Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.58 KB, 20 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI.
I - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI.
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới.
Trong một vài năm trở lại đây, cùng với sự mở cửa, kinh tế nước ta đã
có được tăng trưởng khá. Sự tăng trưởng đó đã tạo điều kiện cho ngành giao
thông vận tải phát triển, đặc biệt là giao thông đường bộ. Những cây cầu,
những con đường cao tốc, đường nhựa, đường đá,… được xây dựng với số
lượng và chất lượng ngày càng cao trên khắp mọi miền của đất nước. Tính tới
năm 2002 mạng đường bộ Việt Nam dài 221.115 km. Trong đó quốc lộ chiếm
15.824 km ( 7,16%); đường liên tỉnh và tỉnh lộ là 19.916 km ( 9,00%); đường
huyện lộ 37.947 km (17,16%); đường địa phương chung 134.463 km (60,8%);
đường đô thị 5.944 km (2,69%); đường chuyên dùng 7021 km (3.18%). Cùng
với đó, các phương tiện giao thông vận tải đường bộ ngày càng nhiều đa dạng,
phong phú để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển của con người. Các doanh
nghiệp thành lập mới ngày càng nhiều và số lượng ô tô để vận chuyển hàng
hoá cũng tăng theo. Một số gia đình giàu có thì có thể mua xe ô tô gia đình. Một
số gia đình khá giả với số tiền khoảng 50 triệu đồng tích luỹ cộng thêm tiền vay
ngân hàng là có thể kinh doanh vận tải hàng hoá hay hành khách. Còn những
gia đình với thu nhập trung bình cũng chỉ cần 5 – 7 triệu đồng là có thể mua
được xe máy để đáp ứng nhu cầu đi lại. Do đó, số lường xe cơ giới ở nước ta
tăng lên không ngừng và rất nhanh chóng. nhưng bên cạnh đó số vụ tai nạn
giao thông đường bộ và số người chết vì tai nạn cũng tăng nhanh. Như vậy, tai
nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều và số vụ tai nạn tăng theo số lượng xe
cơ tham gia giao thông cùng với số kilômet đường mới được đưa vào sử dụng
là điều chăc chắn. Điều này được thể hiện rõ qua số liệu thống kê trong hai
bảng sau:
Bảng 1: Số lượng xe tham gia giao thông.
Năm Tổng số ô tô Mô tô
1992 1.974.261 270.036 1.704.225
1993 2.720.062 292.899 2.427.163
1994 3.330.000 330.000 3.000.000


1995 3.918.935 340.779 3.578.156
1996 4.595.250 386.976 4.208.274
1997 5.244.978 417.768 4.827.210
1998 5.643.000 443.000 5.200.000
1999 6.051.000 465.000 5.586.000
2000 6.965.562 486.608 6.478.954
2001 8.916.134 557.092 8.359.042
2002 10.880.401 607.401 10.273.000
2003 12.054.000 675.000 11.379.000
(Nguồn:”Cục Đường bộ”)
Qua bảng trên ta thấy từ năm 1992 đến năm 2003 tốc độ tăng lượng xe
cơ giới ở nước ta là rất lớn. Số lượng xe đã tăng hơn 6 lần, trung bình mỗi
năm tăng hơn 900.000 xe các loại. Đặc biệt là trong ba năm 2000, 2001 và
2002, mỗi năm tăng khoảng 2 triệu xe. Trong đó, ôtô mỗi năm tăng khoang
37.000 xe, gấp khoảng 2.5 lần. Còn xe máy tăng gần 7 lần, mỗi năm tăng
khoảng 880.000 xe.
Bảng 2:Tỡnh hỡnh tai nạn giao thụng ở Việt Nam: Từ năm 1992-2003:
Năm Số vụ Số người
chết
Số người bị
thương
T/L số người chết
trên 10.000 xe
1992 8.165 2.755 9.04 13,9
1993 11.678 4.35 12.59 15,9
1994 13.118 4.533 13.056 13,6
1995 15.376 5.43 16.92 13,8
1996 19.075 5.581 21.556 12,1
1997 19.159 5.68 21.905 10,8
1998 19.975 6.067 22.723 10,7

1999 20.733 6.67 23.911 10,9
2000 22.486 7.5 25.4 10,7
2001 25.04 10.477 29.188 11,7
2002 27.134 12.8 30.733 11,8
2003 19.852 11.319 20.4 9,4
(Nguồn:” Cục Đường bộ”)
Qua bảng trên ta thấy, tai nạn giao thông Đường bộ ở Việt Nam
liên tục tăng về số vụ, số người bị chết và số người bị thương. Năm 1995, số vụ
tai nạn xảy ra hơn 15.000, năm 1996 số vụ tăng khá cao, lên đến hơn 19.000,
từ năm 1997 đến năm 2000, tai nạn tiếp tục tăng tới hơn 22.000 vụ làm chết
bỡnh quõn 6.500 người, riêng năm 2001 tuy số vụ tăng không cao nhưng số
người bị chết tăng đột biến (10.866 người). Năm 2003, số người chết về tai
nạn giao thông đường bộ đó bước đầu giảm xuống (-9,4%), số người bị
thương giảm xuống (-35,2%). Số lượng xe máy tham gia giao thông tăng cao
làm tai nạn giao thông đường bộ tăng đột biến. Thể hiện: Số vụ tai nạn do xe
máy gây ra chiếm tỷ lệ cao trong tai nạn giao thông đường bộ:
+ Năm 1993: xe máy tăng 42,42% (tăng 722.938 xe, trước đó mỗi năm
chỉ tăng dưới 200.000 xe), số người chết vỡ TNGT tăng 29,9%.
+ Năm 2000: xe máy tăng 11,6% và số người bị chết bắt đầu tăng cao:
12,44%
+ Năm 2001: xe máy tăng 29,61% (1.880.088 xe), số người bị chết vỡ tai
nạn giao thụng đường bộ tăng đột biến: 39.69%.
Tai nạn giao thông xảy ra là do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả
những nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan. Nhưng dù
cho nguyên nhân nào thì một điều chắc chắn là khi tai nạn xảy ra thì cả người
bị nạn, người chủ xe, người thân của họ hay doanh nghiệp đều phải chịu
những tổn thất nhất định. Những tổn thất đó đôi khi rất nhỏ nhưng có những
lúc nó để lại hậu quả rất nặng nề, có thể là khiến cho một gia đình bị lâm vào
tình trạng khó khăn hay thậm chí khiến cho một doanh nghiệp bị lâm vào tình
trạng phá sản. Vì thế tham gia bảo hiểm xe cơ giới là hết sức cần thiết. Để khi

tai nạn xảy ra gây thiệt hại lớn về tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi
thường cho những thiệt hại đó, đảm bảo cho cuộc sống gia đình hay hoạt động
sản xuất kinh doanh của chủ xe.
2.Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới.
Bảo hiểm xe cơ giới đã đem lại những tác dụng to lớn cho mỗi cá nhân,
mỗi tổ chức kinh tế-xã hội.
2.1.Đối với cá nhân và doanh nghiệp.
Chủ phương tiện giao thông vận tải khi tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho
nhà bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, các khoản phí này sẽ hình
thành quỹ tiền tệ tập trung. Các công ty bảo hiểm sử dụng quỹ này để chi trả
cho hoạt động quản lý kinh doanh và phần lớn là chi bồi thường cho người
được bảo hiểm khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, khi
có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm chủ phương tiện giao thông vận
tải sẽ được bồi thường. Do vậy bảo hiểm xe cơ giới ra đời góp phần ổn định tái
chính, khắc phục những hậu quả khó khăn về vật chất cũng như tinh thần cho
người bị nạn, giúp họ nhanh chóng khôi phục sau rủi ro tai nạn.
2.2.Đối với xã hội.
Bảo hiểm xe cơ giới giúp cho người tham gia nhanh chóng khắc phục
nhưng khó khăn về tài chính, giải quyết nhưng tranh chấp phát sinh giữa
người bị thiệt hại và người có trách nhiệm tring thiệt hại đó.. Qua đó góp phần
đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn tham gia
vào các hoạt động xã hội giúp nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành luật
giao thông, xây dựng những công trình đảm bảo an toàn giao thông, xây dựng,
mua sắm trang thiết bị an toàn như rải nhựa, làm lan can hai bên đường, xây
dựng đường tránh nạn trên các đèo dốc, tăng thêm các biển báo nguy hiểm …
các biện pháp này cả chủ xe và nhà bảo hiểm đều có lợi.
2.3.Đối với Nhà nước.
Thông qua thuế, các công ty bảo hiểm còn góp phần tăng doanh thu cho
ngân sách Nhà nước. Ngoài ra bảo hiểm là kênh huy động vốn quan trọng đối
với nền kinh tế và góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần

giảm gánh nặng về việc làm.
II - NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT
CHẤT XE CƠ GIỚI.
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm.
1.1. Đối tượng bảo hiểm.
Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên
đường bộ và chỉ có thể chuyển động bằng động cơ của chính mình. Các loại xe
cơ giới bao gồm ôtô, môtô và xe máy. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình
bảo hiểm tài sản và được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Qua
đó, chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe sẽ được bồi thường cho những thiệt
hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên.
Nhưng xe cơ giới chỉ được bảo hiểm khi có đủ những điều kiện cơ bản như: xe
phải có giá trị sử dụng; xe phải xác định được về mặt giá trị hay lượng hoá
được bằng tiền; xe phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về mặt kỹ thuật và an toàn
giao thông theo quy định của pháp luật; xe phải là một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Như vậy, đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe
còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Trên thực tế, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe, thường là
với môtô, xe máy hoặc chỉ tham gia bảo hiểm cho một số bộ phận của xe,
thường là với xe ôtô. Bộ phận xe hay tổng thành xe, đối với ôtô có các tổng
thành như: thân vỏ, động cơ, hộp số, hệ thống lái,…
1.2. Phạm vi bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo thoả thuận
nếu những rủi ro đó xảy ra thì nhà bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
cho chủ phương tiện. Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm vật
chất xe cơ giới cũng chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên, bất ngờ
gây thiệt hại phần vật chất thân xe. Thông thường, những rủi ro được bảo
hiểm bao gồm:
+ Tai nạn do đâm va, lật đổ;
+ Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá;

+ Mất cắp toàn bộ xe;
+ Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Tuy nhiên, bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong những trường hợp sau:
+ Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết
tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa;
+ Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà không do
tai nạn gây ra;
+ Mất cắp bộ phận xe;
+ Chủ xe, lái xe cố ý gây thiệt hại;
+ Chủ xe lái xe vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông(xe
không có giấy phép, lái xe không có bằng lái,…);
+ Xe không đủ điều kiện kĩ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy
định của luật an toàn giao thông đường bộ;
+ Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, làm đình trệ
sản xuất kinh doanh;
+ Thiệt hại do chiến tranh.
Ngoài ra, cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm còn chịu
trách nhiệm đối với những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm đề phòng và hạn
chế tổn thất xảy ra thêm, các chi phí phát sinh khi đưa xe về nơi sửa chữa, chi
phí giám định nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm đã được quy định trước
trong hợp đồng.
Trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe
mới thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới, nếu chủ xe cũ
không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chũ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn
lại phí cho họ.
2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe
tại thời điểm chủ xe tham gia bảo hiểm cho xe. Việc xác định đúng giá trị của xe
tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Giá trị xe

thường được xác định dựa vào nhữn yếu tố như: loại xe, năm sản xuất, mức độ
sử dụng xe, …
Tuy nhiên, trên thực tế, để đơn giản trong việc xác định giá trị bảo hiểm
của xe, các công ty bảo hiểm thường tính trên cơ sở giá mua mới (nguyên giá)
và khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng.
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu(nguyên giá) - Khấu hao
Khi tính khấu hao phải theo những nguyên tắc sau:
+ Chỉ sử dụng nguyên tắc khấu hao đều;
+ Khấu hao tính so với nguyên giá;
+ Khấu hao tính theo tháng, nếu tham gia bảo hiểm từ ngày 15 trở về
đầu tháng, tháng đó không tính khấu hao, còn từ ngày 16 đến cuối tháng thì
tháng đó phải tính khấu hao.
Giá trị bảo hiểm là cơ sở để người tham gia bảo hiểm xác định số tiền
bảo hiểm. Vì đây là loại hình bảo hiểm tài sản nên về nguyên tắc, chủ xe có thể
tham gia với số tiền bảo hiểm lớn nhất bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, chủ xe
cơ giới có thể tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm theo điềm
khoản giá trị thay thế mới nếu được công ty bảo hiểm chấp nhận. Nhưng các
chủ xe thường tham gia bảo hiểm dưới giá trị dưới hình thức bảo hiểm cho
một số tổng thành của xe mà không bảo hiểm cho toàn bộ xe.
3. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là nhân tố đầu tiên quyết định sự lựa chọn của khách hàng.
Vì vậy việc xác định chính xác phí bảo hiểm sẽ bảo đảm cho hoạt động của
Công ty đồng thời làm tăng tính cạnh tranh cho Công ty trên thị trường bảo
hiểm. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể,
các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau:
- Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, xác suất
rủi ro cũng khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất cũng sẽ được tính riêng cho
từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra các biểu xác định phí
bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân các
loại xe thành nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ

gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ
tùng khi thay thế.Đối với những loại xe hoạt động không thông dụng như xe
kéo rơ moóc, xe chở hàng nặng, do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm
thường được công thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản.
Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe, mỗi loại xe được tính theo công
thức sau:

×