Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THẺ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.09 KB, 35 trang )

THẺ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ NGÂN HÀNG
1.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển thẻ
Lịch sử hình thành phương thức thanh toán bằng thẻ nói chung được ghi
nhận vào năm 1914. Khi đó một công ty của Mỹ là Western Union đã cung cấp
một dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, công ty phát hành một
tấm thẻ bằng kim loại với một số thông tin được in nổi lên trên để đảm bảo hai
chức năng cơ bản: nhận dạng khách hàng, lưu giữ các thông tin được in nổi trên
tấm kim loại.
Đến năm 1958, công ty American Express đã phát hành các thẻ nhựa, trong
đó tập trung vào các lĩnh vực giải trí và du lịch, một lĩnh vực có tốc độ phát
triển nhanh chóng tại Mỹ và Châu Âu trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới.
Năm 1966, Bank of America chính thức trao quyền phát hành thẻ
BankAmericard của mình cho các ngân hàng thông qua việc ký các hợp đồng
đại lý, chính thức bắt đầu giai đoạn tăng tốc trong phát triển. Thẻ tín dụng lúc
này không chỉ mặc định dành cho những người giàu có và nổi tiếng mà dần trở
thành một phương tiện thanh toán thông dụng. Thương hiệu BankAmericard với
một loạt sản phẩm có màu xanh, trắng, vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen
thuộc với người tiêu dùng. Tới năm 1977, thẻ của Bank of America thật sự được
chấp nhận trên toàn cầu và thay vì tên BankAmericard, tên thẻ VISA ra đời với
màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và vàng.
Cũng vào năm 1966, ba nhóm ngân hàng lớn nhất phía đông nước Mỹ
quyết định hợp tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng có tên là
Interbank Card Association (ICA). Sau này tên ICA được chuyển đổi thành
MasterCard. Sau đó ICA liên kết với một số ngân hàng ở ngoài nước. Năm
1979, ICA trở thành tổ chức thẻ quốc tế lớn khác với thẻ Master Card.
Thẻ ngày nay được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên kết
với nhau để khai thác lĩnh vực thu hút nhiều lợi nhuận này. Thẻ dần dần được
xem như một phương tiện văn minh, thuận lợi trong các giao dịch mua bán. Bên
cạnh các loại thẻ Master Card, Visa, thẻ Amex ra đời năm 1958, JCB xuất phát


từ Nhật Bản cũng vươn lên mạnh mẽ và được sử dụng trên toàn cầu.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và văn minh nhân loại, thẻ
ngân hàng ngày càng thu hút sự chú ý và nghiên cứ úng dụng của nhiều nước,
kể cả những nước đang phát triển.
1.1.2. Khái niệm và phân loại thẻ
Thẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát
hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các
điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng, rút
tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hay các ngân hàng đại lý trong phạm vi số
dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ còn được dùng để
thực hiện nhiều dịch vụ khác thông qua hệ thống giao dịch tự động ATM như
chuyển khoản, tra vấn thông tin tài khoản, thông tin các khoản chi phí sinh
hoạt…
Thẻ là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến và hiện
đại. Thẻ ra đời không những đạt được hai mục tiêu là tiện lợi và an toàn cho
việc thanh toán mà còn thể hiện được tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện
đại hoá và toàn cầu hoá.
Thẻ được phân chia thành các loại sau:
a.Phân loại theo công nghệ sản xuất:
- Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi,
tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta không
còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo.
- Thẻ băng từ (Magnetic stripe): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ
chứa thông tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong 20
năm qua , nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ không
tự mã hoá được, thẻ chỉ mang thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít,
không áp dụng được kỹ thuật mã hoá, bảo mật thông tin...
- Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán,
thẻ có cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính.
b. Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ:

- Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo
đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để
mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, khách sạn, sân bay ...
chấp nhận loại thẻ này.
Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng
mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ
đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed
debit card) hay chậm trả.
- Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền
với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi đợc sử dụng để mua hàng hoá hay dịch
vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ
thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn ... đồng thời
chuyển ngân ngay lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn... Thẻ ghi nợ
còn hay được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện hữu
trên tài khoản của chủ thẻ.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
- Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập
tức vào tài khoản chủ thẻ.
- Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch đợc khấu trừ vào tài
khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
- Thẻ rút tiền mặt (Cash card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự
động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu
đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào tài khoản ngân
hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được.
Thẻ rút tiền mặt có hai loại:
Loại 1: chỉ rút tiền tại những máy tự động của Ngân hàng phát hành.
Loại 2: được sử dụng để rút tiền không chỉ ở Ngân hàng phát hành mà còn
được sử dụng để rút tiền ở các Ngân hàng cùng tham gia tổ chức thanh toán với
Ngân hàng phát hành thẻ.

c. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
- Thẻ trong nước: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do vậy
đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó.
- Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng
các ngoại tệ mạnh để thanh toán.
d. Phân loại theo chủ thể phát hành:
- Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng phát
hành giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng.
- Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí của
các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu lớn...
phát hành như Diner's Club, Amex...
1.1.3.Các chủ thể tham gia thị trường thẻ
1.1.3.1. Ngân hàng phát hành
Ngân hàng phát hành là ngân hàng cung cấp thẻ cho khách hàng. Ngân
hàng phát hành chịu trách nhiệm nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và phát hành thẻ,
mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng thời thực hiện việc thanh toán cuối cùng với
chủ thẻ.
Ngân hàng phát hành thẻ quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ
cho các chủ thẻ. Ngân hàng phát hành có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên
thứ ba, là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc
thanh toán hoặc phát hành thẻ.
1.1.3.2. Ngân hàng đại lý hay ngân hàng chấp nhận thanh toán
Ngân hàng đại lý là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng chấp nhận thẻ với các
điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ trên địa bàn. Mỗi ngân hàng có thể vừa đóng
vai trò thanh toán thẻ vừa đóng và trò phát hành.
Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với các đơn vị cung ứng hàng hoá,
dịch vụ, ngân hàng thanh toán thẻ cam kết: Chấp nhận các đơn vị này vào hệ
thống thanh toán thẻ của ngân hàng, cung cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho
các đơn vị này kèm theo những hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo
nhân viên cách thức vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong

suốt thời gian hoạt động, quản lý và xử lý những giao dịch có thể sử dụng thẻ tại
những đơn vị này.
Thông thường ngân hàng thanh toán thu từ các đơn vị cung ứng hàng hoá
dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ một mức phí chiết khấu cho việc xử
lý các giao dịch có thể sử dụng thẻ tại đây.
1.1.3.3. Tổ chức thẻ quốc tế
Tổ chức thẻ quốc tế là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng lớn tham gia
phát hành và thanh toán thẻ quốc tế. Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu,
quản lý mọi hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, có mạng lưới rộng khắp và
có các thương hiệu nổi tiếng khắp thế giới với các sản phẩm thẻ đa dạng, ví dụ
tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ Master, công ty thẻ American Express, công ty thẻ
JCB, công ty thẻ Dinners Club…
Tổ chức thẻ quốc tế đóng vai trò trung gian giữa các tổ chức và các công ty
thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối các lượng tiền thanh toán giữa các
công ty thành viên, cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho
quy trình thanh toán, cấp phép cho ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng.
1.1.3.4. Chủ thẻ
Là người có tên ghi trên thẻ được dùng thẻ để chi trả thanh toán tiền mua
hàng hoá, dịch vụ. Chỉ có chủ thẻ mới có thể sử dụng thẻ của mình . Mỗi khi
thanh toán cho các cơ sở chấp nhận thẻ vể hàng hoá dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ
phải xuất trình thẻ để nơi đây kiểm tra theo qui trình và lập biên lai thanh toán.
Chủ thẻ chính: Là người có tên trên thẻ, đã đứng ra xin được ngân hàng
cấp phát thẻ để sử dụng.
Chủ thẻ phụ: Là người được chủ thẻ chính đề nghị ngân hàng cấp thẻ để
dùng chung một tài khoản với chủ thẻ chính.
Chủ thẻ chính có trách nhiệm khai báo thông tin đầy đủ, chính xác với
ngân hàng phát hành khi đăng ký làm thẻ. Chủ thẻ chính cũng chịu trách nhiệm
thanh toán mọi giao dịch của cả chủ thẻ chính và phụ. Các giao dịch của chủ thẻ
chính và chủ thẻ phụ có cùng bản sao kê và được gửi về ngân hàng thanh toán
sau mỗi giao dịch. Dù dùng thẻ chính hay thẻ phụ, khách hàng cũng chỉ được

phép tiêu trong hạn mức tín dụng được ngân hàng đồng ý.
1.1.3.5. Đơn vị chấp nhận thẻ
Đơn vị chấp nhận thẻ là các thành phần kinh doanh hàng hoá và dịch vụ
có ký kết với ngân hàng thanh toán về việc chấp nhận thẻ như: nhà hàng, khách
sạn, cửa hàng…Các đơn vị này phải trang bị máy móc kỹ thuật để tiếp nhận thẻ
thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ, trả thay cho tiền mặt. Để trở thành
ĐVCNT đối với thẻ của ngân hàng nào đó, đơn vị này phải có tình hình tài
chính tốt và có năng lực kinh doanh.
1.1.4.Tiện ích của dịch vụ thẻ và rủi ro thường gặp trong thanh toán thẻ
1.1.4.1 Những tiện ích của dịch vụ thẻ
a. Đối với Ngân hàng
 Mang lại lợi nhuận và hiệu quả cao trong thanh toán
Thông qua hoạt động kinh doanh thẻ, các Ngân hàng sẽ thu được khoản lợi
nhuận từ các loại phí như phí sử dụng thẻ, phí thường niên hay phí từ thu từ
dịch vụ Ngân hàng và đầu tư kèm theo… Khoản lợi nhuận này hầu như rất chắc
chắn bởi mỗi khách hàng khi muốn sử dụng thẻ đều phải kí quỹ hoặc nộp vào
tài khoản thẻ một lượng tiền mà chủ thẻ không được sử dụng vượt quá số tiền
đó. Trong khi đó, lượng giao dịch bằng thẻ hàng ngày có thể lên tới hàng trăm
hàng nghìn thẻ, vì vậy khoản lợi nhuận thu được từ họat động kinh doanh thẻ
hoàn toàn không nhỏ.
Hơn nữa, ngân hàng có thể sử dụng số tiền tạm thời nhàn rỗi trong tài
khoản thẻ của khách hàng để đầu tư hoặc cho vay nhằm mục đích sinh lãi mà
vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho khách hàng.
Tỷ lệ lợi nhuận tương đối cao từ hoạt động kinh doanh thẻ có thể bù đắp
cho những hoạt động kém sinh lãi hơn của Ngân hàng như kinh doanh trên tài
khoản vãng lai vì lãi suất thường thấp hơn.
 Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Ngân hàng
Thẻ thanh toán ra đời góp phần làm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ
Ngân hàng, mang đến cho Ngân hàng một phương tiện thanh toán đa tiện ích và
tạo cơ hội cho Ngân hàng phát triển các dịch vụ song song như đầu tư, bảo

hiểm,… nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Chính điều này đã
giúp cho Ngân hàng vừa thu hút được những khách hàng tiềm năng vừa giữ
được những khách hàng truyền thống.
 Hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng, tăng cường các mối quan hệ trong
hoạt động kinh doanh Ngân hàng
Để có thể áp dụng nghiệp vụ thanh toán thẻ, đòi hỏi mỗi Ngân hàng phải
không ngừng nâng cao trình độ, trang bị thêm các loại hình máy móc thiết bị kỹ
thuật mang tính công nghệ cao,…nhằm cung cấp cho khách hàng những điều
kiện tốt nhất trong thanh toán, đảm bảo uy tín, an toàn và tăng khả năng cạnh
tranh.
Với việc tham gia vào các tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay Master Card
hay trở thành thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế,… Ngân hàng có mối quan
hệ làm ăn với nhiều Ngân hàng và nhiều tổ chức tài chính trong và ngoài nước.
Nhờ các mối quan hệ này, một Ngân hàng dù lớn hay nhỏ nhất thế giới cũng có
thể cho khách hàng một phương tiện thanh toán quốc tế có chất lượng như bất kì
đối thủ cạnh tranh nào. Điều này tạo điều kiện cho Ngân hàng tăng cường hoạt
động kinh doanh, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập với cộng đồng
quốc tế.
 Tăng nguồn vốn cho Ngân hàng
Nhờ thẻ thanh toán, số lượng tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng nhằm
mục đích thanh toán thẻ và số lượng tài khoản của các ĐVCNT ngày càng tăng
lên. Các tài khoản này tạo cho Ngân hàng một lượng vốn nhàn rỗi đáng kể, có
thể coi là một nguồn sinh lợi lớn cho Ngân hàng.
b.Đối với chủ thẻ
 Nhanh chóng, thuận tiện
Với việc sử dụng thẻ thanh toán, người sử dụng có thể cảm nhận được sự
tiện lợi của nó hơn hẳn các phương tiện thanh toán khác.
Trước hết, thẻ có kích thước nhỏ gọn, do đó người sử dụng thẻ có thể dễ
dàng mang theo khi đi du lịch hay công tác xa. Với việc sử dụng thẻ, khách
hàng tránh được tình trạng phải mang theo khối lượng lớn tiền mặt, cồng kềnh

và bất tiện. Khi thực hiện mua bán hàng hóa dịch vụ, chủ thẻ chỉ cần xuất trình
thẻ và kí vào hóa đơn là có thể thực hiện xong một giao dịch. Đặc biệt, với một
số quốc gia trên thế giới không chấp nhận cho mang quá nhiều tiền mặt qua
biên giới thì việc sử dụng thẻ trong thanh toán càng trở nên hữu ích vì mạng
lưới thanh toán thẻ trên thế giới là rất rộng. Điều này có nghĩa là khi ra nước
ngoài, thay vì việc phải chuẩn bị trước một lượng ngoại tệ hay séc du lịch, chủ
thẻ chỉ cần mang theo thẻ thanh toán để thanh toán cho mọi nhu cầu chi tiêu của
mình.
Ngoài ra khách hàng còn có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt một cách
nhanh chóng và thuận tiện tại các máy rút tiền tự động 24h/24h mà không cần
thiết phải đến Ngân hàng thực hiện giao dịch như một số phương tiện thanh toán
khác.
 An toàn và hiệu quả trong sử dụng
Thẻ thanh toán được chế tạo bằng công nghệ hiện đại, hết sức tinh vi và
khó làm giả. Thẻ được bảo vệ bằng số PIN và những thông tin được mã hóa
đằng sau chiếc thẻ, tránh được nguy cơ bị người khác lạm dụng hay mất tiền
trong tài khoản. Khi bị lộ số PIN hay mất thẻ, chủ thẻ có thể báo ngay cho Ngân
hàng để phong tỏa tài khoản thẻ.
Đối với các gia đình có con em đi du học nước ngoài thì thẻ thực sự mang
lại hiệu quả trong sử dụng. Với việc sử dụng thẻ thanh toán, các gia đình có thể
chu cấp tiền sinh hoạt phí một cách nhanh chóng thuận tiện, không mất thời
gian như các hình thức chuyển ngân khác.
 Tiết kiệm và kiểm soát được chi tiêu
Khi sử dụng thẻ, chủ thẻ sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí vận chuyển,
kiểm đếm tiền. Khi có nhu cầu sử dụng tiền, khách hàng có thể tới rút tiền mặt
tại các máy rút tiền tự động vào mọi thời điểm trong ngày mà không cần đến
Ngân hàng hay căn cứ vào giờ làm việc.
Hơn nữa, với bản sao kê hàng tháng do Ngân hàng gửi đến hoặc căn cứ
vào hóa đơn rút tiền hay thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ, chủ thẻ có thể hoàn
toàn kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời tính toán được phí

và lãi phải trả cho mỗi khoản giao dịch.
c. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ
 Tăng doanh số bán hàng hóa dịch vụ và thu hút khách hàng
Khi đời sống của người dân ngày càng được nâng cao thì nhu cầu cho đời
sống ngày càng tăng. Cùng với quá trình hội nhập, đầu tư nước ngoài, duc lịch
quốc tế cũng ngày càng tăng. Với phương châm “khách hàng là thượng đế”, các
điểm bán hàng phải đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, có như vậy mới
mong có khả năng thu hút và giữ chân được khách hàng. Chấp nhận thanh toán
thẻ là một hoạt động trong chiến lược đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng, đặc biệt là khách du lịch
hay nhà đầu tư nước ngoài một phương tiện thanh toán đơn giản, tiện lợi. Do
đó, khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên dẫn tới khối lượng hàng hóa dịch
vụ cung ứng cũng tăng lên. Thanh toán thẻ tạo cho các ĐVCNT khả năng cạnh
tranh lớn hơn các đối thủ khác do môi trường văn minh, hiện đại trong mua bán
giao dịch khi chấp nhận thanh toán thẻ.
 An toàn, đảm bảo và giảm chi phí bán hàng
Trong giao dịch được thanh toán bằng thẻ, số tiền trong giao dịch được trả
ngay vào tài khoản của ĐVCNT. Hơn nữa thẻ có tính bảo mật rất cao nên cho
dù chưa được thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng có ít nguy cơ bị mất cắp
hơn so với sử dụng séc hay tiền mặt. Cùng một lượng tiền trong giao dịch, nếu
là tiền mặt hay séc, luôn là mục tiêu của các đối tượng trộm cắp hay những nhân
viên không trung thực; nhưng nếu là trong hóa đơn thẻ thì nó hoàn toàn an toàn
vì nó chỉ có ý nghĩa duy nhất với ĐVCNT. Chính vì vậy, sử dụng thẻ trong
thanh toán là rất hữu ích vì tính an toàn của nó.
Cùng với việc chấp nhận thanh toán thẻ, các ĐVCNT sẽ giảm được một
lượng đáng kể các chi phí cho việc kiểm kê, vận chuyển và bảo quản tiền,…do
vậy giảm được chi phí bán hàng.
 Thu hồi và quay vòng vốn nhanh chóng
Việc chấp nhận thanh toán thẻ giúp các cơ sở đa dạng hóa các phương thức
thanh toán, giảm tình trạng trả chậm của khách hàng. Khi dữ liệu về giao dịch

thẻ được truyền qua hệ thống máy móc tới NHTTT thì tài khoản của ĐVCNT
lập tức được ghi có. ĐVCNT có thể sử dụng ngay số tiền này nhằm mục đích
quay vòng vốn hoặc mục đích khác.
 Hưởng ưu đãi từ phía Ngân hàng phát hành và Ngân hàng thanh toán thẻ
Khi chấp nhận thanh toán thẻ, các ĐVCNT sẽ nhận được rất nhiều ưu đãi
từ chính sách khách hàng của Ngân hàng. Các cơ sở sẽ được Ngân hàng cung
cấp máy móc thiết bị cho việc thanh toán thẻ mà không cần bỏ vốn đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các cơ sở kinh doanh đều hoạt động
với phần lớn lượng vốn vay từ Ngân hàng. Việc thiết lập mối quan hệ trực tiếp
với Ngân hàng giúp các ĐVCNT được hưởng các khoản ưu đãi tín dụng từ phía
Ngân hàng.
1.1.4.2. Những rủi ro thường gặp trong thanh toán thẻ
 Thẻ giả
Thẻ giả là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay mà tất cả các tổ
chức thẻ phải quan tâm. Với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại, các tổ chức
tội phạm ăn cắp thông tin trên thẻ bằng cách sử dụng máy móc chuyên dụng để
mã hóa thông tin khách hàng rồi in băng từ lên thẻ mới. Đây là loại rủi ro vừa
nguy hiểm vừa khó quản lý vì nguồn thông tin nằm ngoài khả năng kiểm soát
của Ngân hàng. Trường hợp này đặt ra cho Ngân hàng phát hành phải có những
biện pháp bảo mật thông tin trên thẻ cũng như các ràng buộc kiểm tra.
 Thẻ bị mất cắp hay thất lạc
Trong trường hợp chủ thẻ bị mất cắp hay làm thất lạc thẻ mà không kịp
thông báo ngay cho NHPHT để có những biện pháp hạn chế sử dụng hoặc thu
hồi thẻ mà thẻ đó bị sử dụng, rủi ro xảy ra thì chủ thẻ phải chịu hoàn toàn.
 Lộ số PIN
Mã số bí mật cá nhân (PIN) được giao cho chủ thẻ, và chỉ chủ thẻ được
phép biết cũng như thay đổi để đảm bảo yếu tố cá nhân và bí mật. PIN được sử
dụng khi thực hiện các giao dịch tự động với các thiết bị tự động như ATM,…
Giao dịch rút tiền mặt qua ATM thực hiện hoàn toàn dựa trên số PIN mà không
cần quan tâm chủ thẻ là ai. Do đó, khi chủ thẻ vô tình làm lộ số PIN và làm mất

thẻ, người lấy được thẻ biết được số PIN, họ có thể thực hiện việc rút tiền qua
ATM. Trong trường hợp này, chủ thẻ phải chịu toàn bộ rủi ro về số tiền bị mất.
 Rủi ro do sử dụng vượt hạn mức
Khi chủ thẻ cố tình thực hiện các giao dịch dưới mức phải xin cấp phép
giao dịch và kết quả là dẫn tới tổng số dư sử dụng lớn hơn rất nhiều so với hạn
mức được cấp Khi Ngân hàng phát hiện ra thì khả năng thanh toán quá hạn mức
của thẻ đã ở mức cao, khó kiểm soát và Ngân hàng phải chịu toàn bộ tổn thất do
chủ thẻ mất khả năng thanh toán.

×