Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Chương II Thực trạng áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.86 KB, 28 trang )

Chương II Thực trạng áp dụng phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ trong thanh tốn quốc tế tại chi nhánh ngân hàng ngoại
thương Quảng Ninh.
II.1 Vài nét về Ngân hàng ngoại thương – Vietcombank
II.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Vietcombank
Ngày 1-4-1963, ngân hàng Ngoại thương Việt nam với tên giao dịch quốc tế là
Bank for foreign trade of Việt Nam, tên viết tắt là Vietcombank, chính thức đi
vào hoạt động với tư cách là một pháp nhân Ngân hàng thương mại giao dịch
trên thương trường quốc tế và trong nước.
Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
hiện nay đã đóng một vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, được
nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, đồng thời là thành
viên của hiệp hội ngân hàng Việt nam và Thế giới
Trong những năm qua, Ngân hàng ngoại thương không ngừng khẳng định sự
lớn mạnh của mình qua việc liên tục mở rộng mạng lưới của mình ra hầu hết
các tính thành phố lớn trên cả nước. Tính đến nay ngân hàng ngoại thương đã có
25 chi nhánh cấp I, 26 chi nhánh cấp hai và 35 phòng giao dịch trên toàn quốc.
Ngoài mạng lưới chi nhánh trên, Ngân hàng ngoại thương còn có 1 công ty tài
chính , 3 văn phòng đại diện nước ngoài, 3 công ty trực thuộc.
Với truyền thống chuyên doanh đối ngoại, Ngân hàng Ngoại thương được đánh
giá là ngân hàng uy tín nhất Việt Nam trong các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối,
thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế khác.
Tính đến nay Ngân hàng ngoại thương có quan hệ đại lý với hơn 1300 ngân
hàng tại 90 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt nhất các


yêu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Ngoài vai trò là ngân hàng đi
đầu trong lĩnh vực tự động hoá hoạt động thanh toán sử dụng mạng SWIFT,
Ngân hàng Ngoại thương có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại nhất Việt
Nam
Suốt từ năm 1996 đến 2004, Vietcombank đều được Ngân hàng JP MORGAN


CHASE (Mỹ) trao tặng danh hiệu "Ngân hàng chất lượng thanh toán tốt nhất".
Và cùng trong 5 năm liền từ 2000 đến 2004, tạp chí The Banker (Anh quốc) đã
bình chọn Vietcombank là ngân hàng tốt nhất. Những danh hiệu này khẳng định
vị trí của Vietcombank trong quá trình hợi nhập q́c tế.
II.1.2 Tình hình hoạt động của Vietcombank trong những năm gần đây
Vốn chủ sở hữu
năm

tỷ đồng

So sánh

2002

4585

0

2003

5924

29%

2004

7181

21.2%


2005

8416

17.19%

2006

11127

32.2%

Vốn chủ sở hữu năm 2006 đạt được 11127 tăng 32.2% so với năm 2005
chủ yếu từ nguồn lợi nhuận để lại . Vốn chủ sở hữu của ngân hàng được bổ sung
thêm 1374 tỷ đồng từ việc phát hành trái phiếu tăng vốn vào 12/2006. Việc tăng
vốn qua các năm giúp ngân hàng tăng tỷ lệ an toàn vốn từ 9.57% (2005) lên
12.28% (2006).
Hoạt động tín dụng
Dư nợ tín dụng


năm

tỷ đồng

So sánh

2002

29.335


0

2003

36.678

25%

2004

50.831

38.6%

2005

61.044

20%

2006

67.734

10.95%

Hướng tới mục tiêu tăng cường công tác khách hàng, nâng cao chất lượng
tín dụng hướng tới chuẩn mực quốc tế . Ngân hàng ngoại thương đã triển khai
mơ hình tín dụng mới theo dự án hỗ trợ kĩ thuật do chính phủ Hà Lan tài trợ

thơng qua ngân hàng thế giới (WB) trong toàn hệ thống từ tháng 8/2006.Chất
lượng tín dụng được cải thiện thơng qua việc tách biệt các biện pháp quản lý nợ,
quan hệ khách hàng, quản lý nợ đồng thời công tác khách hàng và phát triển
kinh doanh được chuyên biệt hoá . Tăng trưởng tín dụng có chọn lọc và các biện
pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng được đặc biệt chú trọng nhằm nâng cao
chất lượng danh mục cho vay của ngân hàng . Đến cuối năm 2006 tổng dư nợ
đạt 67.734 tỷ đồng tăng 10,95% so với năm 2005. Trong đó dư nợ ngắn hạn
tăng 9,3% dư nợ trung và dài hạn tăng 12,4% , chiếm 41,9 % trong tổng dư nợ
tín dụng.Tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống còn 1,19% thấp hơn nhiều so với năm
2005 : 1,88% và tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 2,66%, quĩ trích lập dự phịng rủi
ro giảm xuống cịn 168,2 tỷ đồng thấp hơn so 1.338 tỷ đồng của năm 2005. Việc
trích lập dự phịng chung và dự phịng cụ thể đối với từng khoản vay của ngân
hàng được thực hiện triệt để theo đúng lộ trình mà NHNN đề ra đối với NHTM.
Hoạt động thanh toán
Với thế mạnh hàng đầu trong thanh toán quốc tế với mạng lưới ngân hàng
đại lý rộng khắp trên toàn cầu, mặc dù phải đương đầu với sức ép cạnh tranh
ngày càng gia tăng của các NHTM khác .Vietcombank vẫn duy trì vị trí đứng
đầu trong thanh toán XNK với doanh số đạt 22,8 tỷ đôla tăng 8,6% so với năm


2005 và chiếm 27% thị phần cả nước .Trong đó doanh số thanh tốn hàng xuất
khẩu đạt 12,7tỷ đơla tăng 35% so với 2005 và chiếm 32% thị phần cả nước .
Tuy nhiên doanh số thanh toán hàng nhập khẩu chỉ đạt 10,1 tỷ đôla giảm 8,2%
so với năm trước và chiếm 22,8% thị phần cả nước .
Kết quả hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận sau thuế
Năm

Tỷ đồng


So sánh

2002

222

0

2003

817

268%

2004

1.104

35%

2005

1.290

16,8%

2006

2.875


122,8%

II.2 Vài nét về chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh
Ngày 1/10/1991 chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh chính
thức đi vào hoạt động, đóng vai trị là chi nhánh cấp 2 của ngân hàng Ngoại
thương . Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh là một trong những
chi nhánh tương đối lớn của NHNT hàng năm mang lại nhiều lợi nhuận cho hệ
thống khoảng 50 tỷ đồng (2007). Chi nhánh thực hiện gần như toàn bộ các hoạt
động kinh doanh của ngân hàng ngoại thương như nghiệp vụ huy động vốn,
nghiệp vụ cho vay, kinh doanh ngoại tệ, hoạt động thanh toán quốc tế, các dịch
vụ thẻ, chiết khấu giấy tờ có giá …
II.2.1Các hoạt đợng kinh doanh chính của chi nhánh
- Hoạt động huy động vốn:
Chi nhánh huy động vốn thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và
có kỳ hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế trong và ngoài nước. Bên cạnh đó CN còn phát hành chứng chỉ tiền


gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động khác
theo quy định của NHNT.
Khi cần thiết, CN còn có thể vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng
trong nước theo quy định của NHNT
Ngoài ra, CN còn tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ và
các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Bảng tổng nguồn vốn
Tổng nguồn vốn
Ngắn hạn

31/12/06
1.424.303


31/12/07
1446.121

So sánh
101,53%

VND

438.400

783.903

178.81%

Ngoại tệ
Dài hạn

61.618
479.863

41.388
566.722

67%
118,81%

VNĐ

160.604


304.836

189,8%

Ngoại tệ

19.840

16.252

81,91%

- Hoạt động cho vay:
Sở thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đối
với khách hàng của thành phần kinh tế khác nhau. CN cho vay hộ gia đình
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng... Sở tài trợ vốn cho các
doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xuất nhập
khẩu ...
Bên cạnh đó, CN còn thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp
cho vay các dự án theo phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNT
Bảng tổng dư nợ
dư nợ
Tổng dư nợ

31/12/06
935.599

31/12/07
952.620


So sánh
101.81%

VNĐ

795.374

806.097

101.35%

Ngoại tệ

9.337

9.093

97%


- Hoạt động khác
Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn, CN còn có các
hoạt động khác như :
Kinh doanh ngoại hối: đây là hoạt động mua bán ngoại tệ mà chủ yếu nhằm
mục đích cho vay và phục vụ thanh toán quốc tế, những dịch vụ khác về ngoại
hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, NHNN và NHNT
Thanh toán quốc tế: đây là dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho CN, nó góp
phần giúp cho hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh ngoại hối thêm phần
sôi nổi.


II.3 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế băng phương thức tín
dụng chứng từ
3.1Quy trình thanh toán q́c tế theo phương thức tín dụng chứng từ của
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh
a) Đối với thư tín dụng xuất khẩu
(1) Tiếp nhận và sửa đổi Thư tín dụng
Trước hết, người được phân công kiểm tra điện trước khi nhận. Điện Thư tín
dụng nhận được chủ yếu qua đường SWIFT, chỉ một lượng nhỏ là qua đường
công văn. Nếu điện không thuộc phạm vi phòng xử lý thì phải trả lại cho Trung
tâm thanh toán theo mạng. Nếu đúng thì người được phân công nhận điện, giao
hoặc đẩy điện cho các thành viên liên quan, in bảng kê điện đã nhận hoặc ký
nhận Thư tín dụng, sửa đổi Thư tín dụng do bộ phận văn thư giao và giao lại
cho thanh toán viên phụ trách.
Thanh toán viên nhận được bản Thư tín dụng hoặc sửa đổi Thư tín dụng phải
kiểm tra. Nếu Thư tín dụng mở bằng Telex/Swift phải có xác nhận mã đúng, nếu
mở bằng thư thì phải có xác nhận chữ ký đúng và hợp lệ. Thư tín dụng phải có
dẫn chiếu UCP 600 trừ khi có quy định khác. Thanh toán viên cũng phải kiểm


tra các thông tin khác như người hưởng lợi, ngân hàng phát hành, ngân hàng
thông báo, các chỉ dẫn thanh toán.
(2) Thông báo trực tiếp cho người hưởng lợi
Thanh toán viên vào hồ sơ và lập bản thông báo Thư tín dụng. Bản thông báo
Thư tín dụng (kèm theo bản gốc của Thư tín dụng), sửa đổi Thư tín dụng có thể
được giao trực tiếp cho khách hàng hoặc gửi qua đường Bưu điện. Thanh toán
viên phải theo dõi việc giao thông báo cho khách hàng, đồng thời làm thông báo
cho Ngân hàng thông báo về việc đã nhận được Thư tín dụng hoặc sửa đổi Thư
tín dụng.
(3) Thông báo qua ngân hàng thông báo khác

Đối với những Thư tín dụng mà ngân hàng phát hành yêu cầu Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương thông báo cho một ngân hàng khác, thì thanh toán
viên chuyển Thư tín dụng qua mạng điện SWIFT hoặc qua đường công văn cho
ngân hàng đó. Nếu ngân hàng phát hành yêu cầu Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương thông báo kèm xác nhận thì thanh toán viên phải kiểm tra uy tín của
ngân hàng phát hành thông qua lượng giao dịch, độ tin cậy trong thanh toán với
đơn vị thành viên, không xác nhận đối với những Thư tín dụng mà ngân hàng
phát hành không có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương, nghiên cứu đề
xuất mức ký quỹ hoặc miễn ký quỹ với ngân hàng phát hành. Trong trường hợp
không đồng ý xác nhận thì phải thông báo rõ Chúng tôi không đồng ý xác nhận
Thư tín dụng này.
(4) Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ.
Khi nhận chứng từ do khách hàng xuất trình kèm bản gốc Thư tín dụng và các
sửa đổi có liên quan, thanh toán viên phải kiểm tra loại chứng từ, số lượng từng
loại và mức độ phù hợp của chứng từ rồi chuyển cho phụ trách phòng. Nếu
chứng từ có sai sót thì thanh toán viên phải thông báo cho khách hàng để có
biện pháp xử lý kịp thời.


(5) Gửi chứng từ đòi tiền.
Thanh toán viên lập thư đòi tiền như trong chỉ thị thanh toán của Thư tín dụng,
kèm với bộ chứng từ để gửi cho ngân hàng phát hành Thư tín dụng. Nếu là Thư
tín dụng xác nhận thì Ngân hàng có quyền đòi tiền bằng điện qua mạng SWIFT.
(6) Chiết khấu chứng từ.
Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương tiến hành chiết khấu chứng từ dưới hai
hình thức: chiết khấu miễn truy đòi (mua đứt bộ chứng từ) và chiết khấu truy
đòi.
Đồi với hình thức chiết khấu miễn truy đòi
Ngân hàng chiết khấu miễn truy đòi đối với bộ chứng từ sau khi kiểm tra các
điều kiện sau:

+ Bộ chứng từ của L/C trả tiền ngay và cho phép đòi tiền bằng điện.
+ L/C quy định: vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành và toàn
bộ vận đơn gốc được xuất trình qua NHNT.
+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện, điều khoản L/C
+ Ngân hàng phát hành L/C phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường
quốc tế.
+ Thị trường truyền thống
+ Một số thông tin khác liên quan đến giá cả của mặt hàng xuất khẩu tại
thời điểm chiết khấu
+ Thư yêu cầu bảo lãnh đề nghị chiết khấu miền truy đòi phải có đầy đủ chữ
ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng.
Đối với hình thức chiết khấu truy đòi
Bộ chứng từ sẽ được ngân hàng chiết khấu truy đòi nếu có đủ những điều kiện
sau
+ Ngân hàng phát hành có uy tín lớn
+ Thị trường truyền thống


+ Khách hàng có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt, mở tài khoản và hoạt
động thường xuyên tại NHNT
+ Khách hàng cam kết hoạt trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu trong trường hợp
ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán
+ Thư yêu cầu chiết khấu truy đòi phải có đầy đủ chữ ký của chủ tài khoản và
kế toán trưởng
Sau khi xem xét các điều kiện chiết khấu và tình trạng của bộ chứng từ, thanh
toán viên lập tờ trình đề xuất ý kiến chấp nhận hoặc từ chối chiết khấu, tỷ lệ
chiết khấu. Trên cơ sở đề xuất của thanh toán viên, tuỳ trường hợp, phụ trách
phòng xem xét và trình lãnh đạo quyết định việc chiết khấu.
Đối với chiết khấu truy đòi, nếu chứng từ phù hợp, phụ trách phong có quyền
quyết định chiết khấu đối với các bộ chứng từ có giá từ 100.000USD trở xuống.

Nếu vượt quá số tiền trên, phòng phải trình lãnh đạo CN. Số tiền chiết khấu
luôn nhỏ hơn trị giá bộ chứng từ. Trong trường hợp bộ chứng từ không phù hợp,
lãnh đạo sở mới có quyền quyết định, số tiền chiết khấu không vượt quá 90%
giá trị bộ chứng từ
(7) Nếu chứng từ bị từ chối thanh toán
Thanh toán viên phải kiểm tra lý do từ chối thanh toán của ngân hàng nước
ngoài, thông báo cho khách hàng về việc từ chối thanh toán để khách hàng định
đoạt chứng từ, đồng thời điện ngay cho ngân hàng nước ngoài phản đối nếu việc
từ chối không xác đáng.
b) Đối với thư tín dụng nhập khẩu:
(1) Phát hành thư tín dụng
Khách hàng có yêu cầu phát hành thư tín dụng phải xuất trình đầy đủ các giấy
tờ nhứ: Đơn xin mở thư tín dụng, Bản sao hợp đồng ngoại thương hoặc các giấy
tờ có giá trị tương đương (như đơn đặt hàng), Bản sao giấy đăng ký kinh doanh
và Giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp (đối với những khách hàng


giao dịch lần đầu), Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ thương mại hoặc Bộ
quản lý chuyên ngành (đối với những hàng nhập khẩu có điều kiện).
Sau khi tiếp nhận và kiểm tra đầy đủ sự hợp lệ của các chứng từ trên đây, thanh
toán viên sẽ tiến hành kiểm tra nội dung đơn xin mở thư tín dụng với các điều
kiện trong hợp đồng ngoại thương để đảm bảo không có sự mâu thuẫn trong nội
dung của thư tín dụng với các điều khoản của hợp đồng.
Đối với thư tín dụng trả ngay ký quỹ 100%, thanh toán viên phải kiểm tra số
tiền ký quỹ trước khi phát hành thư tín dụng. Trong trường hợp thư tín dụng
được phát hành bằng nguồn vốn vay Ngân hàng Ngoại thương, thanh toán viên
sẽ căn cứ vào phiếu duyệt mở thư tín dụng do bộ phận Tín dụng cung cấp đã
được Giám đốc ký duyệt cho vay.
Đối với thư tín dụng trả ngay miễn ký quỹ, việc xét duyệt mở thư tín dụng được
tiến hành ngay tại phòng thanh toán Nhập khẩu. Ngoài các chứng từ như trên,

khách hàng phải xuất trình thêm Giấy cam kết đảm bảo có đủ tiền thanh toán
khi thư tín dụng đến hạn . Thanh toán viên căn cứ vào hạn mức miễn ký quỹ do
hội đồng tín dụng đã duyệt (nếu có) lập tờ trình để lãnh đạo phòng hoặc lãnh
đạo CN xét duyệt. Trường hợp chưa có hạn mức, có thể sẽ chuyển hồ sơ sang
cho bộ phận tín dụng tiến hành thẩm định. Hồ sơ sau khi đã được duyệt, thanh
toán viên sẽ tiến hành mở thư tín dụng. Khi đến hạn thanh toán, nhà nhập khẩu
có trách nhiệm chuyển đủ số tiền thanh toán vào tài khoản để thanh toán viên trả
tiền cho ngân hàng nước ngoài. Nếu khách hàng không đảm bảo đủ tiền thanh
toán khi đến hạn, ngân hàng sẽ tiến hành cho vay bắt buộc với lãi suất 200% lãi
suất cho vay hiện hành.
Đối với thư tín dụng trả chậm và bảo lãnh, thủ tục phát hành bảo lãnh và thẩm
định thư tín dụng trả chậm do phòng Bảo Lãnh thực hiện. Quy trình thẩm định
thư tín dụng trả chậm giống với thẩm định các loại bảo lãnh nước ngoài khác,
chỉ khác ở chỗ, sau khi thẩm định, hồ sơ sẽ được chuyển xuống phòng thanh
toán Nhập khẩu để mở thư tín dụng.
(2) Tiếp nhận chứng từ


Sau khi nhận được chứng từ do bộ phận văn thư giao, thanh toán viên tiến hành
đối chiếu chứng từ với hồ sơ gốc. Thanh toán viên kiểm tra các chứng từ này
trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ trước khi giao cho
khách hàng. Nếu chứng từ phù hợp hoặc thông báo chứng từ có sai sót nhưng
khách hàng vẫn chấp nhận những sai sót đó thì thanh toán viên sẽ giao chứng từ
cho khách hàng. Việc giao chứng từ cho khách hàng chỉ được thực hiện khi
khách hàng có đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ và các chi phí liên quan.
Với chứng từ trả chậm, nếu chứng từ phù hợp thanh toán viên yêu cầu khách
hàng cam kết chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn trước khi giao chứng từ
cho khách hàng, đồng thời xác nhận bằng điện ngày đáo hạn với ngân hàng
nước ngoài.
Trong trường hợp thanh toán bộ chứng từ hay từ chối bộ chứng từ không phù

hợp, thanh toán viên phải thực hiện trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được chứng từ.
(3) Đóng hồ sơ thư tín dụng nhập khẩu
Việc đóng hồ sơ thư tín dụng nhập khẩu được thực hiện khi thư tín dụng đã
được huỷ bỏ, đã thanh toán hết số dư hoặc không còn giá trị thanh toán,đã từ
chối thanh toán và bộ chứng từ đã gửi trả lại cho ngân hàng gửi chứng từ. Ngoài
ra, với thư tín dụng không còn hiệu lực sẽ được tự động đóng hồ sơ sau 2 tháng
kể từ ngày hết hạn hiệu lực của thư tín dụng .
3.2Tình hình hoạt động thanh tốn qc tế bằng phương thức tín dụng
chứng từ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương tỉnh Quảng Ninh.
Là một trong những chi nhánh lớn của hệ thống NHNT với tuổi đời còn rất trẻ
gần hai mươi năm hoạt động trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, song CN ngân
hàng ngoại thương tỉnh luôn là một ngân hàng mạnh trong lĩnh vực này. Thị
phần hoạt động thanh toán quốc tế của CN luôn đứng đầu trong khu vực địa bàn
tỉnh chiếm khoảng 30%. Tuy nhiên, những năm gần đây, kim ngạch thanh toán
xuất nhập khẩu nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng của


CN Ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh giảm đi. Đây cũng là những năm khó
khăn chung của thị trường thanh toán xuất nhập khẩu của nước ta. Trong giai
đoạn này đánh dấu sự phát triển rất mạnh của các Ngân hàng thương mại cổ
phần và sự hiện đại hóa của các ngân hàng quốc doanh khác. Những mối quan
hệ quốc tế của các ngân hàng này trên thị trường được mở rộng, các giao dịch
trực tiếp tăng mạnh không cần Ngân hàng Ngoại thương đứng ra làm cầu trung
gian . sau đ
1.Hoạt động thanh tốn qc tế tại CN trong những năm gần đây
A.Bảng kết quả hoạt động thanh toán quốc tế của CN – 2007
Nhập khẩu
Chỉ tiêu


Số lượng

Xuất khẩu

Giá trị

Số lượng

(USD)

Giá trị
(USD)

LC

49

3.612.833

220

28.571.005

Chuyển tiền

483

37.966.327

596


44.271.248

Nhờ thu

79

33.210.549

8

179.497

Nhìn vào bảng trên ta thấy tỉ trọng hoạt động thanh tốn bằng LC cịn nhỏ
so với các phương thức khác, đó là do vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam
trên thị trường quốc tế cịn thấp, hiểu biết về phương thức thanh tốn LC còn
kém , chưa được sự tin tưởng của đối tác nước ngoài và những hạn chế của CN
ngân hàng đối với Doanh nghiệp nhập khẩu trong việc mở LC nên số lượng LC
mở tại CN cịn rất thấp chỉ có 49 bộ chiếm khoảng 5.05% doanh số thanh toán
hàng nhập khẩu .
B.Bảng kết quả hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng
chứng từ
Đơn vị USD
Chỉ tiêu

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007



Số thư TD thơng báo 220

245

250

Số thư TD xuất trình

200

230

220

Doanh số thanh toán

20.742.835

34.569.197

28.571.005

Doanh số chiết khấu

3.115.937

2.411.735


2.056.785

Nhìn vào bảng B số thư tín dụng thơng báo có xu hướng tăng nhưng số
thư tín dụng xuất trình tại CN lại có xu hướng giảm . Khách hàng đã không lựa
chọn CN là nơi xuất trình bộ chứng từ mà chọn các ngân hàng bạn, vai trò của
CN chỉ dừng lại là NHTB nguyên nhân là do các ngân hàng bạn đã thu một mức
phí cạnh tranh nên thu hút khách hàng,thủ tục đơn giản về phía mình vì vậy đã
làm ảnh hưởng đến doanh thu của CN.Tiếp theo ta thấy doanh số chiết khấu lại
liên tục giảm , tỷ lệ bộ chứng từ được chiết khấu cũng giảm dần. Điều này cho
thấy hoạt động chiết khấu của CN có dấu hiệu thụt lùi . Chiết khấu chứng từ
hàng xuất là một trong những hình thức tính dụng xuất nhập khẩu khá an toàn,
và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân hàng, hơn nữa ngân hàng Ngoại thương lại
rất có thế mạnh trong mảng thanh toán xuất khẩu, đó là lợi thế không nhỏ để
phát triển hình thức tín dụng xuất nhập khẩu này. Tuy nhiên CN giao dịch vẫn
chưa tận dụng được lợi thế này. Nguyên nhân là ngân hàng còn quá cẩn trọng
trong hoạt động chiết khấu, chính vì vậy nhiều khách hàng muốn chiết khấu
chứng từ mà không được chấp nhận. Nhiều khách hàng đã chuyển sang xuất
trình chứng từ ở các ngân hàng khác. Trong những năm tới, CN cần phải có biện
pháp thúc đẩy hoạt động chiết khấu chứng từ hàng xuất, bởi vì sự sụt giảm này
có thể dẫn tới sự sụt giảm trong thanh toán hàng xuất, mất dần vị trí của ngân
hàng trên thị trường.
C.Tình hình mở thư tín dụng tại chi nhánh
Đơn vị : USD
Chỉ tiêu

Năm 2005

Năm 2006

Năm2007



Số lượng thư tín dụng mở
Giá trị mở thư tín dụng

45
2.315.655

56
4.483.939

49
3.612.833

Nhìn vào bảng ta thấy rằng số lượng thư tín dụng mở tại CN có xu hướng
giảm . Điều này là do khách hàng cũ đã không lựa chọn Chi nhánh ngân hàng
ngoại thương mà chọn các ngân hàng bạn nơi có thủ tục khơng q phức tạp, tỷ
lệ ký quĩ thấp và được ngân hàng xem xét cho vay nhập khẩu . Chính điều này
đã thu hút khách hàng của CN ngân hàng ngoại thương làm giảm thu nhập, thu
hẹp thị phần hoạt động TTQT của ngân hàng
Các sản phẩm chủ lực của CN là than đá chiếm khoảng 56% , thuỷ sản
19%, máy móc thiết bị 21% phần còn lại là nguyên liệu sản xuất dầu thực vật,
hạt nhựa, các chất hố học để phục vụ cơng nghiệp…Đối với mặt hàng than đá
thì đối tác chủ lực là Trung Quốc , hàng năm các doanh số xuất khẩu than đá
cho Trung Quốc vào khoảng 16 đến 17 triệu đôla . Hiện nay, nền kinh tế Trung
Quốc đang phát triển bùng nổ, năng lượng đang thiếu hụt nghiêm trọng hàng
năm cần nhập khẩu một lượng than đá khổng lồ, đây chính là thị trường đầy hứa
hẹn đối với mặt hàng xuất khẩu than đá. Thị trường Nhật Bản cũng là thị trường
đầy tiềm năng trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản đông lạnh do không bị hạn
chế bởi hạn ngạch và nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này của người dân Nhật khá

lớn, mặc dù trong những năm gần đây doanh nghiệp Việt Nam đã vấp phải hàng
rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn khắt khe của về an toàn vệ sinh thực phẩm đó cũng
là bài học cho các DNXK trong việc nâng cao chất lượng hàng hoá . Bản thân
ngân hàng khi tham gia q trình thanh tốn XNK cũng cần tư vấn cho các Dn
trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản sang các nước có hàng rào kĩ
thuật các tiêu chuẩn vệ sinh khơng qua khắt khe như thị trường Nga, Hàn Quốc
từ đó mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng.Quảng Ninh là một tỉnh cơng nghiệp
với nền cơng nghiệp khai khống có từ lâu đời, hiện nay đang phát triển các
ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất xi măng, nhiệt điện…cần nhập


khẩu rất nhiều máy móc thiết bị phục vụ cơng nghiệp, do đó ngân hàng cần chú
trọng đến mặt hàng nhập khẩu có giá trị lớn này từ đó đề ra các biện pháp tài
trợ ngoại thương, đẩy nhanh quá trình thanh tốn và tìm kiếm lợi nhuận cho
ngân hàng.
Tóm lại, cùng với mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp và kinh nghiệm
gần 20 năm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế, cùng với việc thúc đẩy mạnh
mẽ tin học hóa lĩnh vực ngân hàng, thực hiện kết nối vào mạng thanh toán quốc
tế đã góp phần hoàn thiện hơn phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, hoạt
động thanh toán quốc tế nói chung ở CN ngân hàng Ngoại thương . Với việc
tham gia mạng SWIFT làm cho tốc độ xử lý các giao dịch trở nên nhanh chóng,
thuận tiện, việc truyền tin, dữ liệu nhờ vậy cũng chính xác hơn. Tất cả những ưu
việt trên đây, cùng với mức phí dịch vụ được coi là hấp dẫn so với những Ngân
hàng thương mại khác đã làm nên một CN ngân hàng Ngoại thương luôn đi đầu
trong việc chiếm lĩnh thị phần xuất nhập khẩu của địa bàn. Ví dụ khi khách hàng
mở thư tín dụng chỉ phải trả mức phí mở là 0,11% trị giá mở và 0,22% cho phí
thanh toán, và cả hai loại phí trên chỉ chịu mức tối đa là 330USD/giao dịch,
trong khi Ngân hàng thương mại khác mức tối đa này là 500-1000USD/giao
dịch.
2.Một số hạn chế và nguyên nhân trong phương thức thanh toán LC tại CN:

a.Hạn chế
Thứ nhất là: Cơ cấu khách hàng còn chưa hợp lý
Kể từ đầu năm 2006, những khách hàng là các Tổng Công ty đã được
tách ra do Hội Sở chính Ngân hàng Ngoại thương quản lý. Tuy nhiên tại CN vẫn
có xu hướng chú trọng đến khách hàng là các Doanh nghiệp lớn, đặc thù của
những khách hàng này là giao dịch thanh toán quốc tế được tiến hành thường
xuyên, quy mô giao dịch lớn, trong cùng một giao dịch tín dụng chứng từ, giao
hàng và thanh toán được tiến hành làm nhiều lần, đem lại mức thu dịch vụ cao
và ổn định cho CN


Song, chính những khách hàng lớn này thường xuyên đòi hỏi chính sách
phí và lãi suất ưu đãi, đồng thời cũng dễ dàng bị những ngân hàng bạn tìm cách
lôi kéo, thu hút về hoạt động với họ.
Điều này thể hiện rõ nhất trong những năm gần đây, CN đã phải chia sẻ
hoạt động của các DNXK than với ngân hàng bạn, vì vậy doanh số cũng như
thu phí dịch vụ giảm sút đáng kể, ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch kinh
doanh của CN. Đây chính là hạn chế lớn trong công tác thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ của CN, đòi hỏi CN phải tích cực hơn nữa trong
việc mở rộng mạng lưới khách hàng, tránh việc phụ thuộc quá nhiều vào một số
ít khách hàng.
Hai là: Các hình thức thanh toán bằng thư tín dụng chưa đa dạng
Đối với hàng xuất, việc chiết khấu miễn truy đòi hầu như không thực hiện,
mặc dù có những bộ chứng từ bản thân ngân hàng cũng đánh giá là sạch và uy
tín của khách hàng là lớn. Điều này gây phiền hà, không hài lòng cho khách
hàng, giảm lòng tin của khách hàng đối với CN.
Đối với hàng nhập, CN chủ yếu mở thư tín dụng theo hình thức không hủy
ngang, có thể có thêm xác nhận hoặc có khả năng chuyển nhượng hoặc thư tín
dụng dự phòng Bên cạnh đó, có một số thư tín dụng giáp lưng được mở nhưng
số lượng rất hạn chế, mặc dù thư tín dụng xuất khẩu có thể xuất trình ngay tại

chính CN.
Ngoài ra, nhu cầu khách hàng về thư tín dụng tuần hoàn là rất lớn do đặc
thù nhập hàng thường xuyên theo định kỳ. Tuy vậy ở CN vẫn chưa triển khai
mở hình thức thư tín dụng này mà chủ yếu yêu cầu khách hàng mở thư tín dụng
thông thường, cho phép giao hàng từng phần và có quy định rõ về thời hạn giao
hàng. Điều này là tương đối bất tiện, nhất là với những khách hàng phải ký quỹ
mở thư tín dụng, vốn của họ sẽ bị ứ đọng khá lâu, còn nếu mở từng thư tín dụng
nhỏ thì lại mất thời gian và phí giao dịch.


Ba là: Tốc độ chu chuyển thanh toán còn chậm
Thời gian kiểm tra và xử lý chứng từ thanh toán tại CN Ngân hàng Ngoại
thương QN còn chậm, qua nhiều khâu trung gian, mất thời gian (như qua văn
thư, qua phòng thanh toán quốc tế). Để một thư tín dụng chính thức được phát
hành ra nước ngoài, cần phải qua các khâu như xem xét cho vay (đối với thư tín
dụng mở bằng vốn vay), mua ngoại tệ (đối với thư tín dụng ký quỹ) hay trình
duyệt mở miễn ký quỹ (đối với thư tín dụng miễn ký quỹ), sau đó phòng thanh
toán nhập khẩu mở thư tín dụng (thư tín dụng này do kiểm soát viên mở, qua
kiểm soát viên kiểm soát rồi chuyển lên phụ trách phòng kiểm tra lại và duyệt
điện), cuối cùng là lên trung tâm thanh toán để đẩy điện ra nước ngoài. Chỉ cần
một khâu ùn tắc là thư tín dụng của khách hàng sẽ bị phát hành chậm.
Công tác theo dõi ngân hàng nước ngoài trả tiền chưa cập nhật và hạch
toán cũng còn chậm, qua nhiều phòng ban liên quan, điều đó làm cho tốc độ
thanh toán bị chậm lại, giảm hiệu quả kinh doanh của khách hàng và ngân hàng.
Bốn là: Mất cân đối trong thanh toán thư tín dụng xuất và nhập khẩu
Trong nhiều trường hợp, việc thiếu hụt ngoại tệ để thanh toán thư tín dụng
nhập khẩu có giá trị lớn, dẫn đến tình trạng một số thư tín dụng này bị thanh
toán chậm và bị nước ngoài đòi lãi phạt trả chậm. Hoặc cũng có tình trạng CN
phải từ chối khách hàng mở thư tín dụng thanh toán cho nước ngoài vì đơn giản
thiếu ngoại tệ để thanh toán. Nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động huy động và hàng

xuất không đủ hoặc quá ít, không có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ
cho hàng nhập.
Năm là: Còn tiểm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế theo
hình thức tín dụng chứng từ.
Đối với người xuất khẩu: Trong thực tiễn thực hiện nghiệp vụ thanh toán
xuất khẩu bằng L/C, thanh toán viên ngân hàng đã gặp không ít trường hợp
không thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc phải từ chối không


thanh toán cho khách, lý do là người xuất khẩu tuy đã được nhắc nhở song vẫn
không nộp chứng từ kịp thời. Chứng từ khách hàng lập còn nhiều sai sót, khả
năng kiểm soát của CN chưa cao, không tuân thủ những điều kiện và điều
khoản quy định trong thư tín dụng.
Trong phương thức tín dụng chứng từ thì chứng từ phù hợp có ý nghĩa
quyết định. Điều đó liên quan đến trách nhiệm phải trả tiền của ngân hàng mở
hoặc miễn trách nếu chứng từ có sai sót. Thực tế cho thấy phần lớn các chứng từ
hàng xuất của các doanh nghiệp nước ta nói chung, doanh nghiệp xuất trình qua
CN nói riêng đều có sai sót, vì vậy khả năng bị ngân hàng nước ngoài từ chối
còn cao.
Đối với hàng nhập khẩu còn thiếu ngoại tệ hay bị động về nguồn ngoại tệ
cung ứng cho khách hàng có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán, nhất là khi có
sự biến động lớn về tỷ giá giữa VND và USD. Vì vậy có nhiều trường hợp tuy
không phát sinh nợ quá hạn với nước ngoài nhưng Sở Giao dịch chưa cân đối
kịp thời ngoại tệ để thanh toán nên dẫn đến thanh toán chậm, phải chịu lãi phạt
trả chậm (dù đây không phải là hiện tượng phổ biến), làm giảm lòng tin nơi đối
tác nước ngoài. Ngoài ra, cũng phải kể đến tình trạng khi chưa đến hạn thanh
toán với nước ngoài nhưng khách hàng vẫn phải nhận nợ ngoại tệ hay đặt mua
ngoại tệ kỳ hạn, thậm chí có những khoản thư tín dụng có giá trị lớn phải nhận
nợ làm nhiều lần để đề phòng thiếu ngoại tệ, gây ra lãng phí vốn một cách vô lý
đối với doanh nghiệp.

b)

Nguyên nhân

Thứ nhất là nhóm nguyên nhân chủ quan
Văn bản quy định quy trình thực hiện nghiệp vụ còn bất cập . Hiện tại, mặc
dù Ngân hàng Ngoại thương đã ra văn bản Quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất
nhập khẩu và chuyển tiền, song cũng chỉ là sự cụ thể hoá các thông lệ quốc tế
hiện đang áp dụng như UCP600, URC522, ISBP 681 tại Ngân hàng Ngoại
thương. Nhiều quy định còn chung chung, không cụ thể nên nhiều trường hợp,


cán bộ thanh toán không có cơ sở để giải quyết công việc. Ví dụ về chiết khấu
chứng từ, quy trình nghiệp vụ chỉ quy định: khi chứng từ phù hợp, ngân hàng
đại lý có uy tín, khách hàng có tín nhiệm cam kết hoàn trả. Những quy định này
rất trừu tượng, không có chỉ tiêu cụ thể nên để đáp ứng yêu cầu của khách hàng,
CN phải chiết khấu bộ chứng từ cho họ nhưng rủi ro gặp phải là rất lớn.
Bên cạnh đó, việc đúc kết kinh nghiệm là hết sức cần thiết. Mặc dù đã có
những thông lệ quốc tế nhưng thực tế giao dịch hàng ngày rất đa dạng, phát sinh
nhiều trường hợp đặc biệt mà các thông lệ quốc tế không thể đề cập hết. Tuy
nhiên tại CN chưa có sự ghi nhận lại những kinh nghiệm thực tiễn đó bằng văn
bản để làm tài liệu nội bộ, đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ.
Việc truyền kinh nghiệm chủ yếu là truyền miệng, cho từng cán bộ riêng lẻ khi
phát sinh nghiệp vụ liên quan, chính vì vậy vẫn có trường hợp lặp lại những lỗi
đã gặp phải.
Thực lực tài chính của ngân hàng là một trong những yếu tố tạo nên uy tín
của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng Ngoại thương cuối năm 2006 là
trên 11000 tỷ đồng, tổng tài sản là 166,000 tỷ đồng, khá nhỏ so với ba ngân
hàng quốc doanh còn lại. Đây là một hạn chế không nhỏ mà Ngân hàng Ngoại
thương đang từng bước khắc phục, tăng vốn trong quá trình cổ phần hóa đang

tiến hành.
Việc phối hợp giữa các phòng ban chưa nhịp nhàng cũng là một yếu tố gây
nên những hạn chế trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại CN Ngân hàng Ngoại thương . Việc tổ chức các phòng ban
dựa trên cơ sở nghiệp vụ cơ bản như thanh toán xuất khẩu, thanh toán nhập
khẩu, tín dụng. Giữa các phòng ban lại chưa có sự liên kết và chỉ đạo thống nhất
một cách chặt chẽ để trao đổi thông tin, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ nhằm
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do đó có trường hợp khách hàng
muốn mở thư tín dụng bằng vốn vay thì phải làm thủ tục vay vốn tại phòng tín
dụng, sau đó lại mua ngoại tệ tại phòng kinh doanh ngoại tệ để ký quỹ mở thư


tín dụng tại phòng thanh toán nhập khẩu. Hay khách hàng thanh toán chứng từ
hàng xuất qua phòng thanh toán xuất khẩu song lại làm thủ tục vay vốn tại
phòng tín dụng, sau đó khi nhận được tiền hàng lại chuyển sang VND hoặc các
loại ngoại tệ khác tại phòng kinh doanh ngoại tệ. Như vậy họ phải làm việc với
ít nhất ba phòng trong một lần giao dịch, mất thời gian và tốn chi phí.
Mạng lưới ngân hàng đại lý của Ngân hàng Ngoại thương mặc dù đã mở
rộng hơn trong những năm qua – hiện nay khoảng 1300 ngân hàng trên toàn thế
giới, nhưng vẫn là nhỏ bé so với vị thế và tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng
Ngoại thương cũng chỉ có tài khoản tại gần 70 ngân hàng, chủ yếu là đồng USD
tại Mỹ và đồng EUR tại một số ngân hàng ở Châu Âu, nên việc thanh toán cho
ngân hàng nước ngoài hay nhận tiền về vẫn phải qua một, hai ngân hàng trung
gian, tốn thời gian và phí ngân hàng. Bên cạnh những ngân hàng thanh toán
nhanh, đúng hạn như các ngân hàng của Nhật, Đài Loan, Singapor, còn có một
số ngân hàng chưa thiện chí trong việc hỗ trợ lẫn nhau và thiên về bảo vệ quyền
lợi của khách hàng trong nước về mọi giá, nhiều khi cố tình bắt lỗi để tránh rủi
ro, do vậy ảnh hưởng tới thời gian thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra trong
quá trình phát hành thư tín dụng, còn nhiều ngân hàng nước ngoài mà Ngân
hàng Ngoại thương chưa đặt quan hệ trao đổi khoá SWIFT, dẫn đến việc phải

thông báo thư tín dụng qua một ngân hàng thứ ba, vừa chậm trễ, vừa tốn thời
gian, ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng Ngoại thương.
Ngoài ra, Công tác thẩm định khi mở thư tín dụng cũng như khi quyết định
chiết khấu một bộ chứng từ chưa được tiến hành một cách khoa học và cẩn thận.
Trừ trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay để mở thư tín dụng, còn lại việc
thẩm định đối với từng hợp đồng ngoại thương khi tiến hành mở thư tín dụng
hầu như không được thực hiện. CN Ngân hàng Ngoại thương chủ yếu thực hiện
theo hình thức hàng năm cung cấp cho khách hàng một hạn mức mở thư tín
dụng miễn ký quỹ hoặc hạn mức chiết khấu truy đòi do hội đồng tín dụng ra
quyết định, dựa trên tình hình kinh doanh và uy tín thanh toán của đơn vị. Chính


vì vậy rất nhiều trường hợp có những hợp đồng ngoại thương an toàn, có lợi
nhưng chỉ vì vượt hạn mức cho phép mà CN từ chối mở thư tín dụng hay từ
chối chiết khấu bộ chứng từ cho khách hàng dù bộ chứng từ là sạch. Ngược lại,
có trường hợp Ngân hàng mở thư tín dụng miễn ký quỹ cho khách vẫn trong
hạn mức cho phép, nhưng khi có biến động về giá hàng hoá, khách hàng gây
khó khăn, chậm trễ thanh toán khi bộ chứng từ về, làm mất uy tín của CN.
Đặc biệt đối với những thư tín dụng trả chậm nhập khẩu máy móc thiết bị,
dây chuyền sản xuất thì việc thẩm định là vô cùng quan trọng nhằm giảm thiểu
rủi ro cho ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua tại CN Ngân hàng Ngoại
thương QN rất nhiều trường hợp thẩm định dự án còn sơ sài, chỉ mang tính hình
thức hoặc để đối phó, thẩm định dự án lại không chỉ rõ được những rủi ro có thể
xảy ra của dự án. Nguyên nhân có thể do thiếu thông tin, thời gian thẩm định
ngắn, nhưng nhiều khi vì muốn duy trì quan hệ với khách hàng truyền thống mà
CN giao dịch bỏ qua những bước quan trọng trong quá trình thẩm định. Có thể
nói chất lượng thẩm định chưa cao là nguyên nhân chính dẫn đến những rủi ro
trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành thư tín dụng trả chậm của.
Với những khách hàng mới chưa có hạn mức miễn ký quỹ mở thư tín dụng
, CN không có bước thẩm định khách hàng và giao dịch ngoại thương của khách

mà luôn yêu cầu khách phải ký quỹ 100% hoặc phải qua phòng Tín dụng vay
vốn . Điều này tạo không ít khó khăn cho những khách hàng là những công ty
nhỏ và cũng là một hạn chế khiến cho lượng khách hàng này không đến với
CN. Trong cơ chế mở cửa khuyến khích ngoại thương hiện nay, bộ phận khách
hàng này là không nhỏ, với một cơ chế cứng nhắc như vậy, CN đã tự đánh mất
lợi thế của mình, bỏ ngỏ một mảng thị trường có thể mang lại lượng phí dịch vụ
đang kể.
Một nguyên nhân nữa là trình độ cán bộ của Ngân hàng Ngoại thương
còn nhiều hạn chế. Nước ta đã mở cửa giao lưu kinh tế quốc tế với rất nhiều
nước trên thế giới, hơn ai hết ngân hàng cần phải đi trước một bước để tiếp cận


với những kiến thức kinh tế thị trường, trong đó thanh toán quốc tế là một trong
những lĩnh vực quan trọng. Ngân hàng Ngoại thương , mặc dù đã có một đội
ngũ cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế có thể nói là uy tín nhất trong các
ngân hàng thương mại cả nước nhưng bên cạnh đó vẫn còn những cán bộ thiếu
kiến thức cần thiết để thực hiện công việc khó khăn này. Cán bộ thanh toán thư
tín dụng còn thiếu những hiểu biết về luật pháp và những thông lệ quốc tế cũng
như trình độ ngoại ngữ còn hạn chế. Vì thế, họ thiếu đi khả năng tư vấn cho
khách hàng, công tác tiếp thị thu hút khách hàng chưa được chú trọng. Nhận
thức của một số cán bộ nghiệp vụ khi thực hiện các nghiệp vụ thư tín dụng chỉ
coi đó như là một phương thức thanh toán nhằm thu phí mà chưa đánh giá đúng
mức tầm quan trọng của phương thức này với tư cách là công cụ quan trọng để
tài trợ thương mại. Vì là ngân hàng thương mại đầu tiên và độc quyền trong một
thời gian dài thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nên có những cán bộ
không tránh khỏi tính ỷ lại, chưa chịu khó tìm hiểu nghiệp vụ mới, đặc biệt là
các nghiệp vụ liên quan đến môi trường quốc tế, thiếu tự tin trong việc tiếp xúc
và tư vấn cho khách hàng. Khả năng giao dịch trực tiếp qua điện thoại đối với
đối tác nước ngoài thì không nhiều nhân viên có thể thực hiện được.
Hơn nữa, khả năng thu thập thông tin, đánh giá tình hình hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp còn bất cập và chưa được chú trọng dẫn đến việc
phân loại khách hàng, xem xét phương án kinh doanh của khách hàng không
chính xác. Điều này đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp vi phạm các cam kết
trong thanh toán.
Những hạn chế này một phần là do Ngân hàng chạy theo nhiệm vụ kinh
doanh trước mắt, chưa có chính sách đào tạo cán bộ toàn diện và lâu dài. Đội
ngũ cán bộ chủ chốt bị hẫng hụt, cán bộ thâm niên có ý thức trách nhiệm cao lại
thiếu kiến thức thị trường, lớp cán bộ trẻ nhạy bén với những cái mới nhưng
trình độ chuyên môn còn chưa sâu.


Chương trình công nghệ là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nghiệp vụ của
Ngân hàng. Từ khi chương trình Trade Finance được chính thức đưa vào hoạt
động, bên cạnh những mặt tích cực cũng gây ra một số khó khăn như: tác
nghiệp của các thanh toán viên tăng lên nhiều so với chương trình cũ. Điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phục vụ khách hàng của CN. Hơn nữa, việc thực
hiện các tác nghiệp trong Trade Finance còn rất nhiều phần phải thực hiện bằng
tay, mất thời gian, trong khi chương trình hoàn toàn có thể hỗ trợ. Việc thay đổi
địa chỉ, mã SWIFT của các ngân hàng nước ngoài không được cập nhật trên hệ
thống khiến cho việc tra soát của thanh toán viên gặp nhiều khó khăn. Về số liệu
báo cáo, Adhoc Report ra đời đầu năm 2006 là một bước ngoặt lớn của việc làm
báo cáo, tuy nhiên chương trình này sẽ tốt hơn nhiều nếu có thể tự động cập
nhật số liệu.
Thứ hai là nhóm nguyên nhân khách quan.
Các văn bản, chính sách vĩ mô của Nhà nước còn thiếu ổn định, thường
xuyên bị điều chỉnh. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các bên trong thanh
toán quốc tế bằng thư tín dụng. Như chính sách thương mại, Chính phủ và các
bộ ngành có liên quan thường xuyên có những thay đổi về danh mục các mặt
hàng được phép xuất nhập khẩu, biểu thuế áp dụng đối với từng mặt hàng, điều
kiện để doanh nghiệp đươc phép hoạt động xuất nhập khẩu, song thời gian kể từ

khi ra quyết định đến khi quyết định có hiệu lực thi hành thường là ngắn, không
đủ để các doanh nghiệp dự tính sắp xếp kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Có những mặt hàng trước kia cho phép nhập khẩu, song do
tình trạng hàng nhập về quá nhiều, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước nên
Chính phủ lại cấm nhập khẩu làm cho các doanh nghiệp rất khó khăn trong
hướng giải quyết vì đã làm thủ tục mở thư tín dụng nhập khẩu, có nghĩa vụ phải
thanh toán khi người bán giao hàng và xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu các thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa
có sự liên kết phối hợp giữa các ban ngành, các quy định còn chồng chéo gây


phiền toái cho khách hàng, tốn kém thời gian và chi phí. Chính phủ cũng chưa
xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu. Ngoài ra, quy định về mở thư tín dụng trả chậm chưa rõ ràng, nhiều
doanh nghiệp coi đây như là một hình thức tài trợ vốn vay dài hạn, tranh thủ
nguồn vay của nước ngoài mở thư tín dụng trả chậm tràn lan, tiền hàng thu được
lại quay vòng khiến cho đến khi thư tín dụng không thanh toán được dẫn đến
ngân hàng phải đứng ra trả thay.
Tỷ giá hối đoái không ổn định, thị trường ngoại hối chưa phát triển dẫn đến
những cơn sốt về ngoại tệ, khan hiếm nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán thư tín
dụng nhập khẩu, nhất là thư tín dụng trả chậm khiến doanh nghiệp thiệt thòi,
giảm hiệu quả kinh doanh và gây khó khăn cho ngân hàng trong việc giục khách
hàng thanh toán.
Thêm vào đó, môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế còn
thiếu và chưa đồng bộ. Chính phủ chưa có văn bản pháp lý về hoạt động thanh
toán quốc tế, nhất là những quy định cụ thể về việc hướng dẫn áp dụng các
thông lệ quốc tế như UCP, INCOTERMS, hoạt động thanh toán quốc tế chưa
thực sự được bảo vệ bởi một hành lang pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Một số
văn bản của Ngân hàng Nhà nước quy định chưa cụ thể, gây ra sự hiểu biết khác
nhau giữa thực tế diễn ra tại các ngân hàng và thanh tra ngân hàng Nhà nước

dẫn đến áp dụng không thống nhất, gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các ngân hàng.
Tình trạng cán cân thanh toán Việt Nam luôn thâm hụt cũng làm ảnh hưởng
tới hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng
từ nói riêng. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng mất cân đối giữa
thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu tại các ngân hàng. Cán cân thanh
toán quốc tế thâm hụt cũng dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, ảnh
hưởng tới khả năng chi trả ngoại hối của các ngân hàng thương mại, do vậy ảnh


hưởng tới việc đáp ứng nhu cầu về nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán cho đối
tác nước ngoài.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong nước và các
ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng là một trong những yếu tố
chính làm cho thị phần thanh toán quốc tế nói riêng và theo phương thức tín
dụng chứng từ nói chung của CN Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam bị chia xẻ.
Hiện nay trên địa bàn đ ịa bàn tỉnh QN có tới h àng ch ục ngân hàng hoạt động
kinh doanh, mặt khác từ năm 1990 trở lại đây, Nhà nước đã cho phép các ngân
hàng đủ điều kiện có thể mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực hoạt động
kinh doanh đối ngoại, Ngân hàng ngoại thương không còn giữ vị trí độc quyền.
Được phép hoạt động thanh toán quốc tế, nhận thấy những lợi ích to lớn do hoạt
động này mang lại, các ngân hàng mới bước vào lĩnh vực này đã tìm mọi cách
để kéo khách hàng về phía mình như áp dụng chế độ cho vay tài trợ xuất nhập
khẩu rất thoáng với thủ tục đơn giản, tốc độ giải ngân nhanh, ưu tiên trong mua
bán ngoại tệ, áp dụng tỉ lệ phí thấp. Họ đã thu hút được một lượng lớn khách
hàng truyền thống của CN Ngân hàng Ngoại thương Quảng Ninh.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp hiện nay có cổ phần trong các ngân
hàng thương mại cổ phần nên họ chủ yếu hoạt động tại ngân hàng của mình, chỉ
giao dịch với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để duy trì quan hệ.
Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng đang nỗ

lực thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong
đó có cả các doanh nghiệp lớn là khách hàng truyền thống củaVCB như Tổng
Công ty than Việt Nam, Những ngân hàng này có nhiều ưu thế như có tiềm lực
về vốn ngoại tệ, có trình độ quản lý chuyên môn cao, có công nghệ hiện đại. Họ
chủ động tìm hiểu những nhu cầu lợi ích mà khách hàng trông đợi, giao thư tín
dụng tận tay khách hàng, thu hút khách hàng mới bằng việc hạ thấp phí dịch vụ,
lãi suất cho vay chiết khấu và mức ký quỹ mở thư tín dụng, sau một thời gian
mới nâng lên một cách hợp lý. Họ phối hợp tín dụng thanh toán trong một chu


×