Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

LUẬT TÀI CHÍNH VÀ LUẬT NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.45 KB, 6 trang )

CHƯƠNG 9
LUẬT TÀI CHÍNH VÀ LUẬT NGÂN HÀNG
I. LUẬT TÀI CHÍNH
1. Khái niệm Luật tài chính
a. Đối tường và phương pháp điều chỉnh của Luật tài chính
Đối tượng điều chỉnh của Luật tài chính là những quan hệ phát sinh gắn liền
với việc hình thành và quản lý, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ nhất định như: quỹ
ngân sách nhà nước, quỹ của doanh nghiệp, quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm được
biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Luật tài chính sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là:
Phương pháp mệnh lệnh: thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng giữa các chủ thể
tham gia trong quan hệ pháp luật tài chính, một bên nhân danh nhà nước có quyền ra
lệnh buộc chủ thể bên kia phải thực hiện những hành vi nhất định như trong quan hệ
thu nộp thuế, cấp phát kinh phí.
Phương pháp bình đẳng thỏa thuận: thể hiện các chủ thể tham gia trong quan
hệ tài chính bình đẳng về địa vị pháp lý. Sự bình đẳng thể hiện ở quyền và nghĩa vụ
tài chính mà các bên phải thực hiện hoặc trong trường hợp các bên không phải thực
hiện nghĩa vụ và thể hiện quyền tự quyết định trong khuôn khổ pháp luật của các
chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật tài chính như các quan hệ phát sinh trong
quá trình phân phối nguồn tài chính do các tổ chức kinh tế tạo ra trong quá trình
hình thành, sử dụng quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội.
b. Định nghĩa Luật tài chính
Luật tài chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dựng các quỹ tiền tệ
của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
2. Một số chế định cơ bản của Luật tài chính
a, Chế định ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế và đời sống xã hội ở mỗi quốc gia, đối với việc thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.


Nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước là một công cụ tài chính để huy động
các nguồn tài chính trong xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia, quản lý và điều tiết vĩ mô nên kinh tế xã hội.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước (Điều 1 Luật
ngân sách nhà nước 2002).
Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, công khai minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn với quyền hạn và
trách nhiệm. Ngân sách nhà nước bao gồm: ngân sách nhà nước trung ương và
ngân sách nhà nước địa phương.
Chế định ngân sách nhà nước là một chế định cơ bản của Luật tài chính, là
tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình hình thành, quản lý và sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước, quan hệ trong quá trình lập, chấp hành phê chuẩn và quyết toán ngân sách
nhà nước. Bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật cụ thể:
- Nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước về lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà
nước.
- Nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thu ngân sách nhà nước.
- Nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình nhà nước thực hiện hoạt động phân phối vốn ngân sách nhà nước từ quỹ ngân
sách nhà nước.
- Nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý thu, chi ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ lớn nhất của nhà nước. Ngân sách nhà
nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách nhà nước
được hình thành từ nhiều nguồn thu của các chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, bao gồm: các khoản thu mang tính chất thuế, phí, lệ phí; các khoản thu

mang tính chất ngoài thuế, phí, lệ phí như thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, thu
từ bán, cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
b, Chế định thuế
Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do
chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù nhà nước và pháp luật.
- Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó
không chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh
tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
- Thuế là khoản nộp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, không mang tính
chất đối giá và không hoàn trả trực tiếp. Điều 80 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của
pháp luật”. Điều 22 Hiến pháp 1992 quy định “Các cơ sở sản xuất kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước”. Mặt khác, bất kỳ một nhà nước nào muốn duy trì sự tồn tại và hoạt động của
mình đều phải có trong tay mình những cơ sở vật chất nhất định “thuế khoá là bầu
sữa của chính phủ” để từ đó nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Sự tồn tại và phát triển của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm
của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ
thống pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, cải
tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn.
Đồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định
pháp luật về thuế đã được nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Như vậy, thuế là một khoản nộp bắt buộc của các pháp nhân và thể nhân có
nghĩa vụ phải nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật không
mang tính chất đối giá và không hoàn trả trực tiếp cho người nộp.
Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay ban hành dưới hình thức thuế trực thu bao
gồm thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế
sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, thuế môn

bài và thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Cơ quan quản lý thu thuế là hệ thống cơ quan thuế, cơ quan hải quan trong
việc quản lý đối tượng nộp thuế, ra thông báo nộp thuế và đôn đốc đối tượng nộp
thuế, và kho bạc nhà nước thực hiện chức năng thu và quản lý các khoản thu thuế.
c, Chế định bảo hiểm thương mại
Đề ngăn ngừa và khắc phục những rủi ro xảy ra trong đời sống kinh tế xã
hội, con người đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp phòng ngừa,
biện pháp cứu trợ, biện pháp bảo hiểm.
Căn cứ vào phương thức hình thành tính chất và mục đích sử dụng các loại
quỹ bảo hiểm tập trung mang tính cộng đồng mà người ta phân loại 2 hình thức bảo
hiểm là bảo hiểm không mang tính kinh doanh và bảo hiểm thương mại là hai hình
thức chủ yếu:
- Bảo hiểm không mang tính kinh doanh là một loại hình bảo hiểm do nhà
nước thực hiện để nhằm thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, đặt dưới sự bảo trợ
không mang tính chất kiếm lời bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
tiền gửi.
- Bảo hiểm thương mại là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
trên cơ sở lập quỹ bảo hiểm từ nguồn phí bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm
đóng góp và được sử dụng để bồi thường, chi trả cho các trường hợp thuộc diện
bảo hiểm.
Chế định bảo hiểm thương mại là một trong những chế định quan trọng của
Luật tài chính, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm
và các quan hệ có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Như vậy, pháp luật kinh doanh bảo hiểm điều chỉnh ba nhóm quan hệ cơ
bản sau:
Nhóm thứ nhất: Các quy phạm pháp luật quy định địa vị pháp lý của chủ thể
kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm. Loại quy phạm pháp luật này
chứa ở các loại nguồn như: Luật kinh doanh bảo hiểm, các luật về doanh nghiệp.
Nhóm thứ hai: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh về quản lý nhà nước đối

với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nhóm thứ ba: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
thu nộp phí bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm. Các quy phạm pháp luật loại này chứa đựng chủ yếu ở luật kinh doanh bảo hiểm và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Bảo hiểm thương mại là một quan hệ kinh doanh được thiết lập trên cơ sở
hợp đồng bình đẳng thỏa thuận giữa một bên là doanh nghiệp bảo hiểm và một bên
là các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Bên bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập và hoạt động
theo luật kinh doanh bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm với tư cách là một bên
trong quan hệ pháp luật bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là chủ thể
thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm thực hiện việc thu phí bảo hiểm và chi trả
tiền bảo hiểm khi có rủi ro bảo hiểm xảy ra.
- Bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) là các tổ chức cá nhân có nhu
cầu bảo hiểm hoặc có nghiệp vụ tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật là
một bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm thương mại.
- Tất cả tổ chức cá nhân có thể trở thành chủ thể của hợp đồng bảo hiểm
thương mại mà không phụ thuộc vào họ có tư cách pháp nhân hoặc không, các tổ
chức trong nước hay ngoài nước.
Bên mua bảo hiểm có thể vì lợi ích của mình hoặc của người khác.
Khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp cho doanh nghiệp gọi là phí bảo
hiểm. Phí bảo hiểm có thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định tuỳ
theo từng chế độ bảo hiểm cụ thể.
Bảo hiểm thương mại gồm bảo hiểm con người, bảo hiểm trách nhiệm dân
sự, bảo hiểm tài sản.
II. LUẬT NGÂN HÀNG
1. Khái niệm Luật ngân hàng
a. Đối tường và phương pháp điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động

ngân hàng trong nền kinh tế. Các quan hệ tổ chức và kinh doanh ngân hàng là các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh
ngân hàng của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
Phương pháp điều chỉnh của Luật ngân hàng là phương pháp tác động bình đẳng, thỏa thuận.
b. Định nghĩa Luật ngân hàng
Luật ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động ngân hàng,
các quan hệ về tổ chức hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng
của các tổ chức khác.
2. Một số chế định cơ bản của Luật ngân hàng
a, Chế định cho vay của các tổ chức tín dụng
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo
thỏa thuận với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi.
Hoạt động cho vay của ngân hàng với các khách hàng được thực hiện thông
qua hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận chung bằng văn bản giữa tổ chức tín
dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên
vay), theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên
sự tín nhiệm.
Chủ thể của hợp đồng tín dụng bao gồm bên cho vay (tổ chức tín dụng) với
bên vay (tổ chức cá nhân có đủ những điều kiện do luật định).
Các điều kiện chủ thể đối với bên cho vay bao gồm:
(1) Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà nước cấp;
2 Có điều lệ do Ngân hàng nhà nước chuẩn y;
3 Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp;
4 Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với
khách hàng.
Các điều kiện chủ thể đối với bên vay là các pháp nhân, cá nhân, tổ hợp tác,

hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân bao gồm:
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với các tổ chức
(pháp nhân hay tổ chức không phải pháp nhân như hộ gia đình, tổ hợp tác) còn phải
có người đại diện hợp pháp có năng lực và thẩm quyền đại diện;
- Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Ngoài điều kiện chung là năng lực chủ thể, tổ chức và cá nhân muốn vay vốn
của các tổ chức tín dụng còn phải có thêm những điều kiện riêng áp dụng đối với
từng chế độ cho vay cụ thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các chủ thể cho vay có thể dưới hình
thức có bảo đảm bằng tài sản hoặc khồn có bảo đảm bằng tài sản do chính các chủ
thể thẩm định, lựa chọn khách hàng và quyết định.
b, Chế định bảo lãnh ngân hàng
Ở Việt Nam, theo khoản 12, Điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng thì bảo lãnh
ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
Tham gia trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng có ba chủ thể tham gia là bên
bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
Theo Điều 58 Luật các tổ chức tín dụng, bên bảo lãnh tổ chức tín dụng có đủ
những điều kiện theo luật định, bao gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân
hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng đầu tư phát triển và một số tổ chức tín dụng khác được Ngân hàng nhà
nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng. Ngoài ra, trong
trường hợp đặc biệt, Ngân hàng nhà nước có thể tham gia với tư cách là người bảo
lãnh khi được Chính phủ chỉ định.

×