Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TIÊU THỤ VÀ DOANH THU TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.32 KB, 34 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TIÊU THỤ VÀ DOANH THU TIÊU THỤ
SẢN PHẨM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề chung về tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.
1.1.1. Doanh nghiệp và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị
trường.
* Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện ổn định các hoạt động sản xuất kinh doanh (theo điều 3
Luật doanh nghiệp năm 1999).
Như vậy trước hết doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh độc lập, hoạt
động một cách tự chủ nhưng được đặt dưới sự quản lý chung của Nhà nước.
Điều kiện để ra đời một doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất, là điều kiện
đầu tiên để Nhà nước cho phép thành lập một doanh nghiệp. Để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có một lượng tài sản nhất
định, biểu hiện bằng một lượng vốn ban đầu khi thành lập và được ghi trong
điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, lượng vốn này được quy định không thấp
hơn mức vốn pháp định. Tuy nhiên đối với từng doanh nghiệp, từng ngành
nghề kinh doanh khi đăng ký tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh thì mức
vốn pháp định được quy định là hoàn toàn khác nhau. Trong quá trình hoạt
động doanh nghiệp có thể tăng số vốn này thông qua việc huy động dưới các
hình thức như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên doanh… hoặc
dùng một phần lợi nhuận để lại để bổ sung nguồn vốn, mở rộng quy mô sản
xuất. Trong thời kỳ bao cấp, nguồn vốn của doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở
hữu của Nhà nước, Nhà nước cấp vốn và điều hành mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đặt
ra. Nhưng ngày nay khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Các doanh nghiệp được đăng ký thành lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác
nhau với những ngành nghề kinh doanh ngày càng trở lên phong phú và đa
dạng.
* Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường.


Để thấy được mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường trước hết là
đi vào khái niệm của thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá
giữa con người với con người, giữa con người với chủ thể kinh tế và giữa các
chủ thể kinh tế với nhau.
Qua khái niệm thị trường ta thấy thị trường bao gồm toàn bộ phạm vi cả
về không gian và thời gian, nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi
hàng hoá. Và ở đây giá trị và giá trị sử dụng được biểu hiện và được người
tiêu dùng chấp nhận. Trong nền kinh tế bao cấp của nước ta trước đây, khái
niệm thị trường hầu như không tồn tại, bởi mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đều do Nhà nước trực tiếp quản lý theo một hệ thống
chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đặt ra. Nhà nước bao cấp toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ khâu thu mua các yếu tố nguyên liệu,
nguyên liệu đầu vào cho đến khâu tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Đối với các
doanh nghiệp sản xuất và cơ cấu nhiên liệu, vật liệu cho nhau thì sản phẩm kết
quả đầu ra của doanh nghiệp này là chỉ tiêu kế hoạch đói với các doanh nghiệp
khác còn đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hàng tiêu dùng thì sản
phẩm của họ không phải do họ tự quyết định và đưa ra tiêu thụ, mà do Nhà
nước đưa ra phân phối theo chỉ tiêu kế hoạch đã được định trước điều này đã
làm cho các doanh nghiệp không phát huy được khả năng của mình mà còn
tạo cho doanh nghiệp tính trông chờ, ỷ lại, kém năng động.
Nhưng ngày nay sau khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nền kinh tế nước ta
đang từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mà bước khởi đầu của
nó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước thì thị trường bắt đầu được hình thành phát triển
và ngày càng mở rộng không những thế trong phạm vi của một quốc gia mà
còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế. Cũng từ đây mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với thị trường được hình thành và ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Nói
đến thị trường là nói đến hàng hoá và sự trao đổi hàng hoá của doanh nghiệp
là người chuyển chủ yếu hàng hoá để cho thị trường có thể hoạt động một

cách liên tục và ổn định phát triển. Thị trường cũng có tác động trở lại đối với
doanh nghiệp. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì
thị trường không những là nơi chuyển các yếu tố đầu vào cho quá trình sản
xuất hoạt động mà nó còn là nơi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đầu ra của
doanh nghiệp.
Sự vận động của thị trường được tuân theo một hệ thống các quy luật
kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu và quy luật
lợi nhuận… Trong đó quy luật cạnh tranh là chủ yếu và quan trọng nhất. Điều
này buộc các doanh nghiệp phải tuân theo và vận động một cách phù hợp với
sự vận động của thị trường, khả năng tồn tại và phát triển. Sản phẩm hàng
hoá của doanh nghiệp muốn được tiêu thụ muốn được thị trường chấp nhận,
thì trước tiên là phải chiến thắng trong cạnh tranh, mà ý đồ để chiến thắng
được các nhà kinh tế ngày nay quan tâm hàng đầu đó là ý đồ về giá cả và chất
lượng sản phẩm hàng hoá. Điều này buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên
động não tích cực, nhạy bén, năng động nhằm nắm bắt các nhu cầu của thị
trường, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, công nghệ và phương pháp tổ
chức quản lý…để giảm bớt những chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành
sản phẩm đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá của mình. Đồng
thời thông qua thị trường các doanh nghiệp mới có thể khẳng định được vị trí
của mình và đưa ra được, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp trong tương
lai.
Nói tóm lại thông qua các quy luật vận động cảu thị trường nó tác động
trực tiếp hay gián tiếp đến sự hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và từ
đó tác động trực tiếp hay gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế, thúc đẩy cho nền
kinh tế nước ta ngày càng phát triển và đi vào ổn định theo xu hướng chung
của nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.1.2. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Trong một nền kinh tế thị trường các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày
càng được mở rộng và phát triển cùng với việc đa dạng hoá các thành phần
kinh tế nền sản xuất ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất thuộc

các thành phần kinh tế khác nhau, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệ, các
thành phần kinh tế ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Do vậy vấn đề
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá đang là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh
nghiệp, nó không những cho thấy được vị trí của doanh nghiệp trên thị trường
mà còn có ý đồ quyết định đến sự thành bại của mỗi doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất nói chung khi tiến hành sản xuất kinh doanh
thông thường phải trải qua các giai đoạn thể hiện qua sơ đồ sau :
TLSX (TLLĐ - ĐTLĐ)
T - H
SLĐ …………………sản xuất …H’ - T’
Giai đoạn 1 : Tiền - hàng : Đây là giai đoạn đầu của quá trình sản xuất,
doanh nghiệp bỏ tiền ra mua tư liệu sản xuất, TLLĐ + ĐTLĐ) như vật liệu,
nhiên liệu… các chi phí về nhân công và các chi phí khác để chuẩn bị cho quá
trình sản xuất.
- Giai đoạn 2. : Hàng - sản xuất - Hàng : Ở giai đoạn này, sau khi đã chuẩn
bị đầy đủ các yếu tố đầu vào doanh nghiệp bắt đầu tiến hành quá trình sản
xuất và trải qua một quy trình công nghệ nhất định sẽ tạo ra sản phẩm theo
yêu cầu của doanh nghiệp.
- Giai đoạn 3 : Hàng - Tiền : Đây là khâu cuối cùng của chủ kinh tế sản
xuất. Sau khi kết thúc giai đoạn sản xuất doanh nghiệp tiến hành việc tiêu thụ
các sản phẩm và thu hồi toàn bộ số vốn bỏ ra ở các giai đoạn 1 và 2 để tiếp tục
thực hiện việc tái sản xuất kinh doanh ở chu kỳ tiếp theo.
Đây là toàn bộ quá trình sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất nói
chung. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp thương mại thì chu kỳ kinh doanh của
nó thường ngắn hơn thể hiện qua sơ đồ sau :
T - H - T’
Giai đoạn 1 : Doanh nghiệp thương mại bỏ tiền ra để mua sản phẩm hàng
hoá của những người cung cấp.
Giai đoạn 2 : H -T’ đây là giai đoạn mà các doanh nghiệp tiêu thụ hàng
hoá của mình và thu tiền về. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp thường

tiến hành một số công việc nhằm hoàn chỉnh nốt một số công đoạn như bảo
quản, đóng gói, chế biến sau đó đưa hàng hoá ra tiêu thụ.
Trong nhiều trường hợp cả 2 giai đoạn mua hàng và bán hàng ra một
cách đồng thời nghĩa là doanh nghiệp có thể mua hàng hoá của các nhà cung
cấp sau do giao bán trực tiếp cho người mua. Lúc này các doanh nghiệp
thương mại chỉ đóng vai trò như là người môi giới hay vận chuyển thuê cho
người bán và người mua.
Nhưng nói tóm lại cho dù đối với doanh nghiệp sản xuất nói riêng thì tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh.
Để thấy rõ được vấn đề ta xem xét khái niệm về tiêu thụ.
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm
hàng hoá cho đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán cho
đơn vị bán về số sản phẩm đó theo mức giá thoả thuận.
Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là quá trình
chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thức vật chất sang hình thái tiền
tệ. Kết thúc một chu kỳ sản xuất, đồng vốn quay trở về hình thái ban đầu cảu
nó để chuẩn bị cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Thời điểm tiêu thụ sản phẩm
được tính từ lúc bắt đầu xuất giao sản phẩm hàng hoá cho đơn vị mua cho đến
khi người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Tuy nhiên nếu như
hàng xuất đi nhưng chưa được người mua chấp nhận do nhiều nguyên nhân
như hàng kém phẩm chất, mẫu mã không phù hợp không đúng yêu cầu hay
hàng hoá bị thiếu hụt…thì sản phẩm hàng hoá coi như chưa được tiêu thụ. Để
xác định đúng thời điểm tiêu thụ cần phải căn cứ vào hai điều kiện chủ yếu
sau :
Thứ nhất : doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho khách
hàng
Thứ hai : Khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán với doanh
nghiệp theo trị giá của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó với mức giá cả đã được
thoả thuận trong hợp đồng.
Việc xác định đúng thời điểm hoàn thành tiêu thụ có ý nghĩa rất quan

trọng, nó giúp cho doanh nghiệp nhìn nhận đúng thực trạng về tình hình tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá. Từ đó giúp cho người quản lý điều chỉnh kế hoạch sản
xuất và kế hoạch tiêu thụ một cách hợp lý. Mặt khác việc xác định đúng thời
điểm hoàn thành tiêu thụ còn là cơ sở giúp cho doanh nghiệp có thể đánh giá
được tình hình sử dụng vật tư tiền vốn trong sản xuất kinh doanh, đánh giá
chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh về sản lượng tiêu thụ.
Tuy nhiên do đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, từng
ngành có khác nhau nên việc xác định thời điểm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
cũng có những đặc trưng riêng. Nhưng nhìn chung việc xác định thời điểm tiêu
thụ được căn cứ thông qua phương thức mua bán hàng hoá giữa doanh
nghiệp với khách hàng.
- Đối với phương thức bán hàng giao hàng trước trả tiền sau thì sau khi
doanh nghiệp giao hàng hoá cho khách hàng, số hàng hoá đó được khách hàng
thanh toán ngay hoặc chấp nhận thanh toán thì hàng hoá của doanh nghiệp
được xác định là đã tiêu thụ.
- Đối với phương thức trả tiền trước giao hàng sau (người mua trả tiền
trước) thì khi doanh nghiệp tiến hành chuyển hàng hoá đã được đặt trước cho
bên mua và được bên mua chấp nhận thì hàng hoá đó được tiêu thụ.
- Còn đối với phương thức gửi bán quan đại lý : thì khi doanh nghiệp thu
được tiền hoặc cơ sở đại lý chấp nhận thanh toán hoặc có thông báo của bên
đại lý là số hàng đã bán được thì khi đó hàng hoá được coi là đã tiêu thụ…
Tóm lại tiêu thụ sản phẩm là một khâu hết sức quan trọng trong toàn bộ
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Bởi tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh. Nó đóng vai trò thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng
hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vai trò quan trọng hơn nữa là nó góp phần
vào quá trình luân chuyển, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh của doanh
nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển trong một nền
kinh tế đầy những biến động và rủi ro.
1.1.3. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm.

Khi thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và các doanh nghiệp sẽ thu
được một khoản doanh thu bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản
phẩm.
Vậy doanh thu tiêu thụ sản phẩm là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng
hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản trừ doanh
thu như giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, chiết khấu hàng bán…
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định như sau :

Trong đó :
T : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm

=
=
n
i
iti
xGST
1
)(
Sti : Số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại
Gi : Giá bán đơn vị của loại sản phẩm i
i : Loại sản phẩm tiêu thụ.
Như vậy doanh thu tiêu thụ được xác định trên cơ sở số lượng sản phẩm
tiêu thụ và giá bán đơn vị của từng loại sản phẩm đó. Ngoài ra doanh thu tiêu
thụ còn bao gồm giá trị các sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng hoặc tiêu dùng
trong nội bộ doanh nghiệp và được cơ sở giá thị trường ở thời điểm bán hàng.
Cơ cấu dịch vụ doanh thu tiêu thụ là một chỉ tiêu tổ chức quan trọng không chỉ
đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Doanh thu
tiêu thụ phản ánh quy mô của quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, phản ánh được mức độ hoàn thành việc tiêu thụ hàng hoá và thực hiện

kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp trong kỳ. Ngoài ra nó
còn là chỉ tiêu quan trọng phản ánh trình độ tổ chức, chỉ đạo sản xuất kinh
doanh, tổ chức công tác thanh toán của doanh nghiệp. Có được doanh thu bán
hàng chứng tỏ rằng hàng hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã được
người tiêu dùng chấp nhận, chứng tỏ rằng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ xét
về mặt khối lượng, giá trị sử dụng, chất lượng và giá cả đã phù hợp với nhu
cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong xã hội và khi có doanh thu tiêu thụ
doanh nghiệp sẽ có nguồn tài chính…
Một điều mà chúng ta cần phải lưu ý là phải phân biệt được giữa doanh
thu tiêu thụ và tiền bán hàng. Doanh thu tiêu thụ không hoàn toàn đồng nhất
với tiền bán hàng. Tiền bán hàng chỉ được xác định khi doanh nghiệp tiêu thụ
sản phẩm và đã thu được tiền về còn doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác
định ngay cả khi khách hàng chưa trả tiền hàng nhưng đã chấp nhận thanh
toán và được xác định đối với cả một số sản phẩm hàng hoá được tiêu dùng
trong nội bộ. Xét về mặt quan hệ thì tiền bán hàng chỉ là một bộ phận của
doanh thu tiêu thụ và được tính trên cơ sở của doanh thu tiêu thụ đối với toàn
bộ giá trị hàng hoá đã được khách hàng thanh toán.
Nội dung của doanh thu tiêu thụ đối với từng doanh nghiệp, từng ngành
nghề kinh doanh khác nhau cũng có sự khác nhau, nhưng nhìn chung ND của
doanh thu tiêu thụ bao gồm những nội dung sau :
-Doanh thu bán hàng ra ngoài doanh nghiệp : Là doanh thu do doanh
nghiệp tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho các đơn vị khác ngoài doanh
nghiệp. Đây là nội dung chủ yếu và chiếm phần lớn trong tổng doanh thu tiêu
thụ sản phẩm phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp trong kỳ. Bộ phận này bao
gồm.
+ Doanh thu sản phẩm hàng hoá thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh
chính của doanh nghiệp như thành phẩm, bán thành phẩm, doanh thu bàn
giao công trình và hạng mục công trình. Xây dựng cơ bản hoàn thành , doanh
thu tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp của các nông trường, lâm
trường, các tổ chức chăn nuôi đánh bắt và khai thác thuỷ hải sản

Doanh thu tiêu thụ khác như doanh thu về cơ cấu lao vụ, dịch vụ, bán các
bản quyền phát minh, sáng chế, bán những sản phẩm chế biến từ phế liệu phế
phẩm….
Doanh thu tiêu thụ nội bộ : Là doanh thu có được do doanh nghiệp bán
sản phẩm, hàng hoá và cơ cấu lao vụ dịch vụ cho các đơn vị trực thuộc hoặc
các cá nhân trong doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ nội bộ cũng bao gồm
doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá thuộc các hoạt động sản xuất kinh
doanh chính và doanh thu tiêu thụ sản phẩm phụ…
Ngoài ra doanh thu tiêu thụ còn bao gồm cá nhân trợ giá, của nhà nước
khi thực hiện việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của nhà
nước.
Việc xây dựng nội dung của doanh thu tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc hạch toán đầy đủ chính xác mức doanh thu đạt được
trong kỳ của doanh nghiệp. Nó phản ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Vì vậy trong công tác tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp
không nên xem thường vấn đề xác định nội dung doanh thu tiêu thụ sản phẩm
đồng thời không còn áp dụng việc xác định nội dung doanh thu tiêu thụ theo
một khuôn mẫu nhất định nào đó mà cần phải tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất
kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp để xác định
doanh thu một cách chính xác và cụ thể. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải phân
chia nội dung doanh thu cho phù hợp để thuận tiện cho việc theo dõi và phản
ánh doanh thu của mình.
Về thời điểm xác định doanh thu thì tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh
doanh của từng ngành từng doanh nghiệp thì việc xác định thời điểm ghi nhận
doanh thu cũng khác nhau nhưng nhìn chung việc xác định và ghi nhận doanh
thu được xác định đồng thời với thời điểm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch
vụ…Tuy nhiên đối với doanh nghiệp thương mại cho một số đặc trưng riêng
khác với các doanh nghiệp sản xuất cho nên thời điểm ghi nhận doanh thu
cũng cónhững đặc điểm riêng của nó và được thể hiện ở những điểm sau :
Thứ nhất : về điều kiện ghi nhận doanh thu bán hàng phải đảm bảo các

điều kiện nhất định theo quy định hiện hành như :
- Hàng hoá phải thông qua quá trình mua, bán và thanh toán theo một
phương thức thanh toán nhất định.
- Hàng hoá phải được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp thương mại
(bên bán) sang bên mua và doanh nghiệp thương mại đã thu được tiền hay
một loại hàng hoá khác hoặc người mua chấp nhận nợ.
- Hàng hoá bán ra phải thuộc diện kinh doanh của doanh nghiệp, do
doanh nghiệp mua vào hoặc gia công, chế biến hay nhận góp, nhận cấp phát,
tặng thưởng.
Ngoài ra trong một số trường hợp sau cũng được coi là hàng hoá đã tiêu
thụ và được phép ghi nhận doanh thu.
+ Hàng hoá xuất dùng để đổi lấy hàng hoá khác, còn gọi là đối lưu hay
hàng đổi hàng.
+ Hàng hoá xuất để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho CNV, thanh
toán thu nhập cho các thành viên của doanh nghiệp.
Sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu
thụ.
Như chúng ta biết, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là kết thúc khâu
cuối cùng của vòng chu chuyển vốn.
Khi sản phẩm làm ra được tiêu thụ thì giá trị và giá trị sử dụng của nó
mới được thực hiện, lao động của người sản xuất hàng hoá nói riêng và của
toàn doanh nghiệp nói chung mới được xã hội thừa nhận.
Theo nghĩa cụ thể hơn, có tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có doanh
thu để bù đắp toàn bộ chi phí đã chi ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn (thu hồi được giá trị hao mòn
tài sản cố định, có tiền mua nguyên vật liệu mới, trả lương công nhân viên để
tiếp tục sản xuất…). Mặt khác, thông qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có
thể thực hiện được giá trị lao động thặng dư, nghĩa là thu được lợi nhuận từ
các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận tiêu thụ là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của các

doanh nghiệp, nó phản ánh hiệu quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Có thể nói, lợi nhuận là động cơ, mục tiêu của sản xuất kinh doanh
đối với mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường và lợi nhuận còn đồng nghĩa
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới hoàn thành nghĩa vụ tham gia đóng góp
vào ngân sách Nhà nước được phản ánh ở số thuế lợi tức và mới có nguồn để
hình thành các quỹ như : quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đầu tư,
phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ trợ cấp mất việc làm cho người lao động.
Khi đó doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng quy mô hoạt động sản xuất
kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động. Như vậy, tiêu thụ sản phẩm góp phần thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển.
Tiêu thụ sản phẩm là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thông suốt. Chỉ có thông qua tiêu thụ, đồng vốn mà
doanh nghiệp bỏ ra mới trở về trạng thái ban đầu của nó, tiếp tục thực hiện
vòng luân chuyển mới. Thực hiện được doanh thu bán hàng đầy đủ kịp thời
góp phần thúc đẩy tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình sản xuất sau, tiết kiệm chi phí bán hàng, chi phí kho
tàng, bảo quản… góp phần hạ giá thành tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc
không hoàn thành được dự kiến chỉ tiêu doanh thu bán hàng hoặc thực hiện
không kịp thời công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn và
gây trở ngại cho quá trình sản xuất như : kéo dài chu kỳ sản xuất, đồng vốn bị
ứ đọng chậm luân chuyển vì gây ra những thiệt hại không thể lường trước cho
sản xuất kinh doanh.
Thông qua công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể nắm bắt
được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, tình hình cạnh tranh trên thị trường, vị
trí của các đối thủ và vị trí của mình trên thường trường, cũng như nắm bắt
thị trường nào là thứ yếu, thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào có tiềm
năng cần khơi dậy, từ đó mà hoạch định kế hoạch phát triển kinh doanh, đầu
tư và mở rộng mặt hàng, thay đổi quy cách mẫu mã sản phẩm.

Trong nền kinh tế thị trường luôn chứa đựng nguy cơ thử thách, vấn đề
tiêu thụ là mối quan tâm thường trực của tất cả các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp chỉ thực sự tồn tại và phát triển mở rộng khi sản phẩm của nó tìm được
chỗ đứng vững chắc và có sức sống lâu dài trên thị trường. Nói cách khác đi,
việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là hết sức cần thiết, nó quyết định sự tồn tại
và tăng trưởng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Thời đại ngày nay là thời đại của thông tin, khoa học và côngnghệ xu thế
quốc tế và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ nên vấn đề tiêu thụ không chỉ
bó hẹp trong phạm vi quốc gia. Ngoàiviệc giữ vững và mở rộng thị trường
trong nước, doanh nghiệp cần nhanh nhạy, dũng cảm tìm kiếm giải pháp để
mở rộng thị trường tiêu thụ ra phạm vi khu vực và thế giới. Nền kinh tế mở
hiện nay ngày càng cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội hợp tác đầu tư liên
doanh với nước ngoài để có thể tranh thủ vốn và kỹ thuật hiện đại, để sản
phẩm của doanh nghiệp có tiếng nói trên thị trường quốc tế.
Việc tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm không chỉ là nhiệm vụ của mỗi
doanh nghiệp cơ sở mà còn cần có sự tác động của Nhà nước trong các chính
sách chế độ ban hành. Chỉ trên cơ sở nhận biết đúng đắn vấn đề tiêu thụ thì
mới có thể tổ chức được công tác tiêu thụ một cách có khoa học và hiệu quả.
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên ta thấy cần thiết phải tiến hành đẩy
mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại kết quả cao cho các doanh nghiệp
sản xuất.
Thực tế trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa nhiều thành
phần kinh tế, tiêu thụ sản phẩm đang là vấn đề nóng bỏng của các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, có sự vượt lên của một số
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và cũng có tình trạng doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ đến mức phải trả giá thể. Để thấy rõ nguyên nhân nào dẫn tới tình
trạng sản phẩm của doanh nghiệp không được thị trường chấp nhận, ta cần
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.
+ Hàng hoá xuất làm quà biếu, tặng, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp .
+ Hàng hoá xuất làm quà tặng, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Hàng hoá hao hụt tổn thất trong khâu bán hàng theo hợp đồng của bên
mua chịu.

×