Website: Email : Tel : 0918.775.368
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI TRONG NHỮNG NĂM
QUA
I-/ THỰC TRẠNG NGÀNH THUỶ LỢI THỜI GIAN QUA.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII và các nghị quyết của Ban chấp
hành trung ương Đảng: “ Phát triển nông lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến,
phát triển toàn diện kinh tế vùng nông thôn và xây dựng vùng nông thôn mới là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế xã hội đặt trọng tâm vào chương trình lương
thực thực phẩm nhằm đảm bảo vững chắc nhu cầu trong nước và xuất khẩu nhất là gạo
và sản phẩm chăn nuôi”. Để thực hiện được các mục tiêu trên thì thuỷ lợi đóng vai trò
quan trọng, là điểm tựa thúc đẩy sản xuất lương thực phát triển. Thuỷ lợi đã phát huy
khai thác có hiệu quả các công trình thuỷ lợi đã có, xây dựng thêm nhiều công trình mới
trên các vùng lãnh thổ, bảo vệ an toàn hệ thống đê điều, khắc phục và hạn chế thiên tai
phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kế hoạch sản xuất
lương thực và đã đạt 31 triệu tấn lương thực năm 1999, vượt hơn 1 triệu tấn so với kế
hoạch năm 1999, tăng 1,9 triệu tấn so với năm 1998
Nhờ những thắng lợi trong sản xuất nông nghiệp, bộ mặt nông thôn được cải thiện,
môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng cũng phát triển theo, vấn đề lương thực đảm bảo
tiêu dùng của người dân được đảm bảo trong thời gian giáp hạt, đời sống nhân dân được
nâng lên rõ rệt.
Những chương trình lớn về phát triển thuỷ lợi phục vụ phát triển kinh tế xã hội nói
chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng như chương trình khai thác Đồng Tháp Mười,
Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, Bán đảo Cà Mau, Miền trung và Tây Nguyên, nâng cấp
các hệ thống thuỷ nông, chống lũ và chống úng ở đồng bằng sông Hồng, cấp nước ăn
vùng cao đã đạt được những kết quả khả quan. Một số công trình thuỷ lợi lớn ở miền
Trung, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc vừa thi công vừa phát huy hiệu quả sớm tích
nước để phục vụ sản xuất như công trình Truồi, An Mã, Tràng Vinh, Ayun Hạ... nhiều công
trình đang xây dựng đã phát huy hiệu quả điển hình như các công trình đồng bằng sông
Cửu long: kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2, công trình kiểm soát lũ Châu Đốc_ Tịnh Biên, Ba Hòn,
Vàm Rầy... đã đảm bảo mục tiêu ngăn lũ, thông nước trước mùa lũ. Với những kết quả đó
nó sẽ tiếp tục tạo thế để phát triển thuỷ lợi trong năm 2000 và sau năm 2000
Dưới đây là tóm tắt thực trạng thuỷ lợi thông qua hệ thống công trình thuỷ lợi và
công tác quản lý sử dụng.
1.1 Thực trạng hệ thống công trình thuỷ lợi
Việt Nam là một trong một số nước trong khu vực có hệ thống công trình thuỷ lợi
phát triển, đặc biệt là thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1999 Việt Nam đã
1
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có hệ thống công trình tưới tiêu 3.9 triệu ha, trên 1triệu ha rau màu, ngăn mặn cho 0.9
triệu ha và chống lũ cho gần 3triệu ha.
Các công trình thuỷ lợi ở Việt Nam gồm 75 hệ thống thuỷ nông lớn và vừa, 750 hồ
chứa có dung tích từ 1 triệu m3 trở lên, 10000 hồ chứa nước nhỏ với tổng dung tích gần
30 tỷ m3, tức gần bằng 18% dòng chảy mùa kiệt của cả nướcvà nếu trừ đồng bằng sông
Cửu Long thì dung tích các hồ chiếm tới 36% dòng chảy mùa kiệt của toàn lãnh thổ. Trên
1000 cống tưới và tiêu lớn, 3514 trạm bơm lớn và vừa với tổng công suất bơm tưới là
200 MW, tổng công suất bơm tiêu là 250 MW, có 300.000 máy bơm dầu. Tổng giá trị tài
sản cố định phần Nhà nước đầu tư là trên 25.000 tỷ đồng (giá năm 1995). Đó là chưa kể
đến công đóng góp của nhân dân trong phần công trình nội đồng ước tính 30 - 40% giá
trị xây dựng công trình đầu mối.
Hệ thống đê điều đã được hình thành có 7700 km gồm 5700 km đê sông, 2000 km
đê biển, 3000 km bờ bao chống lũ đầu vụ ở đồng bằng sông Cửu Long. Trên các tuyến đê
có 590 kè và 2900 cống dưới đê.
Các hệ thống thuỷ lợi được coi là biện pháp hàng đầu trong nhiều năm phục vụ đắc lực
cho công cuộc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển nông nghiệp.
Tính đến năm 1999 đã có 6 triệu ha gieo trồng lúa được tưới bằng công trình thuỷ
lợi, chiếm gần 80%, tăng trên 1,4 triệu ha so với năm 1985.
Trong đó:
- Tưới:
Lúa Đông Xuân: 2,41 triệu ha.
Lúa Hè Thu: 1,56 triệu ha.
Lúa Mùa: 1,73 triệu ha.
Hoa Màu: 0,3 triệu ha.
- Tiêu: 1 triệu ha.
Tuy nhiên do đầu tư không đồng bộ, Nhà nước chỉ đầu tư công trình đầu mối, kênh
trục, một số công trình được Nhà nước đầu tư tới kênh cấp 2, kênh cấp 3 và công trình
nội đồng do nhân dân tự làm. Do đó nhiều công trình sau khi hoàn thành công trình đầu
mối phải sau 5 - 7 năm thậm chí có công trình sau 10 năm mới phát huy hết khả năng
tưới hoặc tiêu thiết kế. Nhiều công trình diện tích tưới hoặc tiêu chỉ đạt 50 - 60% (đối với
hồ chứa) hoặc 70 - 90% (đối với cống, trạm bơm) diện tích thiết kế.
Thực hiện nghị quyết 22 của Bộ chính trị, nghị quyết 72 HĐBT, quyết định 69 HĐBT
và chỉ thị 525 TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngành thuỷ lợi đã xây dựng chương trình
cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho đồng bào vùng cao đến năm 2000. Bước đầu đã xây
2
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dựng được một số công trình thuỷ lợi giải quyết nước ăn cho trên 30 vạn đồng bào các
dân tộc miền núi phía bắc và như dự kiến thì đến cuối năm nay chương trình này sẽ kết
thúc.
Trong điều kiện rất khó khăn về ngân sách Nhà nước đã dành cho phát triển thuỷ
lợi trong kế hoạch 1995 - 1999 là 9872,957 tỷ đồng. Trong đó 55% do Bộ quản lý, 45% do
các tỉnh quản lý. Riêng các công trình lớn mà Bộ đầu tư trong năm năm mở ra 241 công
trình đã hoàn thành 85 với năng lực tưới thêm 451.000 ha và trên 180.000 ha.
Các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ được phát triển đều khắp các vùng, góp phần
quan trọng nâng độ đồng đều phát triển kinh tế giữa các vùng đồng thời cũng thực hiện
mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Các công trình trọng điểm đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế với mức tăng trưởng 2,5 - 3 lần sau mỗi
thập kỷ, với mức bảo đảm lương thực 500 kg/ người/ năm, thực hiện đổi mới cơ cấu kinh
tế trong nông thôn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đảm bảo mức tăng
trưởng GDP trong nông nghiệp 4 - 5% thì nhiệm vụ ngành thuỷ lợi còn khá nặng nề.
Sau đây là thực trạng thuỷ lợi từng vùng cụ thể như sau:
1.1.1 Tại vùng đồng bằng và trung du sông Hồng.
Là trọng điểm lương thực miền Bắc, được thuỷ lợi hoá sớm và cao hơn cả. Riêng
vùng này có 33 hệ thống thuỷ nông, trong đó 16 hệ thống tưới tiêu lớn. Năng lực thiết kế
của các hệ thống thuỷ nông đảm bảo tưới cho 860.000 ha, tiêu 700.000 ha. Do các hệ
thống tưới tiêu trước đây thiết kế với hệ số tiêu thấp (2,5 - 3,0 l/ s/ ha) và năng lực tiêu
của các cống tiêu tự chảy bị suy giảm nên diện tích úng gặp năm mưa lớn diện tích úng
còn tới 240.000 ha. Trong mấy năm qua đã bổ sung thêm các công trình tiêu để đảm bảo
tiêu với hệ số 3,5 - 4,5 l/ s/ ha (thậm chí có vùng phải tăng hệ số tiêu lên tới 5,5 - 6,0 l/ s/
ha) như các công trình cống Lân 2, trạm bơm Vân Đình, Quế, Lạc Tràng, Minh Lân, Gia
Viễn, Triều Dương đã đưa năng lực tưới tiêu trên 800.000 ha, giảm diện tích còn bị úng
xuống 60.000 ha.
Hiện nay ở đồng bằng sông Hồng tiêu bằng bơm điện chiếm trên 50% diện tích tiêu
úng.
Do lượng mưa ngày càng tăng, diện tích đô thị hoá và hạ tầng cơ sở cũng tăng lên
nhanh chóng, đặc biệt là các khu đô thị như Hà Nội và vùng phụ cận, nên tiêu nước còn là
nhiệm vụ nặng nề.
Vấn đề lũ sông Hồng vẫn còn là hiểm hoạ thường xuyên đe doạ. Nhiệm vụ hộ đê,
củng cố, bồi trúc, nâng cao trình đê ra khơi thông dòng chảy, đặc biệt là hạ lưu sông Thái
Bình cần được đầu tư thoả đáng. Đồng thời cần sớm xúc tiến xây dựng công trình trên
sông Lô Gâm để hạ mức chống lũ ở Hà Nội xuống thấp hơn nữa.
3
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các công trình tưới ở châu thổ sông Hồng được thiết kế với mức bảo đảm 75%. Sau
khi có hồ Hoà Bình và hồ Thác Bà điều tiết có những diễn biến thuận lợi cho các công
trình lấy nước tự chảy, do đó mức bảo đảm tưới cũng có thể cũng tăng thêm, vì vậy các hệ
thống tưới tiêu cũng phải thích nghi với các diễn biến mới.
Phù Sa sông Hồng có lượng N, P và K đáng kể nên việc lấy sa để thâm canh là yêu
cầu mới cần được nghiên cứu thực hiện.
1.1.2 Đồng bằng sông Cửu Long.
Công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Sông Cửu Long đã làm bật dậy tiềm năng của đồng
bằng sông Cửu Long và tiềm năng này còn tiếp tục được mở rộng và phát huy nếu các
công trình thuỷ lợi được tiếp tục đầu tư ngày càng cao. Với 3 chương trình trọng điểm
Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và Tây sông Hậu đã biến vùng này từ một vụ lúa
mùa nổi năng suất thấp nhất thành hai vụ Đông xuân và Hè thu năng suất cao.
Thành công của công tác thuỷ lợi ở đồng bằng sông Cửu Long là đã định hình được
hệ thống kênh trục tạo nguồn nước ngọt, tiêu chua, xả phèn với 6700 km kênh chính,
3000 km kênh nội đồng, 3000 km đê ngăn mặn và hàng chục vạn máy bơm dầu của dân.
Đó chính là cơ sở hạ tầng quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng đa
dạng hoá cây trồng....đóng góp một cách có hiệu quả vào chương trình nước sạch và vệ
sinh nông thôn.
Giải pháp chống lũ đồng bằng sông Cửu long mới được phê duyệt đầu năm nay,
chưa đi vào thực hiện cho nên đây là một hạn chế lớn đối với kế hoạch phát triển đồng
bằng sông Cửu Long. Khả năng tăng vụ ở vùng lũ ngập sâu là khó thực hiện.
Lũ không những hạn chế khả năng phát triển sản xuất mà còn gây khó khăn cho tổ
chức đời sống văn hoá xã hội ở các vùng ngập sâu.
Ngoài lũ vấn đề sạt lở các vùng dân cư dọc sông cũng được coi như thiên tai có thể
gây tổn thất lớn về người và của gây tâm lý bất ổn định cho các vùng dân cư dọc sông.
Những thành tích của thuỷ lợi ở đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ là bước đầu,
bước thử nghiệm giữa con người và thiên nhiên có thể có những diễn biến phức tạp cần
được theo dõi và tiếp tục giải quyết. Đặc biệt là những tác động từ thượng lưu đổ xuống
chưa được xem xét đầy đủ.
1.1.3 Các tỉnh miền Trung.
Miền Trung là vùng xảy ra thiên tai thường xuyên (hạn hán, gió nóng, bão lũ...)
Đảng và Nhà nước tập trung đầu tư với tỷ lệ cao, có những công trình có quy mô lớn. Đến
nay năng lực thiết kế của các tỉnh là 665049 ha đã huy động được 445.100 ha. Sông suối
miền Trung ngắn dốc trực tiếp đổ ra biển nên mùa lũ, lũ ác liệt lên nhanh, mùa kiệt thì
khô hạn và kéo dài 8 tháng, nguồn nước mùa kiệt không đủ cấp để làm hai vụ Đông xuân
4
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và Hè thu. Vì vậy nhiều hồ chứa và đập dâng đã được xây dựng cùng với hệ thống kênh
mương phục vụ nông nghiệp. Đập Bái Thượng, hồ sông Mực, hồ Yên Mỹ (Thanh Hoá), Đô
Lương, vực Mẫu, Diễn Thành (Nghệ An), Kẻ Gỗ, Nghi Xuân, Linh Cảm (Hà Tĩnh), Mỹ Trung,
Cẩm Ly, Vực Tròn ,vệ Vừng (Quảng Bình) ...Hệ thống bơm điện đồng bằng sông Thu Bồn,
An Trạch, hồ Phú Ninh, khe Tân (Quảng Nam - Đà Nẵng), Liệt Sơn, Thạch Nhan (Quảng
Ngãi), Tân An, Đập Đá, hồ Núi Một (Bình Định) Đồng Can (Phú Yên), Đá Bàn (Khánh Hoà),
sông Ông, Nha Trinh, Lân Cấm (Ninh Thuận), sông Quao (Bình Thuận). Như vậy hầu như
ở hệ thống sông nào ở miền Trung cũng có hệ thống công trình thuỷ lợi hoặc là hồ chứa,
hoặc là đập dâng hoặc hệ thống trạm bơm. Nước cho mùa kiệt là yêu cầu bức thiết cho
phát triển nông nghiệp miền Trung nhất là từ sau khi chuyển phần quan trọng diện tích
lúa Mùa sang lúa Hè thu. Công tác thuỷ lợi ở miền Trung có ý nghĩa không chỉ cho sản
xuất nông nghiệp mà còn tạo sự chuyển biến toàn diện nhất là cải thiện điều kiện sống,
cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường. Tuy nhiên do thiếu vị trí xây dựng các hồ để trữ
nước theo mùa kiệt, nhiều con sông dòng chảy cơ bản vào mùa kiệt không còn làm cho
vùng cửa sông bị suy thoái, mặn xâm nhập sâu vào nội địa làm suy thoái hệ sinh thái vùng
cửa sông.
Ở các tỉnh Quảng Bình trở vào chưa có hệ thống đê, giải pháp chính là tránh lũ và
thích nghi với lũ ở mức độ khác nhau. Nhưng đối với hạ tầng cơ sở, nhất là các tuyến giao
thông sắt, bộ Bắc Nam phải đầu tư nâng cấp các công trình thoát lũ mới có thể giảm
được tổn thất hàng năm do tắc nghẽn hoặc bị lũ làm hư hại. Điển hình là trận lũ lịch sử
cuối năm 1999 vừa qua đã làm hư hại nặng nề một đoạn đường dài thuộc tuyến đường
Bắc Nam gây tắc nghẽn về giao thông.
Vậy việc đầu tư cho thuỷ lợi và phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai ở miền
Trung còn đòi hỏi nhiều cố gắng và tập trung hơn nữa.
1.1.4 Miền núi phía Bắc.
Miền núi phía Bắc là vùng có ý nghĩa chiến lược về kinh tế quốc phòng và an ninh,
song cũng là vùng nghèo nhất và khó khăn nhất. Trong nhiều năm đầu tư mới đảm bảo
tưới được 135000 ha Đông xuân và 240000 ha vụ Mùa. Những hệ thống thuỷ lợi lớn như
hồ Núi Cốc (Bắc Thái) tưới 9000 ha, hồ Pa Khoang (Lai Châu) tưới 3000 ha, hệ thống Chờ
Lồng (Sơn La) tưới 400 ha, hồ Bảo Linh (Bắc Thái) tưới 1000 ha, Trúc Bãi Sơn ( Quảng
Ninh) 2200 ha, hồ Yên Lập (Quảng Ninh) tưới 2000 ha, các hồ Cấm Sơn (Hà Bắc). Hàng
loạt các hồ chứa nước nhỏ đang được xây dựng như Như Xuyên (Tuyên Quang), Nậm
Công (Sơn La) Năng Phai (Yên Bái) Đầm Bài (Hoà Bình), Hồng Đạc (Cao Bằng), Cao Lan
(Lạng Sơn).
5
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương trình nước ăn vùng cao có một bước tích cực, đã giải quyết được một số
vùng như Lục Khu (Cao Bằng), một số huyện ở Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu song mới chỉ
giải quyết được trên 30 vạn người trên số 1,2 triệu người.
Đặc điểm của thuỷ lợi miền núi là rất khó khăn, công trình nhỏ, phân tán, tạm bợ
nên xuống cấp nhanh, sau mỗi mùa lũ bị hư hỏng nặng nề. Do rừng bị phá nhiều nên đã
tạo ra lũ quét gây cạn kiệt, xói mòn, gây tổn thất lớn về người và của ở một số vùng. Hiện
chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục.
1.1.5 Tây Nguyên.
Tây Nguyên có tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng, có tập đoàn cây công
nghiệp tập trung giá trị cao. Công trình thuỷ lợi ở đây chủ yếu là hồ chứa nước vừa và
nhỏ. Đến nay đã có 400 hồ chứa nước vừa và nhỏ đủ tưới cho 30.000 ha lúa Đông xuân,
50.000 ha lúa Mùa, 20.000 ha cây công nghiệp. Do diện tích cà phê mấy năm nay tăng lên
nhanh chóng, hiện nay toàn Tây Nguyên có hơn 150.000 ha cà phê nên việc sử dụng nước
ngầm để tưới cho cây cà phê phát triển một cách tự phát dẫn đến hiệu quả ở một số vùng
dân cư, mực nước ngầm suy giảm, suy giảm cả dòng chảy kiệt, làm cho thiếu nước sinh
hoạt nghiêm trọng. Muốn phát triển và thâm canh cà phê phải có nước, phải làm thuỷ lợi.
Nhiều công trình hồ chứa đang được gấp rút hoàn thành phục vụ phát triển Tây Nguyên
như Yaun Ha (Gia Lai) 13500 ha, Đa Tể (Lâm Đồng) 2300 ha, Easup (Đắc Lăc) 2000 ha,
Đắc Cấm, Đắc Hmiêng...
Tiềm năng đất của Tây Nguyên rất lớn, đặc điểm khí hậu thuận lợi hơn nhiều vùng
khác, tài nguyên nước không ít, mùa hạn ngắn nhưng khắc nghiệt, khô hạn do địa hình
cao và chia cắt, mực nước ngầm thấp, vùng phát triển cây cà phê chủ yếu nằm ở đầu
nguồn, các sông suối nhỏ nên mùa khô dễ thiếu nước, các loại cây trồng có nhu cầu nước
cao đều tập trung vào vụ Đông xuân, tổn thất do thấm và bốc hơi cao. Vì vậy xây dựng các
hồ chứa nhỏ và vừa để trữ nước cho mùa khô là cần thiết.
1.1.6 Đông Nam Bộ.
Đông Nam Bộ hiện nay cũng như trong tương lai sẽ là vùng kinh tế phát triển nhất
nước, GDP bình quân đầu người cao nhất và tích luỹ nội bộ cũng như tái đầu tư cũng sẽ
cao nhất nước. Lưu vực Đồng Nai cũng như các chi lưu có vị trí đặc biệt quan trọng
trong cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất năng lượng, bảo vệ môi trường
sinh thái cho một vùng đông dân. Kinh tế công nông nghiệp và dịch vụ phát triển nhất
nước. Hồ Dầu Tiếng, Trị An và Thác Mơ là những hồ chứa nước lớn điều tiết nước mùa
khô cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là tam giác công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh,
Bà Rịa, Vũng Tàu. Tới nay đã tưới được 215.000 ha lúa, 62000 ha cây công nghiệp và
màu.
6
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hồ Dầu Tiếng đang tiếp tục phát huy hiệu quả vùng mía đường Tây Ninh. Quy
hoạch tổng thể sông Đồng Nai đã được nghiên cứu, hàng loạt hồ chứa thuỷ điện được xây
dựng vừa phát điện vừa điều tiết dòng chảy mùa kiệt, vừa chuyển nước cho các vùng phụ
cận phía Đông (Ninh Thuận và Bình Thuận) và phía Tây (Long An, Sài Gòn).
Vấn đề chất lượng nước đối với sông Đồng Nai sẽ là vấn đề lớn nhất là khi công
nghiệp và đô thị phát triển. Đây cũng là tiềm năng đất trồng cây rất lớn, vì vậy quy hoạch
nông lâm, thuỷ sản và công nghiệp ở đây phải cân đối và xem xét kỹ. Nước cho công
nghiệp, đô thị và bảo vệ môi trường sinh thái phải là vấn đề số 1.
Nói tóm lại cả 6 vùng công tác thuỷ lợi đã được triển khai đúng hướng phục vụ kịp
thời cho sản xuất nông nghiệp và là biện pháp hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp, góp
phần xứng đáng vào việc thực hiện mục tiêu sản xuất lương thực, góp phần giải quyết
cấp nước sinh hoạt đô thị, công nghiệp và nông thôn, phòng chống lụt bão và giảm nhẹ
thiên tai, phục vụ kịp thời các chương trình lớn của đất nước.
1.2 Thực trạng quản lý sử dụng các công trình thuỷ lợi.
Hệ thống công trình thuỷ lợi đi vào hoạt động muốn đem lại hiệu quả cao thì nhất
thiết phải cần có cơ quan quản lý sử dụng các công trình với công tác quản lý sử dụng
công trình thuỷ lợi ở nước ta ngày được nâng cao nên đã góp phần lớn thúc đẩy sự phát
triển nông nghiệp như hiện nay. Tuy nhiên công tác quản lý công trình còn nhiều hạn chế,
công trình xuống cấp nhanh, làm việc kém an toàn, kém hiệu quả.
Trong công tác quản lý khai thác công trình còn nặng về khai thác chưa chú trọng
đúng mức đến việc sửa chữa nâng cấp thường xuyên, công tác quản lý theo các quy trình
quy phạm kỹ thuật chưa được coi trọng đúng mức. Công tác bảo vệ công trình cũng còn
nhiều thiếu sót, tình hình xâm hại các công trình thuỷ lợi còn xảy ra nhưng chưa có sự
phối chặt chẽ với chính quyền địa phương quan tâm xử lý.
Việc quản lý phân phối nước còn yếu kém, tình hình lãng phí nước xảy ra nghiêm
trọng làm cho năng lực của công trình giảm (hiện nay chỉ đạt 60% công suất so với nhiệm
vụ thiết kế). Điều này càng làm tăng chi phí quản lý vận hành của các khu tưới.
Quản lý kinh tế: Nguồn thu chủ yếu của các Công ty thuỷ nông là thuỷ lợi phí, tuy
nhiên thực tế thu được chỉ đạt gần 30% yêu cầu. Vì vậy tình hình tài chính của các Công
ty này rất khó khăn. Cách chi hiện nay ở các Công ty không theo tiêu chuẩn định mức mà
theo kiểu “gọt chân theo giầy”, số tiền từ các nguồn thu chỉ đủ chi các chi phí bắt buộc
như: Tiền lương, tiền điện, hư hỏng tại chỗ, chi quản lý, còn các khoản chi đại tu, sửa
chữa thường xuyên, chống xuống cấp khó thực hiện được. Vì thế công trình hoạt động
càng kém hiệu quả. Đời sống của cán bộ công nhân viên quản lý các công trình ngày càng
gặp khó khăn.
7
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiện nay chúng ta có 146 Công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, 166 trạm
quản lý và 491 cụm quản lý với tổng số 16000 người. Theo nghị quyết của Hội đồng Bộ
trưởng, hiện nay các công ty được tổ chức quản lý theo hệ thống thuỷ nông, có hệ thống
được tổ chức theo đơn vị, huyện, tỉnh. Nhìn chung do mới trải qua một thời kỳ dài bao cấp
nên khi chuyển sang cơ chế mới, các Công ty hoạt động kém năng động và sáng tạo.
II-/ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI NHỮNG NĂM QUA.
1-/ Tình hình đầu tư vào thuỷ lợi.
Lịch sử hình thành và phát triển ngành thuỷ lợi nước ta gắn liền với lịch sử dựng
nước và phát triển của dân tộc đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, tạo cơ sở bảo đảm ổn định và phát triển nền nông nghiệp trên phạm vi cả
nước. Ngày miền Nam mới giải phóng ngành thuỷ lợi đứng trước những thử thách rất
lớn. Các hệ thống thuỷ lợi quan trọng ở miền Bắc đều bị đánh phá, phải khôi phục để đảm
bảo sản xuất của vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh khu bốn cũ, với diện tích tưới
gần 500.000 ha, tiêu úng trên 300.000 ha. Ở miền Nam đồng ruộng bị tàn phá, sản xuất
nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, nhu cầu bức bách của hàng triệu nông dân trở về
với ruộng đồng đòi hỏi công tác thuỷ lợi phải tìm giải pháp kịp thời khôi phục sản xuất,
vừa phải định ra các bước phát triển kinh tế đất nước. Với chủ trương “Thuỷ lợi là biện
pháp kỹ thuật hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp” ngay những lúc gặp thử thách gay
go nhất của nền kinh tế nhưng đầu tư thuỷ lợi vẫn duy trì được mức 8 - 10% ngân sách
đầu tư chung. Cụ thể trong thời kỳ 1976 - 1995 chúng ta đã đầu tư vào thuỷ lợi là
6989,493 tỷ đồng, trong đó vốn do Trung ương quản lý là 4234,844 tỷ đồng, vốn địa
phương là 2754,649 tỷ đồng. Như vậy trong các thời kỳ này vốn ngân sách quản lý chiếm
60,58% tổng vốn đầu tư vào thuỷ lợi.
Với tổng số vốn đầu tư này được phân cho từng giai đoạn nhỏ tuỳ thuộc vào nhu
cầu cần đầu tư từng giai đoạn. Số liệu được biểu hiện cụ thể ở biểu 1:
8
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
BIỂU 1 - TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CHO THUỶ LỢI THỜI KỲ 1976 - 1995
Đơn vị: Tỷ đồng
Các thời kỳ
Tổng số
vốn đầu
tư
Chia theo cấp quản lý Trong tổng số Tốc độ phát triển qua các thời kỳ
Trung
ương
Tỷ trọng
so với
tổng vốn
đầu tư
Địa
phương
Tỷ trọng
so với
tổng vốn
đầu tư
Thuỷ
nông
Tỷ trọng
so với
tổng vốn
đầu tư
Đê điều
Tỷ trọng
so với
tổng vốn
đầu tư
81-85/
76-80
(%)
86-90/
76-80
(%)
91-95/
76-80
(%)
1976 - 1995 6989,493 4234,844 60,58 2754,649 39,42 5372,285 76,86 1128,679 16,15
88 76 390
1976 - 1980 1067,36 536,57 50,27 530,79 49,73 834,39 78,22 56,68 5,31
1981 - 1985 939,76 553,11 58,86 386,65 41,74 809,39 86,13 77,73 8,27
1986 - 1990 814,349 467,392 57,39 346,957 42,61 713,395 87,6 71,089 8,73
1991 - 1995 4168,024 2677,772 64,25 1490,252 35,75 3014,6 72,33 923,19 22,15
Nguồn: Số liệu thống kê thuỷ lợi Việt Nam 1976 - 1995
9
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua biểu 1 ta thấy trong thời kỳ 1976 - 1995 được chia ra thành những khoảng thời
gian 1976 - 1980, 1981 - 1985, 1986 - 1990, 1991 - 1995, với mỗi khoảng thời gian này có
mức vốn đầu tư khác nhau. Trong giai đoạn 1976 - 1980 do đất nước vừa giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, cơ sở vật chất thuỷ lợi bị chiến tranh tàn phá lên để khôi
phục lại Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư vốn rất cao là 1067,36 tỷ đồng, tiếp theo
là các giai đoạn 1981 - 1985, 1986 - 1990 với số vốn đầu tư là 939,76 tỷ đồng và 814,349
tỷ đồng giảm đi so với giai đoạn 1976 - 1980.
Đến giai đoạn 1991 - 1995 thì vốn đầu tư vào thuỷ lợi là 4168,024 tỷ đồng chiếm
59,63% tổng vốn đầu tư thời kỳ 1976 - 1995. Chính vì vậy mà tốc độ phát triển vốn trong
giai đoạn 1991 - 1995 so với 1976 - 1980 tăng 2,9 lần với số vốn đầu tư đó thì chủ yếu tập
trung đầu tư vào thuỷ nông chiếm 76,86% trong cả thời kỳ, đầu tư vào đê điều chiếm
16,15% tổng vốn đầu tư.
Với phương châm nông nghiệp vẫn là ngành mũi nhọn cho nên vốn xây dựng cơ bản
trong nông nghiệp vẫn được tập trung đầu tư cao trong đó vốn đầu tư cho thuỷ lợi chiếm
một phần lớn được thể hiện ở biểu 2.
BIỂU 2 - TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VÀ CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CỦA NHÀ
NƯỚC TRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP.
Mục
1990 1995 1996 1997 1998
VĐT (tỷ
đ)
Tỷ
trọng
(%)
VĐT
(tỷ đ)
Tỷ
trọng
(%)
VĐT (tỷ
đ)
Tỷ
trọng
(%)
VĐT (tỷ
đ)
Tỷ
trọng
(%)
VĐT (tỷ
đ)
Tỷ
trọng
(%)
Tổng số 409,2 100 1140 100 1241,3 100 2981,2 100 3267,4 100
1. Trồng trọt 92,2 22,6 314 27,5 279,5 22,5 294,4 9,9 378,3 11,6
2. Chăn nuôi 16,9 4,1 40 3,5 84,6 6,8 241,3 8,1 323,6 9,9
3. Trạm máy kéo 0,36 0,008 - - 36,9 2,97 230,8 11,6 254,3 7,8
4. Thuỷ lợi 299,74 73,3 786 69 840,6 67,7 2214,7 70,4 2311,2 70,7
Nguồn: Số liệu nông lâm ngư nghiệp Việt Nam 1998.
Qua bảng trên ta thấy với sự quan tâm đến phát triển thuỷ lợi, coi thuỷ lợi là biện
pháp hàng đầu để phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nên
với vốn đầu tư vào nông nghiệp thì thuỷ lợi chiếm tỷ trọng rất cao. Năm 1990 chiếm
73,3% vốn đầu tư vào nông nghiệp với số vốn là 299,74 tỷ đồng, tiếp theo các năm 1995 -
1998 số tuyệt đối vốn đầu tư tiếp tục tăng lên so với năm 1990, như năm 1998 tăng so với
năm 1990 là 2011,5 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu tư vào thuỷ lợi trong nông nghiệp là cao
mặc dù những năm 1995 - 1998 tỷ trọng của nó có giảm đi so với năm 1990, năm 1995
chiếm 69%, năm 1996 chiếm 67,7%, năm 1997 chiếm 70,4%, năm 1998 chiếm 70,7%. Vốn
đầu tư cho công tác thuỷ lợi hàng năm nêu trên chủ yếu nhằm khôi phục hệ thống công
10
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình thuỷ lợi cũ, xây dựng các công trình thuỷ lợi mới phục vụ sản xuất nông nghiệp từ
đó tiến hành quản lý khai thác hệ thống các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông
nghiệp.
Vậy mặc dù với nguồn vốn còn hạn hẹp trong điều kiện nền kinh tế còn rất khó khăn
nhưng Nhà nước đã rất quan tâm tập trung lượng vốn lớn để đầu tư vào thuỷ lợi.
Trong năm 1991 vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngành thuỷ lợi là 468,871 tỷ đồng
chiếm 11% tổng vốn đầu tư trong cả nước sang tới năm 1995 vốn đầu tư xây dựng cơ
bản là 1322,850 tỷ đồng chiếm 8,6% vốn đầu tư trong cả nước. Như vậy vốn đầu tư năm
1995 tăng 2,8 lần so với năm 1991.
Trong hai năm 1996 - 1997 tổng số vốn đầu tư vào thủy lợi là 3646,300 tỷ đồng
trong đó vốn đầu tư do Trung ương quản lý là 3015,600 tỷ đồng, địa phương quản lý là
630,7 tỷ đồng. Như vậy chỉ trong hai năm 1996 - 1997 tổng vốn đầu tư chiếm 87% so với
thời kỳ 1991 - 1995 (4.168,024 tỷ đồng). Riêng vốn Trung ương đạt 112% vốn địa
phương đạt 42% vốn đầu tư thời kỳ 1991 - 1995.
Tiếp sang năm 1999 tổng vốn đầu tư là 2962,657 tỷ đồng trong đó vốn Trung ương
quản lý là 2396,757 vốn địa phương quản lý 565,9 với lượng vốn đầu tư này thì nó đạt
170% so với năm 1998 (đầu tư 1409,270 tỷ đồng). Với số vốn đầu tư này nhằm đầu tư
đảm bảo an toàn đê điều, phục hồi nâng cấp các công trình đã có, chú ý phát triển các
công trình vừa và nhỏ, ở các vùng miền núi, Tây Nguyên nhằm ổn định dân cư, xoá đói
giảm nghèo, đẩy nhanh tiến độ công trình các hồ chứa nước ở miền Trung, Đông Nam Bộ
và các vùng kinh tế trọng điểm. Tập trung đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm
hoàn thành dứt điểm công trình đưa vào sử dụng.
Lượng vốn đầu tư năm 1999 được bố trí như sau: Xây dựng cơ bản đê điều phòng
chống lũ lụt 557,4 tỷ đồng gồm vốn đầu tư thường xuyên là 171,4 tỷ đồng, vốn đê Hà Nội
vay ADB 116,3 tỷ đồng và dự án PAM 5325 cho đê biển miền Bắc là 269,7 tỷ đồng. Các
mục tiêu khác như: phục hồi nâng cấp các công trình đã có, thúc đẩy thi công các công
trình trọng điểm là 1886 tỷ đồng bằng 62% so với đầu tư vào thuỷ nông và bằng 198% so
với năm 1998 (950 tỷ đồng).
Bố trí 199,5 tỷ đồng vốn đối ứng trong nước đảm bảo yêu cầu giải ngân thúc đẩy
tiến độ thực hiện dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện cam kết giữa Việt Nam và tổ
chức Quốc tế tài trợ, bổ sung nguồn cân đối.
Bố trí 309,755 tỷ đồng đảm bảo đủ vốn cho 42 công trình hoàn thành phát huy hiệu
quả trong năm, bằng 135% so với năm 1998 (31 công trình).
Với sự phân bổ vốn đầu tư như trên thì tình hình thực hiện công tác đầu tư xây
dựng cơ bản thuỷ lợi như sau:
11
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Xây dựng cơ bản đê điều: Kế hoạch tu bổ đê điều thường xuyên năm 1999 bằng
nguồn vốn ngân sách được triển khai trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của thường vụ Bộ Chính trị
và của Thủ tướng Chính phủ nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn hệ thống đê điều Đồng
bằng sông Hồng giai đoạn 1999 - 2000, củng cố đê điều phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra và hỗ
trợ tu bổ đê biển các tỉnh miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Định. Trong năm đã tập
trung khắc phục hậu quả thiên tai hai năm 1998, 1999 và triển khai hoàn thành khối
lượng đắp đê làm kè, cống đạt và vượt kế hoạch được giao. Trong kế hoạch đã quan tâm
bố trí triển khai chương trình nghiên cứu phòng chống lũ Đồng bằng Sông Hồng, cải tạo
hệ thống đóng mở đập đáy, lập dự án xây dựng tràn sự cố trên các tuyến đê phân lũ,
khoan phụt vữa gia cố đê tả Đáy thuộc khu vực Sơn Tây...
Các dự án đầu tư năm 1999 được phê duyệt sớm hơn 1 tháng so với các năm trước,
đã tạo điều kiện cho nhiều địa phương triển khai thực hiện ngay từ quý 4 năm 1998.
Những sự cố phát sinh trước lũ đã kịp thời phát hiện và được xử lý ngay. Một số
công trình trọng điểm có khối lượng và kinh phí đầu tư lớn, chưa cân đối cấp đủ vốn đầu
năm đều được các đơn vị thi công và các địa phương ứng vốn hoàn thành đúng tiến độ
như đê Đà Giang (Hoà Bình), kè Thanh Miện (Phú Thọ), kè Bồ Xuyên (Thái Bình). Một số
tiến bộ công nghệ mới đã được áp dụng thử nghiệm như kè mảng bê tông liên kết mềm
Linh Chiểu, rồng vải lọc lõi cát hộ chân kè Cẩm Đình, kè Hàm Tử...
Đã tổ chức đấu thầu 18 công trình với kết quả tiết kiệm được 3,3 tỷ đồng.
Thực hiện cả năm về kế hoạch tu bổ đê điều thường xuyên 171,4/171,4 tỷ đồng đạt
100% kế hoạch năm và bằng 110% kế hoạch giao đầu năm.
- Công tác sửa chữa nâng cấp hệ thống công trình thuỷ nông: Thực hiện nhiệm vụ
được giao cục quản lý nước và công tác thuỷ lợi đã chỉ đạo các địa phương thi công, sửa
chữa 36 công trình với tổng số vốn trên 159 tỷ đồng (không kể vốn sửa chữa nâng cấp các
hệ thống thuỷ nông lớn thuộc các dự án ADB1, ADB2, WB).
Việc sửa chữa nâng cấp các công trình thuỷ nông thường rất phức tạp do công
trình chìm sâu dưới nước, khuất trong thân đập nhưng các đơn vị thiết kế thi công đã có
nhiều cố gắng tìm ra nguyên nhân hư hỏng để sửa chữa, vừa đảm bảo phục vụ sản xuất.
Một số công trình có nguy cơ mất an toàn sau khi được sửa chữa đảm bảo an toàn
hơn về mặt ổn định, tích nước và phục vụ sản xuất có hiệu quả hơn trước như hồ Kim
Sơn, Cù Xây (Hà Tĩnh), Pa Khoang (Lai Châu)... Đáng chú ý là công tác tu sửa khắc phục
hậu quả các công trình thuỷ lợi bị hư hại, sau lũ bão trong cả nước, đặc biệt là ở miền
Trung trong năm 1999 đã được khẩn trương thực hiện. Hồ Phú Ninh (Quảng Nam) do
được tập trung sửa chữa lớn kịp thời, đã chủ động việc điều tiết nước giữ vững an toàn
tuyệt đối công trình sau đợt mưa lũ thế kỷ vừa qua trong tháng 11 - 1999.
12
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Công tác đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi: Với số vốn đầu tư hợp lý nên nhiều
công trình thuỷ lợi đã hoàn thành và đi vào hoạt động đã đem lại hiệu quả ngay cho hoạt
động sản xuất và đời sống.
Vậy qua đây đã thể hiện Nhà nước đã tập trung lượng vốn đầu tư cho thuỷ lợi là rất
lớn chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư vào nông nghiệp lượng vốn đầu tư mỗi năm được
tăng lên (ví dụ năm 1999 đầu tư 2962,657 tỷ đồng, năm 1998 đầu tư 1742,15 tỷ đồng,
như vậy vốn đầu tư năm 1999 bằng 170% năm 1998). Ngoài ra còn thể hiện rõ vốn đầu
tư từ ngân sách Nhà nước cho thuỷ lợi hàng năm chiếm từ 8 - 10% ngân sách đầu tư của
cả nước (năm 1995 chiếm 9,7% năm 1996 chiếm 8,1% năm 1997 chiếm 8,03%, năm 1998
chiếm 11,6% năm 1999 chiếm 10,4%)
Vậy để đầu tư vào thuỷ lợi thì vốn cần huy động phần lớn từ ngân sách, vốn tín
dụng, nguồn vốn nhân dân đóng góp đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi nhỏ, vốn vay ADB,
PAM...
2-/ Tình hình thực hiện đầu tư giữa các vùng.
Trong giai đoạn 1995 - 1999 với tổng vốn đầu tư là 9372,957 tỷ đồng được phân
cho các năm và từng vùng kinh tế tuỳ theo nhu cầu từng vùng có sự khác nhau tuỳ thuộc
vào đặc điểm khí hậu từng vùng, diện tích canh tác gieo trồng. Cụ thể số vốn đó được
phân chia như sau:
Đồng bằng và Trung du Sông Hồng đầu tư 1782 tỷ đồng.
Duyên hải miền Trung 1728,928 tỷ đồng.
Bắc Trung Bộ 1663,619 tỷ đồng.
Đồng bằng sông Cửu Long 1428,718 tỷ đồng.
Tây Nguyên 1157,857 tỷ đồng.
Đông Nam Bộ 1102,814 tỷ đồng.
Miền núi phía Bắc 1009,021 tỷ đồng.
Để chi tiết hơn tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngành thuỷ lợi 5
năm 1995 - 1999 với số vốn đầu tư từng năm bao nhiêu phân theo cấp quản lý bao nhiêu
của toàn ngành, phân chia cho các vùng như thế nào thì biểu 3 sẽ thể hiện chi tiết điều đó.
13
13