Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

một số nhận xét và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.54 KB, 13 trang )

một số nhận xét và kiến nghị
I/- Về việc trích lập dự phòng nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ
1/-Dự phòng phí cha đợc hởng (Dự phòng phí)
Mặc dù Bộ Tài chính cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm có thể lựa chọn ph-
ơng pháp trích lập dự phòng phí phù hợp, song các doanh nghiệp bảo hiểm ở nớc ta
hiện nay chủ yếu lựa chọn một trong những phơng pháp đợc hớng dẫn trong Thông t
71/2001/TT-BTC nh phơng pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm của tổng phí bảo hiểm,
phơng pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng bảo hiểm (hệ số 1/8, 1/24
hoặc 1/365).
Vấn đề cần quan tâm là, đối với mỗi nghiệp vụ bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm chỉ cần lựa chọn một phơng pháp trích lập dự phòng phí cụ thể mà không phải
kết hợp kết quả của hai hay nhiều phơng pháp. Nếu trong phơng pháp mà doanh
nghiệp bảo hiểm lựa chọn có nhợc điểm thì việc chỉ lựa chọn một phơng pháp có
đảm bảo mức dự phòng phí đợc trích lập là hợp lý hay không.
Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chọn phơng pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm
của tổng phí bảo hiểm, theo quy định của Luật Kinh Doanh Bảo hiểm:
-Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đờng bộ, đờng biển,
đờng sông, đờng sắt và đờng hàng không thì dự phòng phí bằng 17% tổng phí
bảo hiểm giữ lại của năm tài chính của các nghiệp vụ đó.
-Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm khác dự phòng phí bằng 40% tổng phí bảo
hiểm giữ lại của năm tài chính của các nghiệp vụ đó.
Phơng pháp này có u điểm là tính toán đơn giản khối lợng công việc phải thực
hiện ít, nên đợc hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam sử
dụng. Tuy nhiên, phơng pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm của tổng phí bảo hiểm ch-
a loại trừ đợc phần phí của những hợp đồng mà vào thời điểm kết thúc năm tài chính
đã hết hiệu lực. Đó là những hợp đồng có thời hạn nửa năm đợc ký kết vào nửa đầu
của năm (01/01- 30/06); những hợp đồng có thời hạn ba tháng đợc ký kết vào quý I,
II, III; những hợp đồng có thời hạn tháng đợc ký kết vào các tháng trớc tháng cuối
của năm tài chính.
Bên cạnh đó, phơng pháp này chỉ cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm trích


lập hợp lý dự phòng phí khi phí bảo hiểm thu đợc trong năm chính đều đặn theo thời
gian. Ta cũng biết rằng, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ đều là các hợp
đồng ngắn hạn, thời gian có hiệu lực của hợp đồng thờng dới một năm.
Nh vậy, đối với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ngoài nghiệp vụ bảo hiểm hàng
hoá vận chuyển, nếu các hợp đồng bảo hiểm chủ yếu đợc ký kết vào đầu năm thì mức
dự phòng phí trích lập sẽ không tơng xứng phần hiệu lực còn lại của hợp đồng bảo
hiểm ở năm tài chính tiếp theo, tức là dự phòng phí trích lập cao hơn mức cần thiết.
Ngợc lại, nếu các hợp đồng bảo hiểm chủ yếu đợc ký kết vào cuối năm thì mức dự
phòng phí trích lập cũng sẽ không tơng xứng với phần hiệu lực còn lại của hợp đồng
bảo hiểm ở năm tài chính tiếp theo, tức là dự phòng phí trích lập thấp hơn mức cần
thiết. Tóm lại, nếu áp dụng phơng pháp trích lập này thì có thể dẫn đến mức dự
phòng phí trích lập không hợp lý.
Nếu mức dự phòng phí đợc trích lập cao hơn mức cần thiết thì sẽ làm giảm thu
nhập chụi thuế của doanh nghiệp, đây là điều mà doanh nghiệp mong muốn. Nếu
mức dự phòng phí đợc trích lập không đủ, thấp hơn mức cần thiết thì sẽ ảnh hởng đến
khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm.
Nếu chọn phơng pháp trích lập theo hệ số thời hạn của hợp đồng bảo hiểm,
theo quy định của Luật Kinh Doanh Bảo hiểm:
-Đối với nghiệp vụ hàng hoá vận chuyển, doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp
dụng phơng pháp trích lập hệ số 1/8.
-Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm khác có thời hạn đến một năm, có thể áp dụng
phơng pháp trích lập theo hệ số 1/24 hoặc 1/365.
Phơng pháp này khắc phục đợc nhợc điểm của phơng pháp trích lập theo tỷ lệ
phần trăm của tổng phí bảo hiểm đó là tính không đều đặn theo thời gian của việc thu
phí bảo hiểm. Do đó, khi phí bảo hiểm thu đợc tập trung phần lớn vào đầu năm hoặc
cuối năm, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn đảm bảo mức dự phòng phí hợp lý vì mức này
đợc điều chỉnh theo các hệ số của 1/8 (3/8, 5/8, 7/8) hoặc 1/24 (3/24, 5/24, ... ,
23/24).
Phơng pháp này đợc các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở các nớc tiên
tiến áp dụng phổ biến, nhất là các nớc ở khối EU với mục đích nhằm bổ sung cho kết

quả của các phơng pháp khác.
Mục đích của việc hoàn thiện phơng pháp trích lập dự phòng phí là nhằm khắc
phục những hạn chế của các phơng pháp trên, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm trích
lập mức dự phòng phí hợp lý hơn, tạo thuận lợi cho công tác giám sát của cơ quan
quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện để thúc đẩy thị trờng bảo hiểm
Việt Nam phát triển.
Để đạt đợc mục đích này, Bộ Tài chính cần quy định các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ phải sử dụng hai phơng pháp trích lập dự phòng phí, trong đó có
một phơng pháp bắt buộc. Kết quả của phơng pháp bắt buộc đợc coi là mức dự phòng
phí tối thiểu đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Kết quả nào cao hơn chính là mức
dự phòng phí mà doanh nghiệp bảo hiểm cần phải trích lập. Đồng thời các phơng
pháp này cũng phải dựa trên nguyên tắc mức dự phòng phí đủ để thanh toán cho
những trách nhiệm bảo hiểm phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo
hiểm trong năm tài chính tiếp theo.
Chẳng hạn, đối với các nghiệp vụ bảo hiểm ngoài nghiệp vụ bảo hiểm hàng
hoá vận chuyển, Bộ Tài chính có thể quy định phơng pháp trích lập theo tỷ lệ phần
trăm của tổng phí bảo hiểm là bắt buộc. Nhiều nớc trên thế giới đã có những quy
định tơng tự, nh ở Pháp quy định dự phòng phí tối thiểu là 36% tổng phí thực giữ lại
của các nghiệp vụ đó.
Chính vì vậy, để có đợc mức dự phòng phí hợp lý, doanh nghiệp bảo hiểm có
thể kết hợp phơng pháp trích lập theo tỷ lệ (phơng pháp tối thiểu, bắt buộc) với một
phơng pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng bảo hiểm.
Việc kết hợp các kết quả của các phơng pháp nh trên, một mặt sẽ đảm bảo
mức dự phòng phí đợc trích lập của các doanh nghiệp bảo hiểm hợp lý không quá
nhỏ cũng không quá lớn hơn mức cần thiết vì mức dự phòng phí ít nhất cũng phải
bằng mức tối thiểu tính theo phơng pháp bắt buộc. Mặt khác các cơ quan quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng không phải lo ngại trớc nguy cơ mức dự phòng
phí đợc trích lập quá lớn làm giảm thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Tức là
doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm vốn có của mình đối
với nhà nớc.

Đối với PJICO, để trích lập đợc mức dự phòng phí hợp lý, phải kết hợp phơng
pháp trích lập theo tỷ lệ và phơng pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng
bảo hiểm. Trong đó kết quả của phơng pháp trích lập theo tỷ lệ đợc coi là mức dự
phòng phí tối thiểu mà PJICO cần phải trích lập.
Mức dự phòng phí mà PJICO cần phải trích lập là mức dự phòng phí tối thiểu
nếu kết quả của phơng pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng bảo hiểm nhỏ
hơn mức dự phòng phí tối thiểu. Mức dự phòng phí mà PJICO cần phải trích lập là
kết quả của phơng pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng bảo hiểm nếu tr-
ờng hợp ngợc lại xảy ra.
Vấn đề đặt ra là ở Việt Nam, tỷ lệ này là bao nhiêu thì hợp lý. Tỷ lệ này phải là
tỷ lệ trung bình dựa trên kết quả tính toán về cơ cấu phí của nhiều nghiệp vụ bảo
hiểm. Đồng thời, để đảm bảo độ chính xác cao, khi áp dụng phơng pháp bắt buộc
này phải loại trừ phần phí của những hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực vào 31/12 của
năm tài chính hiện tại.
2/-Dự phòng bồi thờng cho các khiếu nại cha giải quyết (Dự phòng bồi thờng)
Dự phòng bồi thờng là khoản dự phòng sử dụng để bồi thờng cho các tổn thất đã
phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm cha khiếu nại hoặc đã khiếu nại nhng đến cuối
năm tài chính cha giải quyết.
Thông thờng dự phòng bồi thờng thờng đợc sử dụng để thanh toán trong những
trờng hợp sau:
a) Các tổn thất đã khiếu nại, thuộc trách nhiệm bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm đã xác định đợc tổng số tiền phải bồi thờng nhng đến cuối năm tài chính vẫn
cha thực hiện chi trả.
b) Các tổn thất đã khiếu nại, thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhng doanh nghiệp bảo
hiểm cha xác định đợc tổng số tiền phải bồi thờng.
c) Các tổn thất đã phát sinh, thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhng cha khiếu nại và
cần đợc doanh nghiệp bảo hiểm ớc tính.
Mặc dù Thông t 72/2001/TT-BTC có đa ra phơng pháp trích lập dự phòng bồi
thờng và cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có thể lựa chọn phơng
pháp trích lập phù hợp, nhng vẫn còn những điểm cha rõ ràng. Nên trong thực tế, vẫn

tồn tại những quan điểm cha thống nhất giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm .
Có thể chia các vấn đề còn tranh cãi trên thành hai quan điểm chủ yếu sau:
-Thứ nhất, mức dự phòng bồi thờng chỉ đợc coi là trích lập hợp lý khi đủ để
thanh toán cho các tổn thất trong các trờng hợp a, b và c.
-Thứ hai, mức dự phòng bồi thờng chỉ cần trích lập đủ để thanh toán cho các
tổn thất trong trờng hợp b và c.
Theo chế độ kế toán trớc đây (ban hành kèm theo Quyết định 1269
TC/QĐ/CĐKT và Thông t 179/1998/TT-BTC) thì các khoản chi phí ngay cả khi mới
phát sinh nh chi bồi thờng, chi hoa hồng, chi giám định... và dự phòng nghiệp vụ đợc
tính vào chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm và đợc theo dõi tổng hợp ở bên nợ tài
khoản TK 624 - Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm gốc. Nhng khi tính kết quả
kinh doanh hay lợi nhuận trớc thuế, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải kết chuyển phần
đã thực chi (đã thanh toán) và dự phòng nghiệp vụ. Phần chi phí trực tiếp kinh doanh
bảo hiểm (không bao gồm dự phòng nghiệp vụ) phát sinh nhng cha thanh toán (bao
gồm cả những khoản bồi thờng còn phải trả, cha thanh toán) sẽ đợc coi là chi phí
kinh doanh bảo hiểm dở dang và đợc kết chuyển sang tài khoản TK 154 Chi phí
kinh doanh dở dang.
Với phơng pháp hạch toán nh trên, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
khi trích lập dự phòng bồi thờng phải đảm bảo mức dự phòng bồi thờng đợc trích lập
đủ lớn để thanh toán cho các tổn thất phát sinh trong tất cả các trờng hợp a, b và c
nghĩa là phải tính cả phần dự phòng để bồi thờng cho các tổn thất phải trả, khi đó
đang đợc theo dõi ở bên có trên tài khoản TK 331 Phải trả ngời bán.
Nếu doanh nghiệp bảo hiểm không tính phần dự phòng bồi thờng này để kết
chuyển khi tính kết quả kinh doanh thì một mặt doanh nghiệp sẽ không đủ khả năng
để thanh toán cho các tổn thất còn phải trả, mặt khác nguyên tắc phù hợp giữa doanh
thu và chi phí sẽ không đợc đảm bảo vì phần chi bồi thờng phát sinh cha thanh toán
đã bị loại bỏ đợc chuyển thành chi phí kinh doanh dở dang. Phần chi bồi thờng phát
sinh cha thanh toán đợc chuyển thành chi phí kinh doanh dở dang này phải đợc thay
thế bởi dự phòng bồi thờng cho các tổn thất trong trờng hợp a. Tuy nhiên, cha hẳn

phần dự phòng bồi thờng này đúng bằng chi bồi thờng cha thanh toán đợc kết chuyển
thành chi phí kinh doanh dở dang vì điều này còn phụ thuộc vào phơng pháp trích lập
dự phòng nghiệp vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng.
Nh vậy, từ năm 2001 trở về trớc, việc trích lập dự phòng bồi thờng theo quan
điểm thứ nhất là đúng, đảm bảo cho doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trích lập dự
phòng bồi thờng hợp lý, kết quả kinh doanh đợc xác định chính xác.
Từ năm 2002, khi các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng chế độ kế toán doanh
nghiệp bảo hiểm sửa đổi theo Nghị định 150/2001/NĐ-CP thì việc trích lập dự phòng
bồi thờng theo quan điểm trên không còn phù hợp nữa nhất là khi hệ thống chuẩn
mực kế toán Việt Nam đợc ban hành.
Theo Nghị định 43/2001/NĐ-CP và Thông t 72/2001/TT-BTC doanh thu và chi
phí của doanh nghiệp bảo hiểm đợc quy định nh sau :
-Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải thu phát sinh trong
kỳ sau khi đã trừ đi các khoản phải chi giảm thu phát sinh trong kỳ.

×