Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHO VAY TẠI SGDI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.45 KB, 20 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHO
VAY TẠI SGDI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM
3.1. Phương hướng và nhiệm vụ của SGDI trong năm 2003 và trong
những năm tới.
Năm 2002 qua đi, SGDI Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam lại một lần nữa khẳng định được vị trí của mình trong việc cung ứng
vốn cho các Chi nhánh, làm dịch vụ thanh toán, nối mạng và thực hiện thanh
toán liên hàng, đảm bảo yêu cầu thanh toán và điều hoà vốn giữa các Chi
nhánh trong cùng hệ thống…
Năm 2003, năm bản lề có vị trí quan trọng trong việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 và kế hoạch 5 năm (2001 - 2005). Do
ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng tăng, hệ thống pháp luật
đang từng bước được xây dựng hoàn chinỉh, sự phát triển nhanh của công
nghệ và sản phẩm Ngân hàng ngày càng đa dạng phong phú. Nền kinh tế nước
ta đang từng bước ổn định và phát triển, thực hiện các điều kiện của việc gia
nhập AFTA, triển khai hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và đang đàm phán để
được gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới. Xu hướng tự do tài chính và
mở cửa của nfh của nền kinh tế là một thực tế, nhu cầu cạnh tranh ngày càng
cao để tiến tới hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng là thử
thách đối với SGDI. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
nói riêng và hệ thống Ngân hàng nói chung. Trước bối cảnh đó ban lãnh đạo
SGDI NHNo & PTNT Việt Nam đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho năm 2003
như sau:
- Tăng trưởng nguồn vốn: Năm 2003 SGDI sẽ tiếp tục mở rộng nguồn
vốn huy động thông qua nhiều hình thức huy động phong phú, đa dạng, chú
trọng huy động bằng VND trên nhiều hình thức, sử dụng linh hoạt các công cụ
lãi suất, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tìm kiếm nguồn tiền gửi từ
các dự án. Phấn đấu đến cuối năm 2003 nguồn vốn huy động tăng so với năm
2002 từ 20 - 30%.
- Tăng trưởng tín dụng: Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng là


mục tiêu hàng đầu của SGDI. Năm 2003 Sở giao dịch I sẽ phấn đấu để mở rộng
quy mô cũng như chất lượng tín dụng, tăng dư nợ từ 30 - 40% so với năm
2002 trong đó phải tăng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống dưới 3%.
- Công tác thanh toán: Phát huy những kết quả đạt được trong năm qua
công tác thanh toán luôn đảm bảo kịp thời an toàn, chính xác, tạo điều kiện
cho quá trình luân chuyển vốn của khách hàng được diễn ra nhanh chóng.
Năm nay SGDI sẽ phấn đấu để tăng nhanh tốc độ thanh toán bù trừ, thanh
toán liên hàng so với năm trước.
- Năm 2003 SGDI sẽ tiếp tục mở rộng các dịch vụ đại lý đa dạng như:
chuyển phát nhanh thẻ tín dụng, rút tiền tự động… Mở thêm các điểm giao
dịch, phấn đấu đến cuối năm 2003 SGDI có khoảng 20 Chi nhánh và phòng giao
dịch, xây dựng công trình công nghệ thông tin hiện đại để đáp ứng được yêu
cầu kinh doanh, mở thêm các lớp đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho
CBCNV. Chú trọng xây dựng chiến lược khách hàng để có thể thu hút được
khách hàng đến Ngân hàng và có thể mở rộng được thị phần đầu tư.
- Công tác kế toán nhất là kế toán cho vay. Trong năm 2003 sẽ phấn đấu
tất cả các công đoạn nghiệp vụ được thực hiện trên máy giúp cho công tác
hạch toán, ghi sổ sách đơn giản hơn. Qua đó tăng quỹ thu nhập từ 5 - 10% so
với năm 2002.
3.2. Các giải pháp để giải quyết các tồn tại nhằm hoàn thiện kế toán
cho vay tại SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam.
3.2.1. Giải pháp về chứng từ vay vốn.
Mặc dù hệ thống sổ sách chứng từ sử dụng trong vay vốn Ngân hàng đã
được cải tiến khá nhiều so với thời kỳ Ngân hàng còn đang vận hành thủ công.
Nhưng số lượng các chứng từ hầu như không giảm nó vẫn được coi là những
thủ tục pháp lý khi đặt quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Tại SGDI Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cũng vậy hiện nay hồ sơ vay
vốn vẫn còn mang nặng các thủ tục giấy tờ rườm rà. nhiều giấy tờ không cần
thiết, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc làm hồ sơ, mất nhiều thời gian

có khi cả mấy ngày chạy đi chạy lại để xin chữ ký, sau đó còn thiếu giấy tờ nọ,
giấy tờ kia… tất cả những cái đó đã làm cho các doanh nghiệp mất đi thời cơ
kinh doanh, chịu nhiều thiệt thòi khi mà họ đang thực sự khát vốn. Đứng trước
tình hình đó các nhà lãnh đạo cũng cần có những biện pháp để đầu tiên là giúp
hoạt động của Ngân hàng ngày càng có hiệu quả hơn thứ hai là giúp cho hoạt
động của các doanh nghiệp thuận tiện hơn, có như vậy thì mới duy trì được
quan hệ với khách hàng cũ và thu hút thêm được nhiều khách hàng mới. Theo
bản thân em, thì em nghĩ nên đơn giản hoá thủ tục vay vốn trong một số
trường hợp cụ thể sau:
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp thì có thể ghép đơn xin vay vốn và
phương án trả nợ vào chung một mẫu còn đối với khách hàng là cá nhân thì có
thể ghép đơn xin vay kiêm hợp đồng tín dụng.
- Về hồ sơ vay vốn đối với các doanh nghiệp đã giao dịch với Ngân hàng
nhiều năm, có uy tín trong hoạt động vay trả đúng hạn., làm ăn phát đạt, có
doanh số hoạt động tiền gửi cao. Ngân hàng chỉ nên yêu cầu doanh nghiệp
cung cấp báo cáo những cái cần thiết của một số năm và trong quá trình
chovay cán bộ tín dụng cũng như cán bộ kế toán theo dõi chặt chẽ việc sử dụng
vốn vay và theo dõi chặt chẽ doanh số hoạt động trên tài khoản tiền gửi để biết
được tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của doanh nghiệp
nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc duy trì quan hệ tín dụng
với khách hàng.
- Đối với các tờ đơn xin vay vốn của tư nhân (vợ hoặc chồng) thế chấp
bằng các giấy tời có giá hoặc tài sản, đề nghị phải cả chữ ký của cả vợ hoặc
chồng, nếu người chưa lập gia đình phải có chữ ký của bố hoặc mẹ để tránh
các tranh chấp xảy ra nếu có kiện tụng sau này khi mà khách hàng không trả
nợ được, Ngân hàng buộc phải xiết nợ tài sản, các giấy tờ có giá.
3.2.2. Thực hiện đôn đốc thu nợ và thu lãi.
Như ta đã biết trước khi trao quyền sử dụng vốn cho khách hàng, Ngân
hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng đã phải trải qua quá trình thẩm định rất kỹ
càng do vậy việc thu nợ và thu lãi là điều không phải lo. Nhưng trong thực tế

thì không phải bao giờ cũng đúng như mong muốn mà thật ra mỗi một khoản
vay bên cạnh chịu tác động của yếu tố chủ quan thì còn chịu tác động của môi
trường xung quanh. Chính vì điều đó mà SGDI nên dựa trên kết quả công tác
kiểm tra, quản lý để phân loại chất lượng từng khoản vay để từ đó có biện
pháp thu nợ và thu lãi cho phù hợp với thực trạng từng khoản vay cụ thể:
- Đối với các khoản vay có chất lượng tốt: đảm bảo khả năng thu hồi vốn
đúng hạn thì chỉ cần chú ý đôn đốc trả nợ khi gần đến hạn.
- Đối với các khoản vay có dấu hiệu rủi ro khó có khả năng trả nợ khi
đến hạn do có những khó khăn phát sinh từ những điều kiện khách quan thì
cần có những biện pháp điều chỉnh kỳ hạn nợ, giảm nợ phù hợp nhằm đảm bảo
khả năng thu hồi nợ đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn phát sinh. Sau đây là một
số biện pháp xử lý:
+ Cán bộ Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp, cùng doanh nghiệp
tháo gỡ những khó khăn hoặc mỗi chuyên gia tư vấn cho họ, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có khả năng giải quyết được các vấn đề tồn tại để thanh toán
được nợ gốc và lãi cho Ngân hàng.
+ Giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp bằng cách đề ra các biện
pháp thu hồi các hoá đơn bán hàng chậm trả, giúp họ tiêu thụ hàng tồn kho
hoặc giảm dự trữ quá mức hoặc sử dụng để vay thế chấp, vay cầm cố.
+ Kết cấu lại khoản nợ: SGDI có thể kết cấu lại khoản cho vay bằng việc
kéo dài kỳ hạn và rút bớt mức chi trả hàng tháng hay thậm chí huỷ bỏ sự trả
vốn gốc trong một khoảng thời gian SGDI cũng có thể giới thiệu một người cho
vay dài hạn hay cộng tác với một người cho vay khác và như vậy giảm bớt rủi
ro cho SGDI.
+ Gia tăng khối lượng của khoản cho vay: Đây là một giải pháp dễ dàng
và hấp dẫn nhưng các Ngân hàng không muốn tăng thêm vốn. Nó chỉ được
thực hiện sau khi tất cả các điều kiện do Ngân hàng ấn định đã được đáp ứng
và rõ ràng doanh nghiệp đó có khả năng trả nợ.
+ Đối với khách hàng có sự vi phạm hợp đồng tín dụng một cách nghiêm
trọng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong kinh doanh dẫn đến khả năng thu

hồi nợ vay rất khó khăn, trường hợp này SGDI nên tìm cách thu hồi nợ trước
hạn.
3.2.3. Thực hiện kế toán dự thu, dự trả trong Ngân hàng.
Như ta đã biết, kế toán quản trị Ngân hàng là nghệ thuật ghi chép, phân
loại tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế bằng thước đo tiền tệ, kết hợp với các
phương pháp nghiệp vụ nhằm cung cấp thông tin chi tiết, đa dạng làm cơ sở
cho việc ra quyết định liên quan đến mục tiêu quản trị kinh doanh và nếu thông
tin không đầy đủ, các nhà quản trị Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc quản
lý điều hành hiệu quả hoạt động kinh doanh, nhưng nếu thông tin không chính
xác, các nhà quản trị sẽ đưa ra quyết định kinh doanh sai lầm làm ảnh hưởng
đến quá trình sinh lợi của Ngân hàng.
Vậy để kế toán quản trị phát huy hiệu quả trong việc phân tích hiệu quả
kinh doanh, đánh giá chất lượng kinh doanh theo từng nghiệp vụ cũng như
giúp cho Hội đồng quản trị và ban Giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh
sát sao, cụ thể thì việc thực hiện kế toán dự thu, dự trả là vô cùng cần thiết,
chuẩn mực kế toán về doanh thu chi phí cũng được ban hành. Chính vì vậy,
SGDI cần triển khai thực hiện công tác kế toán dự thu, dự trả không phải đến
từng năm mà còn phải đến từng tháng, thậm chí đến từng ngày. Do đó, chương
trình vi tính cần được đáp ứng nhu cầu cuối mỗi ngày phải tính được lãi dự
thu của ngày đó thông qua mức dư nợ tín dụng của khách hàng, lãi suất vay
cũng như lãi dự thu của các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản hùn vốn liên
doanh, liên kết, lãi thu được từ việc mua trái phiếu, tín phiếu. Song song với nó
là việc tính lãi dự trả cho các khoản tiền huy động từ tiết kiệm, từ các khoản
tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn của khách hàng, phát hành tín phiếu. Điều
quá trình nhất là phải tính toán được tương đối chính xác các khoản chi phí
thường xuyên của Ngân hàng như chi lương, chi phí quản lý, chi mua sắm,
khấu hao tài sản… Để từ đó cuối mỗi ngày nhà lãnh đạo Ngân hàng có thể biết
được hiệu quả kdỏc ngày hôm đó ra sao lỗ hay lãi: để từ đó nhà quản trị Ngân
hàng có thể đưa ra được các quyết định kinh doanh một cách kiến thức, nhằm
giảm thiểu các khoản lỗ. Bên cạnh đó việc hạch toán dự thu, dự trả, số dư cuối

niên đã phản ánh được năng lực quản trị tín dụng, đầu tư tài chính của Ngân
hàng.
3.2.4. Giải pháp về vấn đề thu lãi và lãi chưa thu tại SGDI
a. Thu lãi:
Như đã trình bày ở chương II, việc thu lãi hàng tháng ít nhiều có ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động kinh doanh của các đơn vị vay vốn nhất là đối
với các đơn vị sản xuất kinh doanh theo mùa vụ có vòng quay vốn chậm.
Trước tình hình thực tế đó, để đảm bảo tính linh hoạt trong thu lãim,
phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho từng loại hình đơn vị vay vốn em xin
mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau:
- Đối với những đơn vị hay cá nhân có vòng quay vốn nhanh có số thu
nhập thường xuyên ổn định thì vẫn áp dụng tính và thu lãi hàng tháng theo
phương pháp tích số như hiện nay. Việc thu lãi hàng tháng với những khách
hàng này vừa có lợi cho SGDI vì nó đảm bảo thu nhập ổn định cho SGDI hàng
tháng, hạn chế một phần rủi ro. Hạn chế khách hàng sử dụng tiền sai mục đích,
vừa có lợi cho khách hàng vì số tiền trả lãi được trả dần trong từng tháng.
- Đối với những đơn vị hay cá nhân có vòng quay vốn chậm, sản xuất
kinh doanh mang tính chất thời vụ thì không áp dụng thu lãi hàng tháng, mà
sẽ thu cùng ngày khi người vay trả nợ gốc.
- Đối với những món vay có giá trị nhỏ, nến số lãi hàng tháng mà khách
hàng phải trả cho Ngân hàng cũng không đáng kể. Nên có thể quy định thu lãi
vào ngày cuối cùng của kỳ hạn nợ khi thu gốc khách hàng mới cần đến Ngân
hàng để trả số lãi đó. Bình thường hàng tháng khi tính lãi, thì kế toán cho vay
vẫn phải hạch toán vào tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu” nay chỉ khi nào
đến kỳ hạn nợ cuối cùng kế toán cho vay mới phải hạch toán và theo dõi.
Như vậy không những đem lại lợi ích cho Ngân hàng như: giảm các chi
phí, thủ tục hành chính cần thiết, mà vẫn không ảnh hưởng đến hoạt động của
Ngân hàng nói chung và của phòng kế toán nói riêng. Đồng thời còn giúp
khách hàng hàng tháng không phải đến Ngân hàng để trả lãi, giảm được chi
phí không cần thiết trong quá trình đi lại giao dịch với Ngân hàng.

b. Lãi chưa thu:
Như đã phân tích ở chương II: tình trạng lãi chưa thu xảy ra khá phổ
biến tại các Ngân hàng Thương mại. Hiện nay, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp Nhà nước lãi này chiếm tỷ lệ cao, từ đó ít nhiều ảnh hưởng đến thu
nhập của Ngân hàng.
Để thực hiện nhanh hơn và tốt hơn nữa việc thu nợ, thu lãi, hạn chế
phần nào những thiệt hại mà SGDI phải chịu bởi những khoản lãi chưa thu
này. Em xin đưa ra ý kiến là nên áp dụng hình thức phạt chậm trả từ đó tạo
động lực thúc đẩy khách hàng trả nợ cũng như trả nợ đúng hạn và đầy đủ.
Theo em khoản “Lãi chưa thu” phải được coi như là một khoản nợ mới phát
sinh nên lãi suất tính phạt được áp dụng như lãi suất tiền gửi không kỳ hạn ở
thời điểm có phát sinh lãi chưa thu và thời gian phạt tính từ ngày ghi nhập vào
tài khoản ngoại bảng “Lãi chưa thu” đến khi người vay hoàn trả.
Sau khi tính toán xong sẽ hạch toán:
Xuất tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu”.
Đồng thời hạch toán nội bảng:
Nợ: Tài khoản tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt): lãi + phạt.
Hoặc tài khoản tiền gửi người vay (nếu trả bằng chuyển khoản).
Có: Tài khoản thu nhập của SGDI: Lãi + phạt.
Tiểu khoản thu lãi do vay: Số lãi thu được.
Tiểu khoản thu khác: Số tiền phạt.
Như vậy, việc tính phạt khoản lãi mà khách hàng vi phạm cam kết hoặc
có ý chiếm dụng sẽ tránh cho SGDI những thiệt hại do không được sử dụng số
tiền này trong kinh doanh và mất ổn định trong thu nhập. Đồng thời nó cũng
tác động đến khách hàng vay tiền phải có ý thức trong việc nhanh chóng trả lãi
Ngân hàng đúng kỳ hạn, nếu càng chậm trễ thì số tiền phạt càng cao. Đây cũng
là biện pháp tích cực nhằm mục đích đôn đốc khách hàng phải thực hiện đầy
đủ và nghiêm túc các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng, thể hiện sự công
bằng giữa SGDI và khách hàng vì lợi ích của khách hàng cũng là vì lợi ích của
Ngân hàng.

3.2.5. Giải quyết vấn đề trả nợ gốc trước hạn.
Như đã phân tích ở chương II, kế hoạch về nguồn vốn và sử dụng vốn
của SGDI Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chịu ảnh
hưởng bởi việc trả nợ trước hạn của một số món vay.

×