sở vận
động của bản thân lịch s nhân loại tiến tới chủ nghĩa cộng sản - xã hội không có
đối kháng về kinh tế - xã hội. Tác giả cũng đã nêu quan hệ biện chứng giữa LICN
và LIXH: “giải phóng xã hội khỏi những đối kháng là điều kiện cho sự giải phóng
cá nhân. Đồng thời, sự giải phóng cá nhân, sự phát triển tự do của mỗi người lại là
điều kiện để phát triển tự do của mọi người, của xã hội” [97, tr.20]. Dù chủ yếu
dừng lại ở góc độ đạo đức, đây là một trong số ít các công trình đề cập trực tiếp đến
quan hệ giữa LICN và LIXH.
Năm 2013, trong công trình Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [106], các tác giả đã có những đánh giá toàn
diện về thực trạng quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện hiện nay ở nước
ta, bao gồm cả thành tựu, hạn chế, cũng như một số vấn đề đặt ra cho việc giải
quyết tốt quan hệ này trong giai đoạn tiếp theo nhằm thúc đẩy sự phát triển cá nhân
và xã hội. Công trình cũng đã chỉ ra cốt lõi của quan hệ giữa cá nhân và xã hội là
quan hệ lợi ích. Do vậy, những đánh giá về thực trạng giải quyết quan hệ giữa cá

nhân và xã hội trong công trình này rất có giá trị đối với chúng tôi trong việc chắt
lọc để đánh giá về thực trạng giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH.
Đi vào phân tích việc giải quyết những lợi ích cụ thể, năm 2008, tác giả Trần
Đắc Hiến trong công trình Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay
[65], đã đề cập đến thực trạng và nguyên nhân của những mâu thuẫn xã hội ở nông


×