Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

An sinh xã hội Cứu trợ xã hội ở Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.8 KB, 30 trang )

Tiểu luận An Sinh Xã Hội.
Đề tài : “ Cứu trợ xã hội ở Việt Nam “
Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Mã sinh viên : CQ 492068
Lớp tín chỉ: An sinh xã hội 5
Lớp chuyên ngành: Kinh tế quốc tế 49A
1
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã luôn chứng kiến và thừa nhận
một thực tế là :cuộc sống của con người trên trái đất dù ở bất kỳ giai đoạn
phát triển nào, bất kỳ chế độ xã hội nào cũng luôn phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên và môi trường sống .Những rủi ro , bất hạnh , những khó
khăn ngoài ý muốn đã luôn làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình cảnh
yếu thế trong xã hội .
Để tiếp tục tồn tại và phát triển họ cần nhận được sự giúp đỡ của xã hội. Ổn
định xã hội là tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia , đây là yếu tố quan
trọng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và xã hội. Muốn ổn
định xã hội nhà nước phải kết hợp chặt chẽ ,hợp lý giữa các mục tiêu kinh tế
với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước , thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã
hội trên cơ sở phát triển kinh tế , gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với
hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay , nước ta ngày càng hội
nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Đời sống của một bộ phận dân cư ngày
càng nâng cao nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều người phải sống trong cảnh
thiếu thốn nghèo nàn do nhiều lý do như: phân hóa giàu nghèo ,thiên tai , lũ
lụt...
Nhà nước ta với mục tiêu nhân đạo và tinh thần tương thân tương ái đã có
nhiều hoạt động thiết thực thể hiện tinh thần đó nhằm hỗ trợ , giúp đỡ những
con người đó vượt qua hoàn cảnh khó khăn để ổn định cuộc sống và hòa
nhập lại với cộng đồng.Đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của ‘CỨU TRỢ


XÃ HỘI’ ở nước ta.
2

I. Khái quát chung về cứu trợ xã hội.
1.Khái niệm cứu trợ xã hội
Có nhiều khái niệm về cứu trợ xã hội đươc đưa ra dưới nhiều góc độ
quan điểm khác nhau nhưng hiểu một cách tổng quát thì cứu trợ xã hội được
hiểu là “sự giúp đỡ của xã hội băng nguồn tài chính của nhà nước và của
cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và rủi ro trong cuộc
sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu,..dẫn đến mức sống quá thấp,
lâm vào cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống
tối thiểu, vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường”
Cứu trợ xã hội là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội,
là hoạt động của nhà nước và cộng đồng, bao gồm hai hoạt động : cứu tế xã
hội và trợ giúp xã hội. Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng bằng hiện
vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ cần thiết cho người được trợ cấp
khi họ rơi vào hoàn cảnh bần cùng khó khăn, không còn khả năng tự lo liệu
cuộc sông như : người già không nơi nương tựa, người không còn khả năng
lao động, không có bất kỳ một nguồn thu nhập nào đảm bảo cuộc sống hàng
ngày…trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã hội , bằng các
phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có thể phát huy được khả
năng tự lo liệu cho cuộc sông cho bản thân và cho gia đình, sớm hòa nhập
trở lại với cuộc sống cộng đồng.
2.Đặc trưng của cứu trợ xã hội:
Cứu trợ xã hội có những đặc trưng cơ bản sau:
3
• Thứ nhất : đối tượng được cứu trợ có phạm vi rộng, toàn dân.
• Thứ hai : người được nhận cứu trợ không phải đóng góp vào quỹ tài
chính. nguồn quĩ dùng để trợ cấp được lấy từ thuế hoặc từ đóng góp
của cộng đồng.

• Thứ ba : mức trợ cấp không đồng đều mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể và được thẩm định bằng việc thẩm tra đánh giá thu nhập, vốn và
tái sản của người được xét trợ cấp.
• Thứ tư : trợ cấp có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
3. Vai trò của cứu trợ xã hội
Tùy thuộc vào điều kiện , hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi nước mà họ
đặt vai trò của cứu trợ xã hội ở vị trí khác nhau…nhưng nhìn chung vai trò
cứu trợ của cứu trợ xã hội được nhận định chung là :
 Cứu trợ xã hội cung cấp ,hỗ trợ thu nhập cho các nhóm dễ bị tổn
thương để giúp họ đối phó với những khủn khoảng bất ngờ, vượt qua
được khó khăn trong cuộc sống và tồn tại trong xã hội…
 Góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương
của những cá nhân và những dân cư yếu thế. Điều này được thể hiện
rõ qua hoạt động trợ giúp xã hội, hoạt động này thường tập trung vào
nhóm dân cư bị thua thiệt nhất hoặc dễ bị tổn thương nhất trong cộng
đồng, từ đó giúp họ thoát ra khỏi cảnh nghèo, thoát khỏi hoàn cảnh
khó khăn dai dẳng trong cuộc sống…vd phụ cấp gia đình có thể giúp
trẻ em trong các hộ gia đình không bị mất cơ hội đến trường do khó
khăn về tài chính của gia đình.
 Góp phần làm cho sự bảo vệ của hệ thống an sinh xã hội được toàn
diện hơn : chương trình cứu trợ xã hội cùng với bảo hiểm xã hội.
4
II. Hệ thống cứu trợ xã hội ở Việt Nam
1.Quá trình phát triển cứu trợ xã hội ở Việt Nam.
Từ xưa đến nay, dù dưới thời nào, hoạt động cứu trợ ở nước ta luôn
được đặt lên hàng đầu và được xác định là một phương sách quan trọng để
duy trì sự ổn định và phát triển
Trước cách mạng tháng tám cứu trợ xã hội được thể hiện dưới các hình
thức:
 Lập ra quĩ ruộng quĩ thóc công dành cho các phụ nữ góa và trẻ em

mồ côi, dành cho những người nghèo khốn khó (chẳng hạn như
những quả phụ điền, cô nhi điền, trợ sưu điền, nghĩa điền)
 Lập ra các phường hội theo quan hệ than tộc, quan hệ láng giềng, hay
quan hệ nghề nghiệp khi các thành viên trong xã hội không may rơi
vào hoàn cảnh khó khăn (chẳng hạn như hội vạn chài, hội gặt lúa, hội
dệt vải, hội hiếu…)
 Tổ chức các hội cứu các hội tương tế để bênh vực cho công nhân các
hội tế bần từ thiện.
Kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc, Đảng và
Nhà nước đã xác định cứu trợ xã hội là một trong những cơ chế bảo vệ quan
trọng trong hệ thống ASXH nước ta, được đặt song song với cơ chế BHXH.
Ngày từ đầu những ngày đầu đất nước giành được độc lập, mặc dù vẫn còn
nhiêù khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt
động cứu trợ.
5
 Đảng và Nhà nước kêu gọi phá kho thóc của Nhật chia cho người
nghèo.
 Phát động nhường cơm sẻ áo, “hũ gạo cứu đói” để trợ giúp người
nghèo.
 Giảm tô, giảm tức và chia ruộng cho người nghèo, người neo đơn,
tàn tật.
 Thành lập Nhà cứu tế để đáp ứng cho nhu cầu thực hiện cứu tế xã
hội
Bên cạnh đó, Với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội” chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát
triển dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch.. do vậy đời
sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân, trong đó có nhóm người
yếu thế đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi
xã hội một loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện
như: chính sách cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn

cảnh đặc biệt khó khăn. các hoạt động cứu trợ xã hội cũng dần dần được luật
hóa với nhiều văn bản Pháp luật, Thông tư, Nghị định, và Bộ luật Lao động
qui định về cứu trợ xã hội thường xuyên, đột xuất; qui định về việc trợ giúp
dành cho người già, trẻ em đặc biệt khó khăn . Cụ thể là một hệ thống văn
bản pháp quy đã được xây dựng như: Pháp lệnh người tàn tật được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thông qua ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao tuổi
được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000, Nghị định số
07/2000/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2000 của Chính phủ về chính sách
cứu trợ xã hội; Nghị định số 168/2004/NĐ-CP ngày 20 tháng 09 năm 2004
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2000/NĐ-
CP ngày 09 tháng 03 năm 2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội;
6
Điều 6 Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 07 năm 1999 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn tật;
Điều 6, Điều 9 Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 03 năm 2002
của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh
Người cao tuổi; Nghị định số 120/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2003
của Chính phủ về việc sửa đổi Điều 9 của Nghị định số 30/2002/NĐ-CP
ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh Người cao tuổi; Điều 5 Quyết định số
38/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 03 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em
mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi; Quyết định số 16/2004/QĐ-TTg ngày 05 tháng
02 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ giúp đối với hộ gia đình
có từ 02 người trở lên không tự phục vụ được do bị hậu quả chất độc hoá
học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam; các khoản 1, 2, 3 Điều 1 và
khoản 1, 2, 3 Điều 2 Quyết định số 313/2005/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12
năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số chế độ đối với người nhiễm
HIV/AIDS và những người trực tiếp quản lý, điều trị, chăm sóc người nhiễm
HIV/AIDS trong các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước…và gần đây nhất là

Nghị định số 67/2007/ NĐ-CP ngày 15/04/2007 về chính sách cứu trợ xã hội
đã thay thế các nghị định trên…
Trải qua nhiều khó khăn thiếu thốn của đất nước nhưng hoạt động cứu trợ
ở nước ta vẫn ngày càng phát triển và đi vào ổn định. Theo đánh giá chung,
Việt Nam được coi là nước luôn có các cam kết mạnh mẽ về sự phát triển xã
hội. So với nhiều nước trong khu vực việt nam là nước có chương trình cứu
trợ khá toàn diện. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước,
của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội ở nước ta luôn được củng cố và tăng
7
cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo, yếu thế có thể vượt
qua những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn
lên hòa nhập với trong cộng đồng. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng
với Nhà nước, của xã hội cơ chế cứu trợ xã hội của nước ta luôn được củng
cố và tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo yếu thế
có thể vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự
vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoạt động này (chỉ tính
riêng năm 2000) là 648,8 tỷ đồng và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng.
Riêng hai năm 2000 - 2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800
nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được
tập trung cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện.
Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình
mất nhà, mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói… đều có chính sách trợ
giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em
mồ côi, người tàn tật nặng không có nguồn nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp
cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng
tập trung trong các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ được hỗ trợ khám
chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo
việc làm… và đặc biệt thường xuyên nhận được sự chăm sóc của cộng đồng
xã hội. Hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện đã thể hiện sự bình đẳng,

công bằng xã hội.
2.Đối tượng cứu trợ và các hình thức cứu trợ ở việt nam.
Hoạt động cứu trợ ở Việt Nam bao gồm cứu trợ thường xuyên và cứu trợ
đột xuất; thưc hiện cứu trợ bằng tiền, cứu trợ bằng hiện vật, cứu trợ hỗn hợp.
8
2.1Cứu trợ xã hội thường xuyên.
Cứu trợ xã hội thường xuyên là sự giúp của Nhà nước và xã hội dành
cho các thành viên trong cộng đồng về điều kiện sinh sống trong thời gian
dài hoặc trong suốt cuộc đời của họ. Ở nước ta hiện nay, các đối tượng được
hưởng cứu trợ xã hội thường xuyên được qui định theo điều 4 trong Nghị
định 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/04/2007 như sau :
Đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện trợ cấp hàng tháng do xã, phường, thị
trấn quản lý gồm:
• Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi
dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ
hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự
hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang
trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn
người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình
nghèo.Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng
đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu
trên.
• Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao
tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu,
người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo
chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho từng thời kỳ).
• Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo
hiểm xã hội.
• Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có

khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình nghèo.
• Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt,
rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần
chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh
mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình
thuộc diện hộ nghèo.
• Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc
hộ gia đình nghèo.
9
• Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ
rơi.
• Hộ gia đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả
năng tự phục vụ.
• Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới
16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp
dụng đến dưới 18 tuổi.
Các đối tượng trên được qui định mức độ trợ cấp của chế độ trợ cấp
thường xuyên trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP với các điều khoản sau
Điều 7:1. Quy định mức chuẩn để xác định mức trợ cấp xã hội hàng
tháng là 120.000 đồng (hệ số 1); khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi
thì mức chuẩn trợ cấp xã hội cũng được điều chỉnh theo cho phù hợp.
2. Các mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với từng nhóm đối tượng
bảo trợ xã hội quy định tại Nghị định này như sau:
Bảng 1.
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống tại cộng đồng do xã, phường quản lý
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT Đối tượng
Hệ
số

Trợ
cấp
1
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 4 và đối
tượng không có khả năng lao động quy định tại khoản 4
Điều 4 .
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con từ
18 tháng tuổi trở lên.
1,0 120
10
2
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi;
từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 4 tàn tật nặng.
- Đối tượng quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 4.
- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới
18 tháng tuổi; từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc bị
nhiễm HIV/AIDS.
1,5 180
3
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi
bị tàn tật nặng; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng không có khả năng tự phục vụ quy định tại
khoản 4 Điều 4.
- Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi dưỡng
trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 2 người tàn tật
nặng.

- Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới
18 tháng tuổi hoặc bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
2,0 240
4
Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em
dưới 18 tháng tuổi; trên 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị
nhiễm HIV/AIDS.
2,5 300
5
- Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em
dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 3 người tàn tật
nặng.
3,0 360
6
Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 4 người tàn tật
nặng.
4,0 480
11
Bảng 2
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống trong các nhà xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT Đối tượng
Hệ
số
Trợ
cấp
Đối tượng quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 6 Điều 4 2,0 240
Bảng 3

Mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng thấp
nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội:
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
TT Đối tượng
Hệ
số
Trợ
cấp
1
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên.
- Đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 4.
2,0 240
2
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi.
- Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên tàn tật; bị nhiễm HIV/AIDS.
- Đối tượng quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 4.
2,5 300
Điều 8. Các đối tượng nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6; trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng; người tàn
tật trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu
tại khoản 9 Điều 4 Nghị định này được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định
tại Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2005 của Chính phủ
ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế hoặc được khám, chữa bệnh không phải trả
tiền tại các cơ sở y tế công lập theo quy định tại Điều 18 Nghị định số
12

×