Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.56 KB, 18 trang )

HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG V SÀ Ự CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH BẰNG PH PÁ
LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM.
I. hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường.
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH BẢO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM.
1.1. Trên thế giới.
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân
loại m thà ậm chí cho đến bây giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm
xuất hiện từ khi n o. Chúng ta có thà ể dễ d ng tìm à được phế tích của những
ngôi nh tác phà ẩm nghệ thuật hoặc những dấu tích còn sót lại của những nền
văn minh xưa kia. Tuy nhiên việc tái lập một cách chính xác cách thức m cácà
thị dân đầu tiên đã sử dụng để tổ chức các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế
lại l mà ột điều khó khăn hơn nhiều. Trong một số những dấu tích vật chất
gây ấn tượng của văn minh thời Tiền sử, thời Cổ đại, thời Trung cổ v thà ời
Cận đại có các kho lúa nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong
trường hợp khẩn cấp. Câu chuyện trong kinh thánh Joeph giải thích giấc mơ
của vua Ai Cập l mà ột ví dụ minh hoạ nguyên tắc m ngà ười ta đã áp dụng để
tổ chức dịch vụ nói trên. Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất
mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân của một th nh phà ố thu hoạch ở
vùng nông thôn xung quanh. Mặc dù mỗi hộ gia đình có thể tự dự phòng cho
những trường hợp xấu nói trên nhưng các thị dân đã sớm nhận ra rằng việc
dự trữ chung hoặc theo từng cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi người có khả
năng sẽ phải đóng góp v o mà ột khoản thuế nhỏ trong những năm được mùa,
khi giá lương thực xuống thấp. Người ta thực hiện việc mua lương thực có
thể dự trữ được chủ yếu l lúa mà ỳ. Nông dân thấy h i lòng do hà ọ có thể bán
được nhiều hơn( với giá cao hơn) so với khi cơ quan thuế không thực hiện
việc mua lương thực trên thị trường. Gặp khi mất mùa hoặc khi th nh phà ố bị
vây hãm, cơ quan thuế sẽ xuất ra lương thực dự trữ để nuôi sống cư dân
th nh phà ố. Vì vậy, ý tưởng về việc lập một quỹ chung (trong trường hợp n yà
l quà ỹ lương thực) đã xuất hiện trong tiềm thức con người. Ý tưởng n y tà ỏ ra


rất phù hợp với yêu cầu khách quan của đời sống của con người vốn thường
xuyên bị rủi ro đe doạ.
V o cuà ối thế kỷ XV, khi Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá tới
Châu Á v Châu Mà ĩ, mở đường cho cái gọi l “cuà ộc cách mạng thương mại”
xảy ra trước “cuộc cách mạng công nghiệp” nổi tiêng, ý tưởng về rủi ro và
th nh là ập một quỹ chung đã xuất hiện cùng một lúc. Nếu một đội t u nhà ỏ tìm
cách đi từ Châu Âu tới Inđônêxia để mua bán h ng hoá v trà à ở về với nhiều
loại h ng hoá hà ấp dẫn, song lại có một số t u không ho n th nh chuyà à à ến trở
về. Một số t u có thà ể bị chìm do bão tố, cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội
thuỷ thủ bị chết vì bệnh tật), lạc đường, bị chìm do quá tải. Những người
tham gia v o chuyà ến đi mạo hiểm đó đã cảm thấy sự cần thiết phải cùng nhau
chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng một số nh à đ u tà ư bị mất trắng khoản đầu tư
của mình do ho n cà ảnh ngẫu nhiên đã khiến cho con t u cà ủa họ bị mất tích.
Vì thế họ đã tìm ra hai cách nhằm đáp ứng nhu cầu n y:à
Cách thứ nhất, l th nh là à ập một liên doanh có góp vốn cổ phần theo đó
một nhóm đầu tư cùng đầu tư v o mà ột đội thuyền chở h ng chung, cùng chiaà
sẻ rủi ro khi xảy ra tổn thất v phân chia là ợi nhuận m liên doanh thu à được.
Cách thứ hai, l bà ảo hiểm một hệ thống m theo à đó chủ t u hay chà ủ
h ng (có thà ể l mà ột cá nhân hay một công ty) đề nghị trả một số tiền mặt cho
người khác nếu những người n y à đồng ý sẽ bồi thường cho các chủ h ngà
thuộc con t u khi con t u à à đã nêu tên không ho n th nh mà à ột chuyến đi cụ thể
n o à đó.
Theo cách n y, thay cho vià ệc phát triển trong cạnh tranh, việc chung vốn
v bà ảo hiểm đã bổ xung cho nhau. Một số cá nhân hay công ty thu phí bảo
hiểm bằng tiền mặt để đổi lấy một cam kết sẽ bồi thường cho chủ t u trongà
trường hợp t u bà ị mất tích. Những bảo hiểm n y à đã tạo lập một quỹ chung
m hà ọ cam kết sử dụng để thanh toán cho người được bảo hiểm khi xảy ra
tổn thất.
Một số nh kinh doanh bà ảo hiểm nhanh chóng nhận ra rằng rất nhiều
th nh viên cà ộng đồng không muốn mình nhận bảo hiểm cho những rủi ro lớn

như vậy theo như kiểu khai thác bảo hiểm của Lioyds’. Vì vậy, khái niệm góp
vốn chung đã được đè cập đến song trong một bối cảnh khác, người ta kêu
gọi mọi người mua cổ phần của các công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ
thuê các chuyên gia để lựa chọn các rủi ro có thể bảo hiểm v bà ồi thường cho
người được bảo hiểm bằng số tiền trích ra từ quỹ chung m công ty à đã đem
ra đầu tư khi rủi ro xảy ra. Quỹ n y à được xây dựng trên cơ sở tiền m côngà
ty thu được sau khi bán các cổ phần cho các cổ đông cộng với thu nhập nhờ
đầu tư quỹ v phí bà ảo hiểm do người được bảo hiểm nộp. Chỉ cần khai thác
viên chuyên nghiệp tính toán một cách đầy đủ v chính xác trong vià ệc lựa
chọn rủi ro v sà ố phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi loại rủi ro, cụ thể thì quỹ
n y luôn luôn có khà ả năng để bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm
nếu xảy ra rủi ro v trà ả lãi cho các cổ đông ở mức đủ để họ h i lòng và ới việc
đầu tư của mình.
V o thà ời gian đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty bảo hiểm là
bảo hiểm hoả hoạn. Tại những th nh phà ố đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết
nh cà ửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để sưởi, đun nấu v dùng à để
chiếu sáng. Vì vậy rủi ro nh bà ắt lửa l rà ất cao. Trong cộng đồng l ng xãà
trước khi diễn ra quá trình đô thị hoá, khi một nh bà ị cháy rụi, tất cả những
nh h ng xóm sà à ẽ hợp sức với nhau để giúp xây dựng lại ngôi nh . Ngà ược lại
ở th nh phà ố, do h ng xóm cà ủa gia đình có nh bà ị cháy đều có những nghề
nghiệp chuyên môn riêng( như thợ dệt, thợ may, thư ký...) họ không có khả
năng cũng như thời gian để giúp h ng xóm xây là ại ngôi nh trong trà ường hợp
xảy ra hoả hoạn. Thay v o à đó, họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty bảo
hiểm để nhận được hai cam kết: cung cấp dịch vụ cứu hoả (như dập lửa, ngăn
không cho lan sang nh khác, v hà à ạn chế mức thấp nhất do vụ cháy gây ra) và
bồi thường bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm để tạo điều kiện cho họ
thuê mướn những thợ chuyên môn cần thiết (như thợ xây, thợ mộc...), sửa
chữa lại hư hỏng (hoặc xây lại ngôi nh trong trà ường hợp xảy ra hoả hoạn
nghiêm trọng).
Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện.

Một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải l mà ột hợp đồng bồi thường.
Mục đích của nó l cung cà ấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những trường
hợp được nêu trong hợp đồng bảo hiểm. Không ai có thể biết chắc chắn tuổi
thọ của một người sẽ l bao nhiêu. Chà ỉ một phần cư dân trên thế giớ qua đời
mỗi năm. V o già ữa thế kỷ XVII, người ta đã th nh là ập các công ty, tổ chức
tương hỗ để cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ cho công chúng. Các hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ không phải lúc n o cà ũng dựa trên nguyên tắc bồi
thường, bởi vì xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống con người l vô giá v rõà à
r ng không phà ải một tổ chức n o cà ũng có thể cung cấp cho một ‘giá trị’ tương
đương với việc mất đi sinh mạng. Chính vì lý do n y m các hà à ợp đồng bảo
hiểm nhân thọ đều dựa trên một số tiền cụ thể. Một người sau khi được bảo
hiểm nhân thọ (hoặc người có lợi ích hợp pháp như vợ, chồng) phải nộp một
phần thu nhập của mình cho một công ty bảo hiểm để sau n y ngà ười thừa kế
của họ sẽ nhận được một khoản tiền khi người được bảo hiểm qua đời. Hoặc
khi hợp đồng bảo hiểm đến hạn sau một số năm đã định (với điều kiện người
được bảo hiểm vẫn còn sống). Bảo hiểm nhân thọ l mà ột hình thức tiết kiệm
có lợi cho người được bảo hiểm, người phụ thuộc v o hà ọ v các tà ổ chức kinh
doanh của họ.
Từ những loại bảo hiểm ban đầu như bảo hiểm h ng hà ải, bảo hiểm hảo
hoạn v bà ảo hiểm nhân thọ giờ đây trên thế giới đã có thêm rất nhiều loại
bảo hiểm khác nữa.
Những công ty bảo hiểm xuất hiện đầu tiên trên thế giới đó l :à
Năm 1424, Công ty bảo hiểm đầu tiên của vận tải biển v à đường bộ
được th nh là ập ở GiênOa.
Năm 1667, Công ty bảo hiểm hoả hoạn ra đời ở Anh.
Năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên tại Luân Đôn.
1.2. ở Việt nam.
1.2.1.Dưới thời phong kiến đến năm 1945.
Các triều đại phong kiến tập quyền Việt Nam đều gi nh cho mình nhà ững
quyền sở hữu tối cao về tư liệu sản xuất. Chính vì vậy bảo hiểm ho n to nà à

mang tính chất xã hội v phà ục vụ cho mục đích thống trị của triều đình vua
chúa phong kiến. Nó tồn tại dưới các hình thức phát chẩn, cứu tế mang tính
bình quân. Bảo hiểm không tồn tại khái niệm “đóng góp” v “bà ồi thường”
m chà ỉ có khái niệm “Cho” v “Nhà ận”. Phạm vi hoạt động bảo hiểm diễn ra ở
phạm vi cục bộ, tức l chà ỉ ở địa phương hay xảy ra thiên tai, địch hoạ. Tuy
nhiên hầu hết các địa phương đều tồn tại quĩ dự phòng do các quan lại v cácà
phú gia hảo tâm đóng góp. Thực chất của quỹ n y chà ỉ l “Là ấy của người gi uà
chia cho người nghèo”. Bảo hiểm chưa đủ khả năng duy trì đời sống v hoà ạt
động bình thường.
Dưới thời Pháp thuộc, do kinh tế chưa phát triển nên bảo hiểm cũng chưa
thực sự đáng kể. Hầu hết hoạt động bảo hiểm chỉ dừng lại ở chế độ bảo
hiểm xã hội cho công, viên chức bảo hiểm thương mại có ít nhưng ho n to nà à
do người Pháp nắm giữ.
1.2.2. Từ năm 1945 đến năm 1994.
Khi gi nh à được độc lập năm 1945, nh nà ước ta đã phát triển t i chínhà
Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm với tư cách l mà ột dịch vụ
t i chính mà ới phát triển được 30 năm nay. Ng y 15/01/1965 Công ty Bà ảo
hiểm Việt nam (gọi tắt l (BAOVIET) ra à đời theo Quyết định số 179/CP ng yà
17/12/1964 của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của BAOVIET đánh dấu một
bước phát triển trong lịch sử của ng nh t i chính Vià à ệt Nam. Tuy nhiên bảo
hiểm Việt Nam lúc n y cà ũng ho n to n mang tính bao cà à ấp, không hề tồn tại
khái niêm “Hạch toán kinh doanh” như ở các nước Tư bản chủ nghĩa. Ban đầu
chỉ có 5 nghiệp vụ: bảo hiểm h ng Xuà ất nhập khẩu, bảo hiểm thân t u và à
trách nhiệm dân sự của chủ t u v tái bà à ảo hiểm.
Sự có mặt của một công ty duy nhất với cơ chế độc quyền trong Kinh
doanh bảo hiểm đã duy trì trong một thời gian d i. Cho à đến tháng 12 năm
1993, việc ban h nh Nghà ị định 100/CP về Kinh doanh Bảo hiểm của Chính phủ
đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh
Bảo hiểmở nước ta.
Độc quyền về cơ bản đã chấm dứt với sự ra đời của h ng loà ạt các

Doanh nghiệp bảo hiểm, đó l :à
- Công ty bảo hiểm Th nh phà ố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh).
- Công ty bảo hiểm Nh Rà ồng ( Bảo Long).
- Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex ( PJICO).
- Công ty bảo hiểm Dầu khí Việt nam ( PVIC).
- Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm – Inchcape ( INCHIBROK).
- Công ty liên doanh bảo hiểm - Việt nam Internationnal asurance
Company ( VIA).
- Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện ( FTI).
- Công ty liên doanh bảo hiểm – United Inurace của Việt Nam (UIC).
Nhiều tổ chức bảo hiểm nước ngo i à đã th nh là ập văn phòng đại diện tại
Việt Nam. Mạng lưới bảo hiểm, cộng tác viên đã hình th nh rà ộng khắp cả
nước. Nhiều nghiệp vụ mới của bảo hiểm đã được triển khai như l bà ảo
hiểm tín dụng, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm nhân thọ... Hệ
thống văn bản pháp lý về bảo hiểm đang được chú ý v ho n thià à ện. Mọi nỗ
lực đã mang lại sự tăng trưởng không ngừng của thị trường bảo hiểm.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam l mà ột xu
thế tất yếu trong điều kiện kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã tạo ra môi
trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Sự phong phú về các
nguồn h nh hoá, dà ịch vụ, tốc độ tăng trưởng cao về kinh tế, mức thu nhập dồi
d o cà ủa nhiều tầng lớp dân cư. Tính phức tạp, đa dạng của các loại hình rủi
ro l yà ếu tố khách quan tác động đến việc hình th nh v tà à ăng nhanh các nhu
cầu về bảo hiểm trong xã hội.
Gắn liền với các loại thị trường khác, đặc biệt l thà ị trường t i chínhà
(m trà ước hết l thà ị trường vốn), thị trường bảo hiểm hình th nh nhà ư một
mắt xích không thể thiếu trong cơ chế thị trường.
Thị trường bảo hiểm l nà ơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại sản
phẩm bảo hiểm, nơi người bảo hiểm v khách h ng tác à à động qua lại để xác
định giá cả cũng như số lượng sản phẩm bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm tất
yếu chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế thị trường. Môi trường cạnh tranh

đã tạo lên một thị trường linh hoạt có khả năng đáp ứng được sự đa dạng
của nhu cầu bảo hiểm, thúc đẩy sự tăng nhanh khối lượng chủng loại v chà ất
lượng sẩn phẩm bảo hiểm.
Mặt khác, cơ chế cạnh tranh cũng l m nà ảy sinh h ng loà ạt các vấn đề
phức tạp. Thị trường nếu không được tổ chức, quản lý, giám sát đúng đắn có
thể dẫn tới tình trạng hỗn loạn, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế – xã hội.
Vậy nên các tổ chức kinh doanh bảo hiểm cần có chiến lược phát triển, phải
tổ chức quản lý như thế n o? Nh nà à ước cần thực hiện vai trò quản lý đối với
hoạt động kinh doanh bảo hiểm ra sao? Thị trường bảo hiểm mở cửa một
quốc gia cần những gì để đứng vững trong cạnh tranh trên trường Quốc tế?
Những vấn đề n y sà ẽ được giải trình ở phần tiếp theo.
2. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC TRƯNG CỦA HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH BẢO HIỂM.
2.1. Khái niệm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm l vià ệc doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi l phíà

×