Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Một số vấn đề về RRTD của NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.18 KB, 23 trang )

Một số vấn đề về RRTD của NHTM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Sự ra đời của hoạt động của ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt trong
lịch sử phát triển và tiến bộ của con người. Lê Nin đã coi sự ra đời Ngân hàng
như “sự phát minh ra lửa” hay “bánh xe”. Vai trò to lớn của ngân hàng đối với
sự phát triển nền kinh tế xã hội được xuất phát từ chính các mặt hoạt động
của ngân hàng. Một trong những hoạt động đặc trưng của ngân hàng là hoạt
động TD.
Tín dụng được định nghĩa như là: “ một giao dịch về tài sản (tiền hoăc
hàng hoá ) giữa bên cho vay (NH và các định chế tài chính khác) va bên
đi vay (cá nhân,doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất
định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Đối với một NHTM, TDNH có ý nghĩa là sự cho vay hay ứng trước tiền do
ngân hàng thực hiện. Bản thân ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là
khách hàng của ngân hàng. Giá ngân hàng ấn định cho khách hàng khi đi vay
là lợi tức và lãi suất hoặc tiền hoa hồng mà họ phải trả trong suốt thời gian
tồn tại của khoản ứng trước.
Hoạt động TD là hoạt động đa dạng, là một loại kinh doanh tiền tệ phức
tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh, đó là tiền tệ, và ở đây
tiền tệ đã bị tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay.
Trong khái niệm TD hoặc TDNH ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và
cũng vì có sự xen lẫn đó cho nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra. Và cần có
một sự tín nhiệm hay nguyên tắc nhất định khi cho vay. TDNH được thực hiện
theo 3 nguyên tắc:
+ Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn đã đăng
ký trong HĐTD
+ Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả
+ Vốn vay phải được đảm bảo bằng hàng hoá có giá trị tương đương.


1.1.2. Phân loại TDNH
Trong nền KTTT, hoạt động TD rất đa dạng và phong phú với nhiều hình
thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý TD có hiệu quả thì phải tiến hành phân
loại TD. Có nhiều tiêu thức phân loại TD khác nhau:
+ Căn cứ vào thời hạn tín dụng: có cho vay ngắn hạn (dưới 12 tháng); cho
vay trung hạn (1-5 năm); cho vay dài hạn trên 5 năm
+Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: có cho vay không đảm
bảo, cho vay có đảm bảo
+ Căn cứ vào mục đích: có cho vay bất động sản, cho vay công nghiệp va
thương mại, cho vay nông nghiệp, cho vay các định chế tài chính, cho vay cá
nhân, cho thuê.
+Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: có cho vay có thời hạn, cho vay không
có thời hạn cụ thể.
+Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: có cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp.
1.1.3. Chức năng của TDNH
Như chúng ta đã biết, TDNH có một vị trí quan trọng trong việc phát triển
KT-XH đất nước và vị trí đó trước hết được biểu hiện qua các chức năng của
TDNH.
Tín dụng ngân hàng có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng tập trung và
phân phối theo nguyên tắc hoàn trả; chức năng phản ánh và kiểm soát các
hoạt động của nền kinh tế.
1.1.3.1. Chức năng tập trung và phân phối vốn theo nguyên tắc hoàn
trả, hay chức năng phân phối lại.
Sự tồn tại khách quan của phạm trù tín dụng là một tiền đề quan trọng
cho sự vận động liên tục của vốn trong nền kinh tế quốc dân, những vốn tạm
thời chưa sử dụng phát sinh ra trong nền kinh tế sẽ được ngân hàng huy động
và tập trung lại. Trên cơ sở nguồn vốn đó, ngân hàng tiến hành phân phối bằng
hình thức cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Giữa tập trung và phân phối
luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Thực hiện tốt tập trung vốn tạo cơ sở
để tiến hành cho vay đồng thời chỉ khi việc phân phối vốn có hiệu quả sẽ thúc

đẩy nhu cầu tập trung vốn. Sự phân phối của tín dụng tuân theo một vòng tuần
hoàn từ khi cho vay đến vốn tín dụng được sử dụng theo nhu cầu và sau khi
hoàn thành việc tham gia vào quá trình phục vụ nhu cầu, trở lại hình thái tiền
tệ thì nó được hoàn trả người cho vay. Đây là bản chất vận động của tín dụng.
Đó là sự vận động với tư cách lượng giá trị vận động, do đó lượng giá trị này
luôn được bảo tồn theo thời gian khi hoàn trả.
1.1.3.2. Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động của nền kinh
tế.
Khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của TDNH là rộng lớn hơn so
với các hình thức TD khác. Bên cạnh quan hệ tín dụng đối với các doanh
nghiệp và cá nhân, ngân hàng còn có quan hệ về tiền tệ, thanh toán với họ. Các
mối quan hệ này bổ sung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các
doanh nghiệp dễ dàng hơn. Không những thế, tín dụng cũng phản ánh một
cách tổng hợp và nhạy bén đối với mọi biến đổi của nền kinh tế. Thông qua
hoạt động thu vốn nhàn rỗi có thể đánh giá được tình hình tiêu dùng, tiết kiệm
và các tiềm năng khác của nền kinh tế. Mặt khác, thông qua hoạt động cấp vốn
có thể đánh giá được khả năng phát triển của các ngành các lĩnh vực, sự hợp
lý của cơ cấu nền kinh tế qua đó có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp.
Do đó tín dụng được coi là công cụ quan trọng để nhà nước kiểm soát và thực
hiện các chiến lược phát triển kinh tế.
1.1.4.Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.4.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển
của bản thân ngân hàng.
Trước hết hoạt động tín dụng ngân hàng là 1 trong 3 hoạt động tiền đề
cho sự ra đời của NHTM, đây cũng là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Bởi lẽ, khoản mục tín dụng chiếm khoảng 70% tổng tài
sản và các khoản mục tín dụng này mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân
hàng. Vì vậy việc duy trì và mở rộng tín dụng mang một ý nghĩa sống còn với
các NHTM. Khi các ngân hàng không thực hiện được duy trì và mở rộng thì vốn
ngân hàng huy động được sẽ bị ứ đọng, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho phần

vốn ứ đọng trong khi không có thu nhập từ lãi cho vay khiến ngân hàng bị
thua lỗ và có khả năng rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, việc nâng cao chất
lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng phát triển
thêm các hoạt động khác như mở tài khoản tại ngân hàng, dịch vụ tư vấn, dịch
vụ thanh toán, chuyển tiền...kết quả là ngân hàng vừa tăng được nguồn vốn,
vừa phát triển được các hoạt động dịch vụ tăng thu nhập và phân tán rủi ro.
1.1.4.2. Vai trò của tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt trong việc tổ chức điều hoà lưu
thông tiền tệ, phục vụ quá trình phát triển KT-XH đất nước và là một công cụ
quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ta thấy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số
người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp
nhau để cho nhau vay. Hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp
thời, nên TDNH là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn và để giải quyết
nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này. Nghĩa là tín dụng ngân hàng thu
hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế,
dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ chu
chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện
thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua tín dụng ngân hàng, có thể kiểm soát được lượng tiền cung
ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Mặt
khác, tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ
hạch toán kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng
kinh tế trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời tín dụng ngân hàng còn tạo
điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu
kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên
thế giới.
Như vậy tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với
phát triển kinh tế cũng như đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Để phát

huy vai trò đó, các nước trên thế giới đã sử dụng tín dụng ngân hàng như một
công cụ đắc lực để thúc đẩy phát triển KT-XH. Tuy nhiên, đây lại là một hoạt
động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khó lường trước. Để tín dụng ngân hàng thực sự
phát huy vai trò của mình, nghiên cứu rủi ro tín dụng là một yêu cầu cần thiết.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM.
1.2.1. Những vấn đề chung về rủi ro trong kinh doanh của NHTM.
1.2.1.1. Khái niệm về rủi ro ngân hàng.
Cũng như với bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp
rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy
cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều
loại rủi ro. Rủi ro của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau nhưng đều có bản chất chung đó là khả năng xẩy ra những tổn thất
cho ngân hàng.
Một số quan điểm cho rằng, rủi ro là toàn bộ tổn thất có thể xảy ra đối với
ngân hàng. Một số khác lại cho rằng rủi ro chỉ là những tổn thất xảy ra ngoài
dự kiến.
Dù có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro, nhưng tựu chung lại có
thể rút ra các kết luận sau:
+ Rủi ro ngân hàng là khả năng xẩy ra những tổn thất trong hoạt động
ngân hàng, nằm ngoài ý muốn của ngân hàng.
+ Rủi ro được xem là một biến cố ngẫu nhiên, tuy nhiên ta có thể xác định
được khả năng xuất hiện của rủi ro để lường trước hậu quả có thể xảy ra.
+ Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý của đơn vị, không
thể coi rủi ro là hoàn toàn không thể tránh khỏi và để nó tự vận động. Rủi ro có
thể được hạn chế khi tăng cường khả năng kiểm soát của đơn vị mà điều này
lại phụ thuộc chủ yếu vào trình độ quản lý của đơn vị kinh doanh.
+ Rủi ro do nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, nhưng dù
rủi ro do nguyên nhân nào gây ra thì cũng đều có khả năng phòng ngừa với
các phương pháp khác nhau.
1.2.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh của NHTM.

Có thể chia rủi ro trong hoạt động ngân hàng thành các loại sau:
+Rủi ro tín dụng (sẽ nghiên cứu ở phần sau)
+ Rủi ro hối đoái: là khả năng xẩy ra những tổn thất mà ngân hàng phải
chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính.
+ Rủi ro lãi suất: là khả năng xẩy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi
ngoài dự tính.
+ Rủi ro thanh khoản: là rủi ro khi khả năng thanh toán của ngân hàng
không đáp ứng được cho khách hàng khi họ đến rút vốn vượt quá mức dự trữ
thanh toán của ngân hàng.
+ Rủi ro tồn đọng vốn: xẩy ra khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay, đầu
tư được và các loại rủi ro khác.
1.2.1.3. Ảnh hưởng của rủi ro đối với hoạt động ngân hàng
Rủi ro gắn liền với hoạt động NHTM, phản ánh các tình huống bất thường
xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra, trước hết thu nhập của
ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng
giảm. Từ đó có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là
điểm mở đầu của quá trình mua lại, sát nhập hoặc thay thế ban quản lý ngân
hàng. Rủi ro tín dụng và lãi suất có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc
hàng loạt người gửi tiền rút tiền ra khỏi ngân hàng, buộc ngân hàng phải
đóng cửa và tuyên bố phá sản. Tổn thất làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và
quỹ của ngân hàng. Để đối phó với tình trạng trên, ngân hàng có thể phải giảm
tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động... dẫn đến các ảnh hưởng không
tốt về nhân sự, về trạng thái nguồn và công nghệ.
1.2.1.4. Mối quan hệ rủi ro-lợi nhuận trong hoạt động của các NHTM.
Theo quy luật này thì các chủ thể kinh tế phải chấp nhận một mức độ rủi
ro, hoặc điều chỉnh giảm thiểu rủi ro tới một mức độ nhất định nào đó sao cho
hợp lý để hy vọng đạt được phần lớn lợi nhuận bù đắp mức độ rủi ro đó. Mối
quan hệ ở đây mang tính tỷ lệ thuận nhiều hơn, tuy nhiên nói như vậy không
có nghĩa là cứ rủi ro càng cao thì kiếm được lợi nhuận càng nhiều, mà muốn
được nhiều lợi nhuận thì ngoài việc chấp nhận rủi ro hợp lý còn phải có nhiều

yếu tố khác kết hợp. Trong đó quan trọng nhất là phải có đầu óc kinh doanh,
nắm bắt được thời cơ và biến thời cơ thành hiện thực. Ngân hàng cũng vậy,
không phải là càng gặp nhiều rủi ro thì càng thu được nhiều lợi nhuận mà vấn
đề là phải quản lý được danh mục đầu tư một cách hợp lý. Đó chính là việc
ngân hàng chấp nhận cơ cấu rủi ro hợp lý để hy vọng kiếm được lợi nhuận để
tồn tại và phát triển.
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.
1.2.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của ngân hàng.
Do đó rủi ro tín dụng cũng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động ngân
hàng. Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm rủi ro tín dụng:
+ Rủi ro tín dụng là quá trình hàm chứa nguy cơ vốn và lãi không được
hoàn trả đúng hạn.
+ Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có khi cấp tín dụng cho một
khách hàng.
Như vậy, ngay từ khi cấp tín dụng cho khách hàng, khoản tín dụng đó đã
có rủi ro. Chỉ có điều, đó mới chỉ là rủi ro tiềm năng. Còn khi phát sinh việc vốn
và lãi không được trả đúng hạn thì khi đó rủi ro đã xảy ra, đã trở thành hiện
thực. Từ đó ta có thể đi đến khái niệm rủi ro tín dụng:
“Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc
gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán”.
Khái niệm trên chỉ đúng khi xét một dự án riêng lẻ. Nhưng nếu xét trong
mối quan hệ với các dự án khác thì rủi ro tín dụng không chỉ là thiệt hại về vốn
và lãi của khoản vay mà còn là thiệt hại mang tính chi phí cơ hội. Thậm chí
ngay cả khi khách hàng hoàn toàn có khả năng trả nợ cho ngân hàng thì rủi ro
tín dụng vẫn có thể xảy ra. Đó là rủi ro về việc ngân hàng mất cơ hội sử dụng
vốn vào những dự án có khả năng sinh lời lớn hơn. Tức là hoạt động tín dụng
đã hàm chứa một thiệt hại mang tính so sánh. Bên cạnh chi phí cơ hội, rủi ro tín
dụng còn là rủi ro về thời gian của tiền. Ngay cả khi vốn và lãi được trả đúng

hạn thì rủi ro vẫn xẩy ra vì dưới tác động của lạm phát và sự biến động của lãi
suất trên thị trường khiến đồng vốn mà ngân hàng thu về kém về giá trị hơn so
với ban đầu.
1.2.2.2. Bản chất của rủi ro tín dụng ngân hàng.
Trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể
tránh khỏi, là khách quan và ngân hàng không thể loại bỏ hoàn toàn được rủi
ro mà chỉ có thể hạn chế được nó.
Thực vậy, ta thấy rằng tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ
có hoàn trả gốc và lãi, giữa người có vốn và người thiếu vốn. Quan hệ này là
quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người cho vay và người đi vay, là sự cam kết
thoả thuận bằng các điều khoản của HĐTD, nhưng tình trạng vi phạm cam kết
đó xẩy ra khá phổ biến, kể cả trong trường hợp người vay có năng lực tài
chính để thực hiện các điều khoản cam kết đó. Thậm chí ngay cả trường hợp có
đảm bảo nợ vay như thế chấp, cầm cố...tình trạng rủi ro tín dụng vẫn xẩy ra, do
tài sản dùng làm đảm bảo nợ vay rủi ro về giá trị vì những biến động về thời
gian và thị trường. Điều đó có nghĩa là, một khi còn có hoạt động ngân hàng
thì còn có rủi ro trong hoạt động tín dụng. Hay rủi ro tín dụng là hệ quả, là
không thể tránh khỏi. Nhiều quan điểm nhất trí cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn
đường của trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ.
Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động
chung của ngân hàng.
1.2.2.3.Phân loại rủi ro tín dụng ngân hàng.
Trên thực tế, rủi ro tín dụng cũng rất phức tạp và đa dạng như chính hoạt
động tín dụng vốn đã đa dạng, phức tạp. Cũng có nhiều cách phân loại nhưng
ở đây ta chỉ nghiên cứu hai cách phân loại cơ bản.
Trên phương diện quản lý, rủi ro được chia làm 2 loại: rủi ro tín dụng có
thể kiểm soát được và rủi ro tín dụng không thể kiểm soát được.
+ Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được (hay còn gọi là rủi ro khả kháng)
là loại rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể phần nào dự đoán được chủ thể
gây ra rủi ro đó, ước tính được mức độ ảnh hưởng, dự kiến được thời gian

chúng phát sinh...mà từ đó có những biện pháp hợp lý để phòng ngừa, hạn chế
ở mức thấp nhất có thể. Những rủi ro tín dụng thuộc loại này thường do chủ
quan con người gây ra, cụ thể có thể là do khách hàng hoặc chính bản thân
ngân hàng gây cho mình. Tuy nhiên, khách hàng thường chủ yếu gây ra loại rủi
ro này.
+ Rủi ro không thể kiểm soát được (rủi ro bất khả kháng) là loại rủi ro tín
dụng mà các ngân hàng không thể dự đoán, không thể biết chúng sẽ xẩy ra vào
thời điểm nào, cũng không thể tính toán được một cách chính xác nhất những
ảnh hưởng mà chúng gây ra. Những rủi ro tín dụng này thường không do con
người gây ra mà chủ yếu la do những bất lợi về yếu tố tự nhiên gây ra như hạn
hán, lũ lụt, mất mùa, hoả hoạn...Các NHTM thường phải tập trung vào ngăn

×