Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Kỹ thuật xDSL - Công nghệ truy vấn nội hạt tốc độ cao xDSL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.93 MB, 25 trang )

Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

36
Chương 2:

KỸ THUẬT xDSL

2.1 Công nghệ truy xuất nội hạt tốc độ cao xDSL

2.1.1 Sự ra đời của kỹ thuật DSL

DSL (Digital Subscriber Line: đường dây thuê bao số) được sử dụng đầu tiên với
ISDN (Integrated Services Digital Network: mạng số đa dòch vụ) là mạng tiên phong
trong việc số hoá dòch vụ thoại, tích hợp với dòch vụ số liệu truyền tải từ người sử dụng
đến người sử dụng. Nhiều đặc tính tiến bộ của các phiên bản xDSL sau này được lấy từ
thực tế của ISDN DSL.
Trong những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước nhiều nhà cung cấp đã mạnh
dạng dùng 2B1Q ở tốc độ truyền dẫn cao hơn để cung cấp các đường truyền T1 và E1
mà không dùng các trạm tiếp vận. Kỹ thuật được sử dụng là chia dòch vụ 1 544 000 bps
thành 2 cặp (4 dây), mỗi đôi dây hoạt động ở tốc độ 784 000 bps. Bằng cách chia dòch
vụ qua 2 đôi dây và tăng số bit thông tin trên mỗi tín hiệu làm cho tốc độ truyền dẫn trên
mỗi đôi dây cần phổ tần số hẹp hơn và cho phép thực hiện đường dây thuê bao dài hơn.
Kỹ thuật này gọi là đường dây thuê bao số tốc độ cao (HDSL: High-bit-rate Digital
Subscriber Line). Kết quả là HDSL trên nền tảng dòch vụ DS-1 đã có thể truyền tải qua
khoảng cách dài đến 4 000 m cho cỡ dây 24 AWG và 3 000 m cho cỡ dây 26 AWG mà
không phải bố trí các trạm tiếp vận.

HDSL E1 dựa trên 2B1Q ban đầu chia dòch vụ 2048 kbps thành 3 đôi dây
(tổng cộng là 6 dây) để cố gắng đạt được độ dài vòng thuê bao mong muốn.
Khi kỹ thuật đã được hình thành và việc thực hiện được cải tiến HDSL E1
chuyển sang sử dụng 2 đôi dây (tổng cộng là 4 dây), mỗi đôi dây hoạt động


ở tần số 1168 kbps giống như với đường truyền T1.

Trong hình vẽ 2.1 HTU-C là HSDL Termination Unit/Central Office, HTU-R là
HSDL Termination Unit Remote.
Cùng với 2B1Q hãng Paradyne (vào lúc đó là một chi nhánh của công ty AT&T)
bắt đầu phát triển một hệ thống thu phát tương tự HDSL sử dụng một kiểu mã hoá gọi là
kỹ thuật điều chế CAP (Carrierless Amplitude and Phase). Giống như mã 2B1Q, CAP là
một kỹ thuật mã hoá tiên tiến cho phép truyền nhiều bit thông tin trên một chu kỳ tín hiệu
hay baud. Tuy nhiên CAP được thiết kế để có thể truyền từ 2 đến 9 bit trên một chu kỳ tín
hiệu. Điều này cho phép các máy thu phát dựa trên kỹ thuật CAP phát một lượng thông
tin sử dụng phổ tần nhỏ hơn 2B1Q nghóa là suy hao tín hiệu nhỏ hơn và vòng thuê bao
dài hơn. Cả hai phương pháp mã hoá 2B1Q và CAP đều được 2 tổ chức tiêu chuẩn hoá
là Viện tiêu chuẩn hoá quốc gia Hoa Kỳ (ANSI: American National Standards Institute) và
Viện tiêu chuẩn hoá viễn thông châu Âu (ETSI: European Telecommunications
Standardization Institute) thực hiện tiêu chuẩn hoá cho HDSL.

Có một vài trường hợp các nhà sản xuất phát triển các sản phẩm sử dụng
các kỹ thuật mã hoá khác với 2B1Q và CAP. Tuy nhiên, những trường hợp
này là riêng lẻ và không được các cơ quan tiêu chuẩn hoá thừa nhận.
Kỹ thuật xDSL Đặng Quốc Anh

37
Hình 2.5 cung cấp một so sánh có tính chất lý thuyết tốc độ đường truyền so với
độ dài vòng thuê bao trong các trường hợp AMI, CAP và dung lượng cực đại Shannon.
Hình 2.4 minh hoạ tầm tần số của truyền dẫn mã hoá AMI so với kỹ thuật truyền
dẫn HDSL T1. Hình vẽ cho thấy T1 sử dụng mã AMI chiếm phổ tần số rộng gấp 4 lần
phổ của 2B1Q và gấp 9 lần phổ của CAP.




Hình 2.1 Mô hình thay thế T1/E1 không có các trạm tiếp vận



Hình 2.2 Mô hình HSDL2 thay thế T1

Tín hiệu tần số cao hơn của AMI sẽ mau yếu hơn truyền dẫn HDSL. Vì vậy HDSL
sử dụng 2B1Q và CAP đạt được vòng thuê bao dài hơn với AMI ở đường truyền T1 và với
HDB3 ở đường truyền E1.
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

38

Hình 2.3 Mô hình sử dụng shdsl thay thế T1/E1



Hình 2.4 So sánh phổ tần của HDSL và T1 sử dụng AMI

Các kỹ thuật DSL mới hấp dẫn và hứa hẹn hơn nhiều. Các kỹ thuật DSL này có
tên chung là xDSL với x đại diện cho một vài chữ cái nào đó. Một số kỹ thuật xDSL cung
cấp liên lạc ở chế độ song công đối xứng (liên lạc 2 chiều cùng tốc độ) trong khi một số
kỹ thuật xDSL khác cung cấp liên lạc ở chế độ song công bất đối xứng (liên lạc 2 chiều
khác tốc độ). Các chế độ liên lạc song công bất đối xứng đặc biệt thích hợp với các dòch
vụ mới như video-on-demand (video theo yêu cầu), truy xuất trang Web vì trong các dòch
vụ này lưu lượng dữ liệu từ máy của người sử dụng đưa về nhà cung cấp dòch vụ bao giờ
cũng nhỏ hơn nhiều so với lưu lượng theo chiều ngược lại: từ nhà cung cấp dòch vụ đến
máy của người sử dụng. Bảng 2.1 liệt kê các dạng xDSL.

Kỹ thuật xDSL Đặng Quốc Anh


39

Hình 2.5 So sánh giữa tốc độ đường truyền và độ dài vòng thuê bao

Bảng 2.1 Công nghệ xDSL trên dây cáp đồng so với modem qua PSTN

Tên Ý nghóa Tốc độ dữ liệu Chế độ Ứng dụng
V.22
V.32
V.34
Voice-grade modem 1200 bit/s đến
33600 bit/s
Song công Thông tin số liệu dựa
trên PSTN
ISDL Integrated Digital
Subscriber Line
160 kbps
a)
Song công
b)
Dòch vụ ISDN cho thông
tin thoại và số liệu
HDSL High data rate Digital
Subscriber Line
1,544 kbps
c)

2,048 kbps
d)


Song công

Song công

Mạng cung cấp T1/E1,
truy xuất WAN, LAN, truy
xuất server
SDSL Single-line Digital
Subscriber Line
1,544 kbps
2,048 kbps
Song công
Song công
Như HDSL nhưng thêm
phần truy xuất đối xứng
ADSL Asymmetric Digital
Subscriber Line
1,5 đến 9 Mbps
16 đến 640 kbps
Downstream
Upstream
Truy xuất Internet, video
demand, interactive
multimedia, truy xuất
LAN từ xa
VDSL
e)g)
Very high rate Digital
Subscriber Line

13 đến 52 Mbps
1,5 đến 23 Mbps
Down
f)
Up
f)
Như ADSL nhưng thêm
HDT

Nguồn: ADSL Forum
a) 160 kbps được chia làm 2 kênh B (64 kbps) và một kênh D (16 kbps) và các bit phục vụ ghép
kênh.
b) Song công có nghóa là dữ liệu được truyền đồng thời theo 2 chiều.
c) Cần 2 đường dây cáp xoắn đôi.
d) Cần 3 đường dây cáp xoắn đôi.
e) Còn gọi là BDSL, VADSL hay ADSL VDSL
f) Down là Down stream: từ mạng xuống đến người sử dụng còn Up là Upstream: từ người sử dụng
lên mạng.
g) Tương lai gần VDSL có thể tốc độ upstream bằng tốc độ downstream nhưng với đường dây
ngắn hơn.

Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

40
HDSL hoạt động ở 1544kbps (đường truyền T1 ở Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và Mễ Tây
Cơ) và ở 2048kbps (đường truyền E1 ở châu Âu). Ở cả 2 tốc độ này HDSL đều là đối
xứng (tốc độ như nhau ở cả 2 hướng). HDSL hoạt động ở tốc độ 1544kbps sử dụng 2 đôi
dây xoắn đôi với độ dài tối đa là 5Km còn HDSL hoạt động ở 2048kbps sử dụng 3 đôi
dây cho cùng khoảng cách này. Phiên bản mới nhất của HDSL là HDSL2 chỉ dùng một
đôi dây. SDSL là giải pháp cố gắng sử dụng một đôi dây cáp xoắn đôi dài dưới 3300m và

có tốc độ truyền ngang ngửa với HDSL. SDSL cung cấp truyền tải 768kbps và vì HDSL2
thực hiện được tất cả các chức năng truyền tải của SDSL và còn tốt hơn nên về sau
SDSL sẽ bò thay thế bởi HDSL2.
ADSL khắc phục nhược điểm cự ly thông tin ngắn của SDSL do truyền tải song
công đối xứng bằng cách thực hiện truyền song công bất đối xứng thích hợp với các dòch
vụ dải rộng ngày nay và đưa cự ly thông tin lên đến 6000m.VDSL là thành viên mới nhất
của họ xDSL với tốc độ truyền tải nhanh nhất và cự ly truyền tải trên cáp đồng lên đến
1500m phục vụ chủ yếu cho ATM.

2.1.2 Vòng thuê bao DSL

Với công nghệ DSL đường dây cáp đồng xoắn đôi vẫn như cũ nhưng lắp thêm một
số thiết bò cho phép nhà cung cấp dòch vụ thực hiện dòch vụ thoại và dữ liệu tốc độ cao. Ở
phía thuê bao thoại được phát qua tín hiệu điện thoại tương tự vào vòng thuê bao cáp
đồng. Số liệu cũng được truyền tải trên cùng đường dây với thoại nhưng phải qua một bộ
modem DSL phát số liệu qua tín hiệu số dung lượng lớn tần số cao. Những tín hiệu này
được gởi từ thuê bao cho tổng đài nội hạt.
Ở tổng đài nội hạt tín hiệu được chuyển sang cho một bộ tách tín hiệu (splitter) và
một hệ thống quản lý vòng thuê bao (local-loop management system) đến bộ ghép truy
xuất đường dây thuê bao số (DSLAM: Digital Subscriber Line Access Multiplexer). Bộ
tách tín hiệu lọc tín hiệu điện thoại tiêu chuẩn và chuyển cho bộ chuyển mạch thoại còn
tín hiệu số dung lượng lớn được đưa đến bộ DSLAM để nhận biết, ghép tín hiệu từ nhiều
đường dây thuê bao khác nhau. Hệ thống quản lý vòng thuê bao có thể nằm trước hoặc
sau bộ tách tín hiệu có chức năng kiểm tra dòch vụ điện thoại thuần tuý (POTS: Plain Old
Telephone Service) và kiểm tra tín hiệu số dung lượng lớn để trợ giúp cài đặt dòch vụ,
bảo dưỡng và sửa chữa.
Từ DSLAM, dữ liệu số được đưa qua một bộ đònh tuyến (router) để chuyển đến
mạng Internet.

Hình 2.6 Vòng thuê bao DSL

Kỹ thuật xDSL Đặng Quốc Anh

41

Để cung cấp dòch vụ truyền tải dữ liệu tốc độ cao và dòch vụ thoại đa kênh nhà
cung cấp dòch vụ cần phải lắp đặt thêm nhiều thiết bò như minh hoạ ở hình vẽ 1.11. Ở tại
thuê bao các đường dây thoại và số liệu được kết nối đến một thiết bò truy xuất tích hợp
(IAD: Integrated Access Device). Tại đây tín hiệu thoại được gói hoá (packetize) và tín
hiệu thoại dạng gói cùng với dữ liệu được ghép lại và được truyền dưới dạng tín hiệu số
dung lượng lớn tần số cao đến tổng đài nội hạt (CO: Central Office). Ở tổng đài nội hạt tín
hiệu được chuyển qua hệ thống quản lý đường dây thuê bao và được tiếp nhận tại
DSLAM. Hệ thống quản lý vòng thuê bao có chức năng kiểm tra dòch vụ điện thoại thuần
tuý (POTS: Plain Old Telephone Service) và kiểm tra tín hiệu số dung lượng lớn để trợ
giúp cài đặt dòch vụ, bảo dưỡng và sửa chữa. Bộ DSLAM nhận biết và ghép tín hiệu từ
nhiều đường dây thuê bao khác nhau.


Hình 2.7 Vòng thuê bao DSL đa dòch vụ

Từ DSLAM, dữ liệu gói được đưa qua một bộ đònh tuyến (router) để chuyển đến
mạng PSTN hay Internet. Với mạng đường dây thuê bao số mới này đặc tính tín hiệu
truyền giữa thuê bao và tổng đài khác với mạng tương tự dải hẹp rất nhiều. Tín hiệu được
truyền ở tần số cao hơn và phổ tần số rộng hơn. Thông tin đa dòch vụ, thoại đa kênh, dữ
liệu tốc độ cao và video được truyền dưới dạng tín hiệu số. Để quản lý mạng này một
cách hiệu quả nhà cung cấp dòch vụ cần phải có nhiều công cụ mới và nhiều chiến lược
quản lý mạng mới.

2.1.3 Kỹ thuật DSL

Mạng PSTN mạng thuê bao nội hạt của nó được thiết kế theo tiêu chuẩn giới hạn

truyền dẫn kênh thoại tương tự 3400Hz. Ví dụ: điện thoại, MODEM quay số, MODEM fax,
đều được giới hạn truyền dẫn trên đường dây điện thoại với phổ tần số từ 0 Hz đến
3400Hz. Tốc độ thông tin cao nhất có thể đạt được trong phổ tần số 3400Hz là 35kbps
và thực tế đã đạt được 33,6 kbps.
Vậy làm cách nào công nghệ DSL có thể đạt được tốc độ thông tin hàng triêäu bit
mỗi giây trên cùng một môi trường truyền dẫn cáp đồng như vậy. Câu trả lời thật đơn
giản: loại bỏ giới hạn 3400Hz! DSL cũng như T1 và E1 trước đó sử dụng tầm tần số rộng
hơn kênh thoại. Ứng dụng như vậy đòi hỏi truyền dẫn thông tin trên một tầm tần số rộng
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

42
từ một đầu dây tới thiết bò thu ở đầu bên kia. Có 3 vấn đề nảy sinh khi ta loại bỏ giới hạn
3400Hz và đột ngột tăng cao tốc độ thông tin trên cáp đồng:
- Suy hao (attenuation): là tiêu tán năng lượng của tín hiệu truyền dẫn trên
đường dây. Việc đi dây trong nhà cũng góp phần làm suy hao tín hiệu.
- Bridged tap: Các đoạn dây kéo dài không có kết thúc của vòng thuê bao
gây ra thêm mất mát một số tần số xung quanh giá trò tần số có một phần
tư bước sóng bằng độ dài đoạn kéo thêm.
- Xuyên kênh (crosstalk): xuyên kênh giữa hai đôi dây trong một bó cáp gây
ra bởi năng lượng điện mang theo trong mỗi đôi dây.
Người ta thường so sánh truyền dẫn tín hiệu điện với lái xe hơi. Tốc độ xe hơi càng
nhanh càng tốn nhiều nhiên liệu và càng mau phải đổ xăng. Với tín hiệu điện truyền trên
cáp đồng thì sử dụng tần số càng cao sẽ càng làm giảm cự ly thông tin. Điều này là do
tín hiệu tần số cao truyền qua cáp kim loại suy hao nhanh hơn tín hiệu tần số thấp. Một
phương pháp để tối thiểu hoá suy hao là sử dụng dây trở kháng thấp. Dây cỡ lớn có trở
kháng nhỏ hơn dây cỡ nhỏ nên làm suy hao tín hiệu ít hơn và tín hiệu có thể truyền được
đến khoảng cách lớn hơn. Dó nhiên sử dụng dây cỡ lớn sẽ làm tăng nhanh chi phí cho
mạng cáp tính trung bình trên từng metre dây. Vì vậy các công ty khai thác điện thoại
thiết kế mạng cáp sử dụng cỡ dây nhỏ nhất có thể được cho dòch vụ truyền tải.


Ở Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và Mễ Tây Cơ), mạng cáp nội hạt thường là
24AWG và 26AWG. Quy tắc thiết kế được hầu hết các công ty điện thoại sử
dụng là dùng cỡ dây nhỏ hơn một chút cho các vòng thuê bao gần tổng đài
nội hạt để tiết kiệm tối đa khoảng không gian chiếm chỗ và dùng cỡ dây lớn
hơn một chút cho các vòng thuê bao xa để mở rộng tối đa chiều dài vòng
thuê bao.
Trong hầu hết các thò trường ngoài Bắc Mỹ cỡ dây được xác đònh bằng
đường kính với đơn vò đo là milimetre. Chẳng hạn 0,4 mm tương đương với
26 AWG và 0,5 mm tương đương với 24 AWG là các cỡ dây được sử dụng
nhiều nhất trong khi ở các quốc gia đang phát triển đôi khi cỡ dây được sử
dụng ở các vùng dân cư mới đã tăng lên đến 0,6 mm hay 0,9 mm. Sự không
đồng nhất cỡ dây đã tăng thêm thách thức trong việc xác đònh thực hiện
từng loại hệ thống DSL cho từng loại vòng thuê bao riêng biệt.

Vào những năm đầu của thập kỷ 80 trong thế kỷ trước, các nhà cung cấp thiết bò
đã đầu tư phát triển hướng đến ISDN tốc độ cơ sở cung cấp 2 kênh B (Binary channel)
64 kbps và một kênh D (Digital channel) dùng cho báo hiệu và truyền dữ liệu. Các bit dữ
liệu nghiệp vụ thêm vào làm cho tốc độ đường truyền phải lên đến 160 kbps. Điều chủ
yếu để đường dây ISDN có thể kéo dài đến 6000 m là sử dụng các vòng thuê bao cáp
đồng không có cuộn phụ tải. Tuy nhiên kỹ thuật mã AMI đòi hỏi phải truyền tải ở tốc độ
nhỏ hơn 160 000 Hz. Vào năm 1988 người ta tăng hiệu quả của mã AMI lên gấp đôi
bằng cách sử dụng truyền tải 2 bit thông tin trên mỗi chu kỳ tín hiệu hình sine hay baud.
Mã đường dây này được gọi là mã 2 bit nhò phân một tín chữ số tứ phân (2B1Q: 2 Binary
1 Quaternary). Mã 2B1Q trên đường truyền BRI của ISDN sử dụng tầm tần số từ 0 đến
xấp xỉ 80 000Hz và đạt đến tầm liên lạc 6 000 m.
Năng lượng điện được truyền trên cáp đồng là sóng đã được điều chế và nó phát
xạ năng lượng qua các vòng dây đồng lân cận trong cùng một bó cáp. Sự ghép năng
lượng điện từ này gọi là xuyên kênh (crosstalk). Trong mạng điện thoại các dây dẫn đồng
Kỹ thuật xDSL Đặng Quốc Anh


43
cách điện được bó với nhau thành một chão cáp. Các hệ thống kế cận trong một chão
cáp phát hoặc thu thông tin trong cùng một tầm tần số có thể tạo ra nhiễu xuyên kênh
đáng kể. Đó là do tín hiệu xuyên kênh cảm kháng kết hợp với tín hiệu truyền trên đường
dây. Kết quả là dạng sóng có hình dáng khác xa với dạng sóng được truyền đi.
Xuyên kênh có thể phân thành 2 loại:
- Xuyên kênh đầu gần (NEXT: Near End Crosstalk) là đáng kể nhất do tín
hiệu năng lượng lớn từ các mạch kế cận có thể cảm ứng tạo ra xuyên kênh
tương đối mạnh lên tín hiệu nguyên thủy.
- Xuyên kênh đầu xa (FEXT: Far End Crosstalk) thường nhỏ hơn nhiều so
với xuyên kênh đầu gần vì tín hiệu đầu xa bò suy hao khi nó chạy trên vòng
thuê bao.


Hình 2.8 Mô hình khái niệm NEXT/FEXT

Xuyên kênh là yếu tố rất quan trọng trong việc thực hiện nhiều hệ thống. Vì vậy,
việc thực hiện hệ thống DSL thường được nói đến kèm theo sự hiện diện của các hệ
thống khác có khả năng tạo ra xuyên kênh. Chẳng hạn, độ dài tối đa của vòng thuê bao
của một hệ thống DSL có thể được nói đến kèm theo sự hiện diện của 49 tác nhân gây
nhiễu ISDN hay 24 tác nhân gây nhiễu HDSL nghóa là DSL đang sử dụng nằm trong một
bó cáp 50 đôi có 49 đôi dây ISDN hoặc 24 mạch 4 dây HDSL. Vì vậy, các tham số thực
hiện sẽ còn có tác dụng trong một thời gian dài.

Phát và thu thông tin trên cùng một phổ tần số sẽ tự tạo ra nhiễu trong
chính một vòng thuê bao. Nhiễu này khác với xuyên kênh vì dạng sóng ở
phát đã được máy thu cùng đầu dây biết trước và có thể được loại trừ một
cách hiệu quả từ tín hiệu thu đã bò suy hao. Phương pháp loại trừ thành
phần sóng phát gọi là triệt tiếng dội (echo cancellation).


Khi tác động của suy hao và nhiễu không lớn lắm thì các hệ thống DSL có thể
phục hồi lại chính xác tín hiệu dưới dạng số. Tuy nhiên, khi tác động của các hiện tượng
này khá lớn thì tín hiệu sẽ không phục hồi được chính xác ở đầu thu và sẽ xảy ra sai
nhầm trong chuỗi bit phục hồi. Một vài hệ thống DSL dùng các phổ tần khác nhau để
phát và thu tín hiệu. Phương pháp tách biệt tần số này gọi là ghép kênh phân tần (FDM:
Frequency Division Multiplexing). Ưu điểm của của các hệ thống FDM so với các hệ
thống triệt tiếng dội là loại trừ được xuyên kênh đầu gần NEXT vì hệ thống không thu tín
hiệu cùng tần số với tín hiệu phát của các hệ thống lân cận. Xuyên kênh còn lại là FEXT
nhưng FEXT xuyên kênh rất yếu do nguồn tạo ra FEXT ở tận đầu bên kia của vòng thuê
bao làm suy hao FEXT rất nhiều. Vì vậy, các hệ thống FDM thường chống nhiễu từ các
hệ thống lân cận tốt hơn so với các hệ thống triệt tiếng dội.

Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

44
Một hiện tượng khá lý thú cần lưu ý là các hệ thống triệt tiếng dội tạo ra tự
xuyên kênh (self NEXT). Tự xuyên kênh tạo ra nhiễu đáng kể cho các hệ
thống triệt tiếng dội khác trong cùng một chão cáp. Vì vậy việc sử dụng
nhiều hệ thống triệt tiếng dội giống nhau sẽ làm giảm khả năng kéo dài
vòng thuê bao của cả nhóm trong cùng một chão cáp. Ví dụ, một hệ thống
HSDL T1 dựa trên CAP hay 2B1Q riêng lẻ có thể đạt được độ dài 4 Km. Tuy
nhiên khi thêm vài hệ thống dựa trên CAP hay 2B1Q thì độ dài vòng thuê
bao tối đa chỉ còn 3 Km hay ngắn hơn nữa. Hiện tượng này hầu như xảy ra ở
hầu hết các đường dây thuê bao số sử dụng phương pháp triệt tiếng dội. Do
vậy khi chọn công nghệ DSL các nhà cung cấp dòch vụ phải kiểm tra việc
thực hiện hệ thống với sự hiện diện của NEXT chắc chắn sẽ tồn tại khi có
nhiều dòch vụ được sử dụng.

Cách xử lý kỹ thuật của các hệ thống FDM là các tín hiệu của 2 chiều upstream
và downstream chiếm giữ tầm tần số lớn hơn nhiều so với các hệ thống triệt tiếng dội

chồng chập tín hiệu thu và phát làm giảm chiều dài tối đa của vòng thuê bao.
Trong nhiều trường hợp suy hao là yếu tố chính khi thực hiện còn trong các trường
hợp khác xuyên kênh lại là nhân tố ảnh hưởng chính. Vì vậy việc vận dụng tối ưu thay đổi
tuỳ theo môi trường làm việc. Trong môi trường có các hệ thống giới hạn xuyên kênh đầu
gần thì hệ thống triệt tiếng dội tỏ ra tốt hơn còn trong môi trường mà xuyên kênh đầu gần
lấn át thì hệ thống FDM thực hiện tốt hơn.



Hình 2.9 Đặc tính phổ tần của hệ thống tín hiệu triệt tiếng dội EC
so với hệ thống tín hiệu ghép phân tần FDM

Một cách để quản lý chắc chắn xuyên kênh là đầu tiên phải khảo sát các dòch vụ
được sử dụng trong cùng một bó cáp và tránh việc những dòch vụ này tạo ra xuyên kênh.
Ví dụ: phổ của đường truyền T1 AMI hay đường truyền E1 HDB3 ảnh hưởng xuyên kênh
đến hầu hết các đường dây DSL. Do vậy, hầu hết các nhà cung cấp dòch vụ theo một
quy tắc là không cho phép sử dụng các dòch vụ T1 hay E1 trong cùng một bó cáp với các
đường dây DSL. Trong một cố gắng để kích thích sự cạnh tranh trên thò trường FCC đã tổ
chức một hội nghò bàn tròn về quản lý phổ (Spectrum management) vào tháng 10 năm
1998 để đạt được tiêu chuẩn công nghiệp cho phép các nhà cung cấp dòch vụ khác nhau
cùng chia nhau mạng cáp với các sản phẩm cạnh tranh. Kết quả của hội nghò bàn tròn là
uỷ ban ANSI T1E1.4 (ANSI: American National Standardization Institute) được yêu cầu
phát triển một tiêu chuẩn quản lý phổ vì những kinh nghiệm của họ trong lónh vực tiêu
chuẩn hoá công nghệ thuê bao nội hạt. Tiến trình vẫn rất chậm chạp do phải đạt được
quan hệ cân bằng giữa các tổ chức quản lý mạng và các nhà cung cấp dòch vụ. Tuy
nhiên người ta mong đợi thỏa thuận sẽ đạt được một thời gian ngắn sắp tới với sự thông
Kỹ thuật xDSL Đặng Quốc Anh

45
qua của FCC về những vấn đề cơ bản của tiêu chuẩn trong tương lai. Nền công nghiệp

sẽ sử dụng tiêu chuẩn này làm cơ sở cho phát triển công nghệ và các quy tắc sử dụng
vòng thuê bao.
Mục tiêu của tiêu chuẩn là cho phép đổi mới và cạnh tranh giữa các nhà cung cấp
dòch vụ cũng như giữa các nhà cung cấp thiết bò trong khi vẫn bảo vệ các dòch vụ hiện
có. Điều này có được từ các hạn chế về công suất phát, tần số tín hiệu và độ dài vòng
thuê bao. Chín nhóm quản lý tần số được xây dựng bao gồm phổ tần số của các độ rộng
khác nhau và giới hạn độ dài vòng thuê bao của chúng. Phổ tần số rộng hơn sẽ cho
phép tốc độ số liệu cao hơn nhưng lại hạn chế độ dài vòng thuê bao nhiều hơn.

2.1.4 Các thành phần của hệ thống DSL

Như đã đề cập ở các chương trước, cơ sở hạ tầng mạng cáp đồng hiện nay vốn
được thiết kế để truyền tải dòch thoại và trên thực tế nó đã thực hiện rất xuất sắc. Tuy
nhiên, mạng điện thoại hiện tại không thích hợp cho việc truyền dữ liệu tốc độ cao.
Hình 2.18 minh hoạ một cấu hình mạng truyền thống cung cấp dòch vụ truyền số
liệu tốc độ thấp (chẳng hạn, 28,8 kbps) và dữ liệu tốc độ cao. Ở phía khách hàng được
bố trí một MODEM tương tự cung cấp kết nối tốc độ thấp với mạng truy nhập nội hạt hoặc
một DSU (Digital Service Unit) hay NTU (Network Termination Unit) dùng cho kết nối tốc
độ cao như các dòch vụ 56/64 kbps hay T1/E1. Khi chuyển từ thế giới tương tự tốc độ
thấp sang thế giới số tốc độ cao người ta đã thực hiện một biến đổi quan trọng. Trong khi
tín hiệu MODEM tương tự được truyền tải qua hệ thống chuyển mạch điện thoại (cung
cấp khả năng quay số toàn thế giới) thì tất cả dữ liệu tốc độ cao đều đi vòng qua hệ
thống chuyển mạch này. Đó là do các hệ thống chuyển mạch điện thoại không được thiết
kế để truyền tải dữ liệu tốc độ cao.

Hình 2.10 Truyền dữ liệu vào mạng điện thoại truyền thống

Ở hình vẽ 2.10 người ta có thể bố trí các mạch dữ liệu số tốc độ cao qua vòng
thuê bao, xuyên qua DACS (Digital Access and Cross-Connect System) và hệ thống
truyền dẫn, vòng qua khỏi hệ thống chuyển mạch điện thoại. Về tổng quát có thể nói các

dòch vụ dữ liệu số tốc độ thấp dựa trên kỹ thuật MODEM truyền thống tích hợp rất tốt với
mạng điện thoại đơn thuần vì các hệ thống chuyển mạch điện thoại đã được tính đến

×