Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Một số vấn đề đầu tư phát triển thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.29 KB, 85 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với việc tăng trưởng và phát triển mọi mặt trong nông nghiệp
nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm thì ở nhiều nước trên thế giới
sự phát triển thuỷ lợi đã trở thành quy mô quốc gia.
Đối với các nước phát triển cơ sở vật chất thuỷ lợi được đầu tư rất cao,
khoảng 10.000 USD/ ha. Vì đầu tư cao như vậy nên các công trình thuỷ lợi
đầu mối không những là những công trình vững chắc về mặt kỹ thuật mà là
những công trình mỹ thuật có kiến trúc hiện đại...Do đó ở những nước này
sản xuất nông nghiệp phát triển rõ rệt, năng suất cây trồng và vật nuôi tăng.
Tất cả các nước Đông Nam Á đều rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển
thuỷ lợi nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết về lương thực thực phẩm do sức ép
của sự gia tăng dân số. Những nước này đưa ra chiến lược phát triển thuỷ lợi
là đầu tư chiều sâu để phát huy hết hiệu quả của các công trình hiện có.
Ở Việt Nam, trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, nông nghiệp nước ta
vẫn phát triển với 80% dân số làm nghề nông, năm nào mất mùa thì năm ấy
sự phát triển của xã hội lại chao đảo “Nông suy, bách nghệ bại”. Nhưng trọng
tâm của nông nghiệp là sản xuất lương thực không thể thiếu vai trò của nước.
Nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa là
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Do vậy trong chiến tranh cũng như
trong hoà bình, khi đất nước gặp nhiều khó khăn công tác thuỷ lợi vẫn được
Đảng và Nhà nước tập trung đầu tư cùng với sự đóng góp to lớn của nhân dân
nên đã đạt được thành tích quan trọng, góp phần vào những chuyển biến và
thành công của sản xuất nông nghiệp, biến đổi nông thôn, phòng ngừa thiên
tai, bảo đảm an toàn cho nhiều khu vực. Cũng vì thế mà thuỷ lợi luôn được
nhấn mạnh là “ biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp”
Thấy được ý nghĩa quan trọng hàng đầu của thuỷ lợi đối với nông nghiệp,
Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và đầu tư nhiều vào thuỷ lợi nên đã
thu được một số kết quả cao trong sản xuất nông nghiệp, phòng ngừa thiên tai,
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong quá trình đầu tư vào thuỷ lợi ở nước ta còn
một số hạn chế do thiếu vốn đầu tư, khoa học công nghệ còn thấp. Để làm rõ
hơn tình hình đầu tư phát triển vào thuỷ lợi em đi vào đề tài: “ Một số vấn đề


đầu tư phát triển thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay”
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
1
* Mục đích nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần;
- Làm rõ những vấn đề lý luận, phương pháp luận về đầu tư, vai trò
nhiệm vụ của thuỷ lợi. Từ đó làm sáng tỏ sự cần thiết phải đầu tư vào thuỷ
lợi.
- Phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư phát triển thuỷ lợi ở nước ta
hiện nay.
- Đưa ra phương hướng và những giải pháp đầu tư phát triển thuỷ lợi.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp:
Là khái quát về công tác thuỷ lợi và tình hình hoạt động của ngành thuỷ
nông, các công trình thuỷ lợi nói chung, đi sâu tập trung nghiên cứu tình hình
đầu tư vào thuỷ lợi. Mặt khác đối tượng chủ yếu của thuỷ lợi nhằm phục vụ
nông nghiệp nên ta lấy các chỉ tiêu về sản lượng lương thực, các công trình
được thực hiện làm đối tượng phân tích trực tiếp.
* P hạm vi nghiên cứu.
Luận văn tốt nghiệp chỉ giới hạn nghiên cứu tình hình đầu tư phát triển thuỷ
lợi ở nước ta từ khi thực hiện đổi mới đến nay. Nghiên cứu những quan điểm,
phương hướng, một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển vào
thuỷ lợi.
Để nghiên cứu đề tài này luận văn đã sử dụng một hệ thống các phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ
sở lý luận, dựa vào nghị định và quan điểm của Chính phủ. Dùng phương pháp
phân tích hệ thống và phương pháp chuyên gia để đánh giá rút ra những mặt đã
làm được và còn tồn tại trong việc đầu tư phát triển thuỷ lợi ở nước ta hiện nay.
Thu thập thông tin tư liệu tài liệu tham khảo nghiên cứu và chọn lọc kinh
nghiệm của các nước với tư duy khoa học, khách quan và thực tiễn để đề xuất
kiến nghị những định hướng đổi mới nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư
phát triển Thuỷ lợi đem lại hiệu quả cao hơn.

* Kết cấu luận văn tốt nghiệp:
Ngoài lời nói đầu, kết luận luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương:
- Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển Thuỷ lợi.
2
- Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển Thuỷ lợi ở nước ta những năm
gần đây.
- Chương III: Phương hướng và giải pháp đầu tư phát triển Thuỷ lợi
trong thời gian tới.
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI.
I-/ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
1-/ Khái niệm hoạt động đầu tư phát triển.
1.1 Khái niệm đầu tư.
Đầu tư theo nghĩâ chung nhất được hiểu là “sự bỏ ra”, “sự hy sinh” các
nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt
được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
1.2 Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến
hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác. Là điều kiện chủ yếu để
tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội.
1.3 Khái niệm hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh
tế nói chung của địa phương ngành và của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch
vụ nói riêng.
2-/ Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển đối với nền kinh tế.
Theo các lý thuyết kinh tế và thực tiễn đã chứng minh rằng đầu tư phát
triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng

trưởng của mỗi quốc gia. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau
đây:
2.1 Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế đất nước.
2.1.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
2.1.1.1 Đầu tư tác động đến tổng cầu.
Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh
tế, đầu tư thường chiếm 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước
4
trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng
cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo
theo sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng. Hay
muốn tiến hành mua máy móc thiết bị thì phải có tiền để đầu tư và tiến hành
huy động các nguồn lực nhàn rỗi đang “nằm chết” trong dân vào hoạt động
kinh tế. Khi đó các tiềm lực này được khai thác và đã đem lại hiệu quả nhất
định nào đó như tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng ngoại tệ...
2.1.1.2 Đầu tư tác động đến tổng cung.
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào
hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản
lượng tiềm năng tăng và giá cả sản phẩm giảm. Khi đó tất yếu tiêu dùng tăng
lên. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa.
Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã
hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên
trong xã hội.
2.1.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Đầu tư giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên dù là tăng hay
giảm đầu tư thì đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu
tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá các
hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động vật tư)
đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lam phát. Đến lượt mình lạm phát

làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do
tiền lương ngày một thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại.
Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của
các ngành này phát triển thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp,
nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả những tác
động này tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển kinh tế.
Hay khi giảm đầu tư thì nó cũng có tác động hai mặt đến nền kinh tế mỗi
quốc gia. Một mặt, khi giảm đầu tư sản xuất của các ngành chậm phát triển do
thiếu vốn, giảm lực lượng lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đời sống
5
của người lao động cũng giảm...Mặt khác khi giảm đầu tư thì giá các hàng
hoá có liên quan không tăng, thậm chí còn giảm khi đó nó giảm được lạm
phát.
Như trên cho thấy đầu tư luôn có tác động hai mặt đến nền kinh tế, vì
vậy trên giác độ quản lý phải giảm tác động xấu, tăng tác động tích cực nhằm
duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
2.1.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng
trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt 15 - 25% so với GDP tuỳ
thuộc vào ICOR mỗi nước.
ICOR =
⇒ Mức tăng GDP =
Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn
đầu tư.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách của mỗi nước.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ
cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng lãnh thổ cũng như
phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách nói chung. Thông thường, ICOR
trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp. Do đó ở các nước phát

triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Ví dụ đầu tư /
GDP ở Mỹ năm 1965 là 12%, năm 1989 là 15% dẫn đến tăng trưởng 1965 -
1989 là 1,6 lần.
Ở Nhật: năm 1965 là 28%, năm 1989 là 33% dẫn đến tăng trưởng 1965 -
1989 là 4,3 lần.
Vậy với nước có tỷ lệ đầu tư / GDP lớn thì có tốc độ tăng trưởng cao.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như một cú hích
ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế, điều này đã được chứng minh
qua nền kinh tế của các nước NICs, các nước Đông Nam Á như Thái Lan,
Singapore...
6
Đối với Việt Nam, để đạt được mục tiêu đến năm 2000 tăng gấp đôi tổng
sản phẩm quốc nội theo dự tính của các nhà kinh tế cần một khối lượng vốn
đầu tư gấp 3,5 lần so với năm 1992, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt 24,7%.
2.1.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để
có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 - 10%) là tăng cường đầu
tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với
các ngành nông, lâm, ngư ngiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng
sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vậy,
chính sách đầu tư quyết định sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia
nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa
thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm
bàn đạp thúc đẩy các cùng khác cùng phát triển.
2.1.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là sự tiên quyết của
sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.

Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của
Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu
chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm
1990 ở giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là 1 trong 90 nước kém nhất về công
nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến
lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Muốn có công nghệ thì có hai con đường cơ bản đó là: tự nghiên cứu
phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài . Dù là tự nghiên
cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những
phương án không khả thi.
7
2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2.2. 1 Đầu tư quyết định sự ra đời của các cơ sở.
Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ nào thì phải có vốn đầu tư để xây dựng nhà xưởng,
cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc, tiến hành các công tác
xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong
một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra.
Vậy một cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ muốn ra đời thì phải có vốn
đầu tư vào các yếu tố cần thiết thì nó mới đi vào hoạt động.
2.2.2 Đầu tư quyết định sự tồn tại của cơ sở.
Khi doanh nghiệp ra đời và đi vào hoạt động, sau một thời gian các cơ sở
vật chất kỹ thuật sẽ bị hao mòn, hư hỏng,lạc hậu. Để duy trì được sự hoạt
động bình thường cần phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các
cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng
với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu
tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay
thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Để những công việc trên trở thành

hiện thực thì ta phải bỏ tiền ra để đầu tư. Khi đó đồng nghĩa với sự tồn tại của
các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản
thân mình) đang tồn tại để duy trì sự hoạt động ngoài tiến hành sửa chữa lớn
định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường
xuyên. Tất cả các hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
2.2.3 Đầu tư quyết định sự phát triển của các cơ sở.
Các cơ sở muốn ra đời, tồn tại thì phải cần có vốn đầu tư. Nhưng đối với
các doanh nghiệp không chỉ dừng lại đó mà muốn tạo ra sự phát triển tìm chỗ
đứng vững chắc trên thị trường vậy thì các doanh nghiệp lại tiếp tục phải có
vốn đầu tư vào khoa học công nghệ thích hợp, đào tạo cán bộ quản lý và công
nhân lành nghề, mở rộng các hoạt động quảng cáo, tiếp thị...
8
Vậy đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ.
II-/ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ LỢI.
1-/ Vai trò của thuỷ lợi đối với nền kinh tế.
1.1 Khái niệm về thuỷ lợi.
Thuỷ lợi là lĩnh vực kinh tế kỹ thuật rộng lớn gồm nhiều hoạt động đấu
tranh với tự nhiên để khai thác mặt có lợi của nguồn nước trên và dưới mặt
đất phục vụ sản xuất và đời sống đồng thời hạn chế những tác hại của nước
gây ra đối với sản xuất và đời sống.
2.2 Vai trò của thuỷ lợi đối với nền kinh tế.
Thực tiễn hiện nay đã chứng minh rằng, trên thế giới nước nào có hệ
thống thuỷ lợi đảm bảo thì nền sản xuất nông nghiệp của nước đó ổn định và
dần dần được nâng cao. Đối với các nước chậm phát triển thì hệ thống thuỷ
lợi của các ngành nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng đang là những
vấn đề nan giải, phức tạp liên quan đến cả kinh tế và xã hội. Cùng với việc
tăng trưởng và phát triển trong nông nghiệp nhằm đáp ứng mọi yêu cầu về
lương thực thực phẩm thì có nhiều nước trên thế giới sự phát triển của thuỷ

lợi đã trở thành quy mô quốc gia. Cụ thể Chính Phủ của các nước đã phát
động các chương trình tưới nước với mục tiêu chính là đảm bảo tự túc lương
thực và chương trình đó đã đạt được nhiều kết quả tốt do hệ thống thuỷ lợi
phục vụ tốt. Như vậy, trong nông nghiệp, thuỷ lợi có thể được định nghĩa như
là việc sử dụng kỹ thuật của con người để tăng và kiểm soát việc cung cấp
nước cho trồng trọt.
Ở nước ta cũng như ở nhiều nước trên thế giới, trong cơ cấu nền kinh tế
quốc dân, thuỷ lợi là một ngành kinh tế kỹ thuật có vị trí quan trọng. Công tác
thuỷ lợi được tiến hành với nhiều nội dung song có thể khái quát ở hai nội
dung chính cơ bản sau:
- Thuỷ lợi tiến hành trị thuỷ như đắp đê, đắp đập, đào sông để chỉnh trị
dòng chảy, phòng chống lũ lụt, bão nhằm khắc phục và giảm nhẹ thiên tai.
9
- Thuỷ lợi tiến hành công tác thuỷ nông như đào kênh, khơi nguồn, xây
dựng cầu, cống, mương máng...để phục vụ sản xuất nông nghiệp phục vụ dân
sinh và các ngành kinh tế khác, cải tạo và bảo vệ môi trường.
Với hai nội dung cơ bản trên của công tác thuỷ lợi thì thuỷ lợi đã thể
hiện vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế nếu không tiến hành trị
thuỷ thì hậu quả khôn lường sẽ diễn ra làm thiệt hại nặng nề về kinh tế cơ sở
hạ tầng vật chất cây lương thực sẽ bị nước lũ cuốn trôi, mặt khác nó còn tác
động rất xấu đến công tác môi trường...
Nội dung thứ hai của thuỷ lợi là tiến hành công tác thuỷ nông, thuỷ nông
là một ngành kinh tế kỹ thuật thực hiện chức năng quản lý, khai thác tài
nguyên nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực khác.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, thuỷ nông đã và sẽ đóng một vai trò làm
tăng trưởng sản lượng lương thực để thoả mãn nhu cầu của loài người cả
trong hiện tại và tương lai.
Toàn thế giới có 14% diện tích canh tác đươc tưới và 8,2% diện tích
được tiêu (tiêu cho cả diện tích phi canh tác), những giá trị sản phẩm nông
nghiệp thu được trên diện tích này chiếm 38% tổng giá trị nông nghiệp toàn

thế giới, hiện tại Việt Nam có 36,1% diện tích canh tác được tưới và 21,4%
được tiêu (tiêu cả trên diện tích phi canh tác) đã cho số sản phẩm nông nghiệp
thu được trên đó chiếm 68% tổng sản phẩm nông nghiệp.
Tuy mức độ phát triển thuỷ nông của thế giới, của một số khu vực cũng
như ở nhiều quốc gia còn ở mức độ thấp, nhưng sự phát triển đó chủ yếu được
thực hiện từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây. Vì vậy mặc dù dân số thế giới trong
vòng 40 năm qua từ (1960 - 1999) tăng gần 2 lần (khoảng 6 tỷ so với 3 tỷ) và
mặc dù hầu hết đất đai canh tác đã được loài người sử dụng song nhìn chung
lương thực bình quân đầu người của thế giới vẫn tăng nhanh hơn mức tăng
dân số. Trong thập kỷ 80, bình quân lương thực đầu người trên thế giới tăng
5% (loại trừ tình trạng thiếu lương thực cục bộ).
Viện nghiên cứu lúa quốc tế cho rằng, tăng tiềm năng sản xuất nông
nghiệp cuả trái đất rất lớn, chỉ cần đầu tư có hiệu quả vào nông nghiệp, trước
hết là khâu tưới, tiêu nó có thể đảm bảo nuôi sống 10 tỷ người. Như vậy vai
10
trò của thuỷ nông đối với sản xuất nông nghiệp là rất quan trọng được biểu
hiện cụ thể sau:
- Thứ nhất: Thuỷ nông là tiền đề mở rộng diện tích canh tác do việc
phát triển các hệ thống tưới và tiêu tạo ra các vùng đất canh tác mới.
- Thứ hai: Thuỷ nông là tiền đề làm tăng vụ do đó tăng diện tích gieo
trồng trên diện tích canh tác, tăng vòng quay của diện tích đất nông nghiệp.
-Thứ ba: Thuỷ nông góp phần thâm canh tăng năng suất cây trồng, thay
đổi cơ cấu cây trồng, góp phần nâng cao tổng sản lượng và giá trị tổng sản
lượng. Do cung cấp đủ lượng nước cho nhu cầu sinh trưởng và tiêu thoát kịp
thời đã làm cho năng suất cây trồng tăng thêm được từ 20 - 30% theo tài liệu
của FAO, các loại giống mới có tưới tiêu hợp lý đạt được 80 - 90% năng suất
thí nghiệm, nếu không chỉ đạt 30 - 40%. Đồng thời thuỷ nông cần dùng nước
để cải tạo đất thông qua việc thâu chua, phèn rửa mặn...làm tiền đề để áp dụng
dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật nông nghiệp nên đã làm cho
năng suất cây trồng tăng cao.

Như vậy sự đóng góp của thuỷ nông đối với sự phát triển của sản xuất
nông nghiệp đã được các nhà chuyên gia trên thế giới chỉ ra cụ thể như sau:
Trong các yếu tố nước, phân, giống và các yếu tố khác làm tăng sản
lượng lúa là 100% thì nước chiếm tỷ lệ cao nhất 25,5%; 22,2%; 22,1% và
30,2%. Và cũng chỉ ra mối tương quan giữa mức độ thuỷ lợi hoá với việc tăng
năng suất lúa diễn ra theo quan hệ mang tính chất tỷ lệ thuận. Các nước có
mức độ hoá 60% cho năng suất 6 tấn/ 1ha/ 1 năm và 40% cho 4 tấn/ 1ha/
1năm, còn 25% cho 2 tấn/ 1ha/ 1năm.
Như vậy, nếu không có thuỷ lợi thì không thể tiến hành sản xuất nông
nghiệp được và nó được coi là biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp. Cho
nên thuỷ lợi phải đi trước một bước thì mới tạo tiền đề cho nông nghiệp phát
triển vững chắc.
Thực tiễn sản xuất trong nhiều năm qua ở nước ta cũng như các nước
trên thế giới đã khẳng định những hiệu quả mà các hệ thống công trình thuỷ
lợi mang lại là hết sức to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, công trình thuỷ lợi là các công trình hay hệ thống công trình nhằm
11
khai thác mặt lợi của nước, phòng chống các mặt có hại do nước gây ra hoặc
kết hợp cả hai mặt đó.
Công trình thuỷ lợi còn được xem là cơ sở kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu
hạ tầng nhằm khai thác nguồn lợi của nước và bảo vệ môi trường sinh thái, có
vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế đặc biệt là sản xuất nông nghiệp,
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi hệ thống là một yêu cầu khách
quan của công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Một hệ thống công
trình thuỷ lợi bao gồm các thành phần cơ bản sau:
- Công trình đầu mối (đập dâng, hồ chứa, trạm bơm hoặc cống lấy nước).
- Hệ thống kênh (kênh chính, kênh nhánh các cấp).
- Các công trình hệ thống kênh (cống lấy nước đầu kênh, cống điều tiết
các loại...).

- Hệ thống kênh mương cống bọng nội đồng.
Hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên là một chỉnh thể phải được vận
hành bảo dưỡng theo một quy trình quản lý thống nhất gọi là quy trình quản
lý hệ thống. Quy trình được thiết lập trên cơ sở luận chứng kinh tế kỹ thuật,
thiết kế kỹ thuật của hệ thống nhằm khai thác có hiệu quả các thông số kinh tế
kỹ thuật đã được duyệt bảo đảm an toàn công trình trong mọi tình huống, đảm
bảo hài hoà lợi ích dùng nước của địa phương, khu vực hộ dùng nước.
Ở nước ta, hơn 40 năm qua Nhà nước và nhân dân đã đầu tư xây dựng
hoàn thiện nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi và từ đó đã khắc phục được tình
trạng úng hạn, mở rộng diện tích gieo trồng góp phần cải tạo đất, thâm canh
tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Hàng năm công trình thuỷ lợi còn cung cấp
nhiều tỷ m3 nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, khắc phục thiên tai có
những tiến bộ đáng kể đặc biệt là sản xuất lương thực, cụ thể hơn là góp phần
khắc phục dần tình trạng úng hạn trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta, từng
bước cải thiện đất mặn, chua, phèn, hoang hoá, mở rộng diện tích sản xuất,
tạo điều kiện đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, cùng
với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ có nhiều thuận lợi. Diện tích
tưới tiêu nước qua từng thời kỳ được mở rộng không ngừng, ngoài diện tích
12
lúa ra, các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có còn bảo đảm tưới và cấp nước
hàng tỷ m3 cho các lĩnh vực khác. Đồng thời còn tiêu úng đất sản xuất và cải
tạo đất ven biển. Với kết quả đó công tác thuỷ lợi nói chung và các công trình
thuỷ lợi nói riêng đã góp phần tích cực vào mặt trận sản xuất nông nghiệp và
giành được những thắng lợi rực rỡ liên tiếp.
- Thứ tư: Thuỷ lợi tạo điều kiện cho các ngành kinh tế quốc dân phát
triển. Thực tiễn sản xuất trong thời gian qua đã khẳng định những hiệu quả
mà các hệ thống, các công trình thuỷ lợi mang lại là hết sức to lớn, không
những đối với sản xuất nông nghiệp mà còn đối với các ngành kinh tế quốc
dân và đời sống xã hội. Ngoài phục vụ cho nông nghiệp và dân sinh, phát
triển giao thông thuỷ, phát điện, nuôi cá tạo việc làm tại chỗ, điều hoà phối

hợp lại dân cư và cải thiện môi trường sinh thái góp phần phát triển nông thôn
toàn diện, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Cho nên ngày nay ở đâu có thuỷ lợi
đảm bảo thì đời sống nhân dân ổn định, ở đâu chưa có thuỷ lợi thì việc xoá
đói giảm nghèo còn đặt ra gay gắt.
Mặt khác, thuỷ lợi là ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có vai
trò hết sức quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước và nâng cao đời
sống nhân dân, lợi ích mà ngành thuỷ lợi đem lại là cải tạo thiên nhiên, chiến
thắng thiên tai, hạn hán lũ lụt, khai thác mặt lợi ngăn trừ mặt hại, phục vụ
quốc tế dân sinh và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngoài diện tích lúa ra, các hệ thống công trình thuỷ lợi còn đảm bảo tưới
cho hàng chục vạn hecta hoa màu, cây công nghiệp. Đồng thời hàng năm các
công trình thuỷ lợi đã được khai thác tổng hợp phục vụ giao thông, thuỷ sản,
thuỷ điện, du lịch, góp phần tạo việc làm tại chỗ. Cụ thể công tác thuỷ lợi nói
chung và các công trình thuỷ lợi nói riêng đã cung cấp một lượng nước đầy
đủ và đảm bảo yêu cầu ngoài nông nghiệp ra còn cho mọi ngành khác có liên
quan, nhằm phát triển một nền kinh tế xã hội chung ở nước ta, việc khai thác
và sử dụng nguồn tài nguyên nước để phục vụ cho nhiều ngành kinh tế giữ vai
trò hết sức quan trọng.
- Thứ năm: Thuỷ lợi góp phần cải tạo môi trường, nâng cao điều kiện
dân sinh kinh tế.
Đối với cung cấp nước phục vụ nông nghiệp và dân sinh:
13
Trong giai đoạn xây dựng công nghiệp hoá nguồn nước giữ vai trò quan
trọng thứ hai trong giai đoạn phát triển hiện nay. Tính đến năm 1999 nguồn
nước do các hệ thống cung cấp nước sạch cho các khu công nghiệp, thành
phố, thị xã và một số thị trấn mới phục vụ được cho trên 20 triệu dân và hàng
năm mới sử dụng khoảng 0,6 tỷ m3 nước ngầm dưới đất. .Hầu hết các hộ
nông dân các thị trấn còn lại đều dùng nước giếng tự nhiên hoặc nước sông
suối chưa được xử lý thành nước sạch.
Tiến hành chương trình nước ăn vùng cao, đặc biệt là các vùng phía bắc

khó khăn nhất làm gọn dứt điểm từng vùng.Tạo nguồn nước ngọt nâng cao
chất lượng nước ngọt ở vùng mặn nhằm góp phần quyết định cho nước sạch
nông thôn. Qui hoạch và xúc tiến các công trình cải tạo nguồn nước cho các
khu công nghiệp trọng điểm.
Đối với môi trường xã hội:
Công trình thuỷ lợi ngoài phục vụ cho các ngành còn cải tạo và bảo vệ
môi trường, đặc biệt là cung cấp nguồn nước sạch cho xã hội, tạo nguồn nước
ngọt đảm bảo tưới tiêu, thau chua, rửa mặn ở các vùng đất xấu. Nếu phân bố
không đồng đều theo không gian và thời gian nguồn nước không chỉ mang lại
lợi ích kinh tế xã hội to lớn mà có thể gây ra cả những hiểm hoạ nghiêm trọng
như ngập lụt, úng hạn thiệt hại tính mạng tài sản nhân dân, cho nên cần phải
đầu tư phát triển công trình thuỷ lợi, đây là vấn đề an toàn của quốc gia, của
xã hội và công trình thuỷ lợi được hiểu là nhiều công trình thiết yếu quan
trọng của cộng đồng. Ngoài ra khai thác và sử dụng nguồn nước phải tuân
theo nguyên tắc tổng hợp, nội dung một cách tối ưu, sử dụng hợp lý, không
phung phí huỷ hoại làm cạn kiệt nguồn nước thay đổi môi trường sinh thái.
Quy hoạch khai thác và sử dụng phải đảm bảo sự lâu dài, bảo vệ môi trường
sinh thái, không nên làm ô nhiễm nguồn nước sạch và nước ngọt sẽ dẫn đến ô
nhiễm môi trường chung và gây ảnh hưởng đến toàn xã hội.
2-/ Nội dung của thuỷ lợi hoá trong công nghiệp.
Như trên đã nói, công trình thuỷ lợi được xem là cơ sở kinh tế kỹ thuật
thuộc kết cấu hạ tầng nhằm khai thác nguồn lợi của nước và bảo vệ môi
trường. Chính vì vậy mà công tác thuỷ lợi phải qua 4 giai đoạn sau đây:
14
Giai đoạn 1: Trị thuỷ dòng sông lớn.
Giai đoạn 2: Tổ chức thi công xây dựng công trình.
Giai đoạn 3: Tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng công trình.
Giai đoạn 4: Tổ chức tưới nước và tiêu nước khoa học.
2.1. Trị thuỷ dòng sông lớn.
Trị thuỷ dòng sông lớn là nội dung quan trọng và có tính chất then chốt

của công tác thuỷ lợi nói chung và thuỷ lợi hoá nông nghiệp nói riêng. Để làm
tốt công tác trị thuỷ cần thực hiện các biện pháp sau đây.
- Điều tra khảo sát: mỗi công trình để đi vào khởi công xây dựng thì việc
làm trước tiên là phải quy hoạch khảo sát, thiết kế công trình. Đây là nhiệm
vụ quan trọng không thể thiếu được đối với mỗi công trình, nó quyết định sự
thành công hay thất bại của mỗi công trình khi đi vào hoạt động.
Đối với công tác thuỷ lợi, muốn công trình xây dựng đem lại hiệu quả thì
công tác quy hoạch khảo sát thiết kế phải căn cứ vào các điều kiện sau:
Điều kiện khí hậu thời tiết.
Điều kiện địa hình, địa chất, thổ nhưỡng...
Điều kiện xã hội và dân sinh kinh tế.
Nguồn nguyên liệu là nước trong thiên nhiên, chịu ảnh hưởng của quy
luật thay đổi của nước trong thiên nhiên.
Sở dĩ cần phải căn cứ vào các nhân tố trên là do những nhân tố đó hoạt
động biến đổi theo những quy luật nhất định của từng vùng khác nhau. Việc
phát hiện và đánh giá đúng bản chất của sự vật qua đó nghiên cứu các biện
pháp khai thác chế ngự nó thật không đơn giản nhưng qua đây cũng đưa ra
được những giải pháp hữu hiệu như xác định địa điểm xây dựng công trình,
có nghiên cứu nguồn nguyên liệu nước trong thiên nhiên thì việc chọn lựa địa
điểm xây dựng khi công trình đi vào hoạt động mới đem lại hiệu quả nhờ
cung cấp đủ nguồn nguyên liệu cho công trình...hay trong việc xác định thời
gian tiến hành xây dựng công trình thì cần căn cứ vào điều kiện khí hậu thời
tiết của địa điểm định khởi công xây dựng ,nhằm hoàn thiên công trình trước
mùa mưa lũ, tránh tình trạng công trình đang xây dựng dở dang vào những
15
tháng mưa lũ tới không những công trình không kịp phát huy tác dụng mà có
thể gây thất thoát về nguyên vật liệu, lãng phí vốn.
Sau khi điều tra khảo sát tình hình tự nhiên thì tiến hành lập dự án khả
thi và thiết kế kỹ thuật công trình: khi lập dự án có thể sử dụng thiết kế định
hình để sơ bộ tính giá thành trong các phương án, nhưng cần thiết phải chú ý

đến tình hình địa chất, vật liệu tại địa phương để chọn hình thức kết cấu hợp
lý.
Ở Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa khô nắng gây hạn hán,
mùa mưa lượng mưa rất lớn gây ngập úng khó khăn lớn đến tình hình sản
xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, khi tiến hành xây dựng hệ thống thuỷ lợi cần
xem xét kỹ tình hình tự nhiên của từng vùng để từ đó đưa ra xây dựng hệ
thống công trình thuỷ lợi đồng bộ (lớn, vừa và nhỏ) để phục vụ sản xuất và
đời sống. Điển hình là các công trình miền Trung , việc nghiên cứu điều tra
khảo sát thiết kế là rất cần thiết bởi miền Trung là vùng thiên tai thường
xuyên xảy ra như hạn hán, gió nóng, bão lũ...như trận bão lịch sử tại các tỉnh
miền Trung vừa qua (tháng 11/ 1999) đã gây thiệt hại lớn về người và của của
nhân dân khiến đời sống của họ vô cùng khó khăn. Chính vì vậy cần làm tốt
công tác này để khi công trình tiến hành xây dựng và đi vào hoạt động đem
lại hiệu quả tưới tiêu kịp thời cho sản xuất nông nghiệp, hạn chế và khắc phục
thiên tai...
- Xây dựng các hồ chứa nước, các đập dâng và kênh lái dòng. Xây dựng
các hồ chứa nước có tác dụng rất cơ bản là điều hoà tài nguyên nước và lợi
dụng tổng hợp như phát triển ngành nuôi cá, khai thác và sản xuất nguồn năng
lượng điện. Các đập dâng và kênh lái dòng tuy có tác dụng ít đối với điều hoà
các nguồn nước, nhưng có thể đảm bảo ổn định sản xuất lúa và hoa mầu.
- Nạo vét các dòng sông ở hạ lưu và khai thông dòng chảy để giải phóng
lòng sông khi mùa nước lũ.
- Trồng rừng đầu nguồn vừa có tác dụng điều hoà khí hậu, vừa giảm tốc
độ lũ, ngăn chặn hiện tượng xói mòn và rửa trôi làm hỏng đất ở miền núi và
làm cạn các cửa sông. Trồng rừng và bảo vệ rừng ngập mặn để bảo vệ bờ biển
và phát triển nguồn lợi lâm nghiệp.
16
- Củng cố và xây dựng thêm ở những nơi cần thiết hệ thống đê sông, đê
biển. Tác dụng của đê sông là ngăn lũ lụt, bảo vệ mùa màng và đời sống của con
người. Đê biển có nhiệm vụ ngăn nước mặn, giữ nước ngọt phục vụ cho nông

nghiệp chống gió bão, triều dâng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Có kế hoạch phân lũ, tạo điều kiện sản xuất kinh doanh thích hợp với
những vùng phân lũ.
2.2 Tổ chức thi công xây dựng công trình.
Khi tiến hành xây dựng công trình phải tiến hành theo trình tự dựa trên
bản thiết kế kỹ thuật. Trong quá trình thi công cũng phải ứng phó kịp thời với
điều kiện tự nhiên (nếu không thuận lợi cho công tác xây dựng). Ví dụ khi thi
công kè bảo vệ bờ biển cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau: thi công cuốn
chiếu, thấp trước cao sau, từ ngoài vào trong. Hướng thi công nên chặn ngược
chiều di chuyển của bùn cát theo dòng ven bờ để phát huy tác dụng gây bồi
lắng ngay trong thời gian thi công. Dựa vào thuỷ triều lên xuống để xác định
khối lượng công trình có thể hoàn thành mà phân đoạn cho hợp lý tránh dở
dang. Trường hợp thi công phần đất thân kè mà chưa đặt kịp lớp bọc ngược
và xếp đá khan, cần phải che chắn phần nối tiếp để khi nước dâng cao lên
không gây sụt lở và khi nước rút được dễ dàng. Phần nối tiếp các lớp rải lọc
và chèn chặt các lớp đá xếp khan, nếu có chỗ bị lún sụt phải xử lý ngay,
không để thủng lớp vải.
Qua ví dụ về tiến trình thi công xây dựng kè bảo vệ bờ biển ta có thể rút
ra rằng ngoài việc căn cứ dựa vào thiết kế kỹ thuật thì người làm công tác xây
dựng còn phải kịp thời xử lý các tình huống bất trắc mà trong thiết kế chưa
đưa ra nhằm mục đích chung là hoàn thành công trình đúng tiến độ, công
trình đi vào hoạt động đem lại hiệu quả phục vụ tốt sản xuất và đời sống.
Từng bước xây dựng hệ thống công trình tưới tiêu hoàn chỉnh đồng bộ,
hợp lý và sử dụng tối đa công suất thiết kế có kế hoạch tiết kiệm nước.
- Về thiết kế phải đảm bảo hệ thống công trình hoàn chỉnh đồng bộ và
hợp lý.
Công tác thuỷ lợi chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao khi có một hệ
thống thuỷ lợi hoàn chỉnh đồng bộ và hợp lý. Hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh,
17
đồng bộ là một mạng lưới bao gồm các công trình đầu mối, các hệ thống kênh

mương gắn liền hữu cơ với nhau, có đầy đủ mọi bộ phận và trang thiết bị cần
thiết đảm bảo cho việc tưới tiêu thông suốt dễ dàng. Hệ thống công trình hợp
lý là hệ thống kết hợp địa phương và toàn cục, kết hợp tưới tiêu với phát điện,
nuôi cá, giao thông, cơ giới hoá,... và sát với phương hướng sản xuất của từng
vùng, từng địa phương.
- Trong công tác thi công cần đảm bảo chất lượng công trình vừa tiết
kiệm vật tư và lao động theo đúng thời hạn quy định và phấn đấu rút ngắn
thời hạn, sớm đưa công trình vào sử dụng. Trước hết chú ý các hình thức tổ
chức lao động theo dây chuyền kết hợp với lao động thủ công với cơ giới,
thực hiện hạch toán kinh tế theo định mức chi phí tiến lên hạch toán hiệu quả
công trình.
2.3 Tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống công trình
thuỷ lợi.
Sau khi công trình hoàn thành thì nhanh chóng nghiệm thu bàn giao
công trình để có những kế hoạch quản lý, khai thác sử dụng công trình nhằm
đưa công trình vào hoạt động phát huy tác dụng.
Từ khi nhận bàn giao quản lý hệ thống thuỷ lợi, công ty quản lý có trách
nhiệm bảo quản sử dụng các công trình trong hệ thống một cách tốt nhất, hiệu
quả nhất. Có thể nói rằng, tuỳ theo chất lượng, quy mô, điều kiện giai đoạn
khai thác...của từng công trình cụ thể mà nhiệm vụ cấp bách, chính yếu không
hẳn như nhau, nhưng tựu trung lại quản lý công trình có những nội dung sau:
- Quản lý sử dụng công trình: Đây là một khâu đóng vai trò quan trọng
có tính căn bản. Để quản lý được công trình người quản lý phải hiểu được:
+ Đặc điểm, tính năng, tác dụng của công trình.
+ Điều kiện mức độ sử dụng của công trình.
+ Các tác nhân gây bất lợi và phá hoại công trình.
Ngoài những hướng dẫn ban đầu của người thiết kế, mà chế tạo trong
việc sử dụng công trình, người làm công tác quản lý phải:
18
+ Lập thao tác, quy trình vận hành công trình, hệ thống công trình trong

các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhất là trong điều kiện mưa bão.
+ Thường xuyên kiểm tra mức độ an toàn của hệ thống công trình, nhất
là trước mỗi vụ, mỗi đợt hoạt động. Cần kiểm tra toàn bộ hệ thống công trình,
nhưng phải đặc biệt chú trọng các công trình thiết yếu như công trình đầu
mối, đê điều, đập, công trình tiêu năng, hệ thống điện, các trạm bơm...
+ Nắm bắt, hạn chế được những tác động bất lợi đối với công trình. Lập
công trình, nội quy, quy chế bảo vệ công trình. Cần làm tốt công tác tuyên
truyền, động viên, giác ngộ nhân dân để tăng cường sự hiểu biết và tham gia
vào công tác bảo vệ công trình.
+ Thường xuyên đánh giá chất lượng, tình trạng kỹ thuật để từ đó xây
dựng các phương án quản lý công trình.
- Bảo dưỡng, tu sửa, chống xuống cấp công trình.
Trong quá trình hoạt động vận hành, do tác động của các yếu tố cơ học,
hoá học của điều kiện tự nhiên môi trường, của con người...tính năng kỹ
thuật, độ bền của công trình bị giảm sút. Nếu sau một thời gian nhất định (sau
một chu kỳ sản xuất) mà các yếu tố này không được khôi phục, thì công trình
bị xuống cấp, khi đó khả năng phục vụ của hệ thống công trình ngày một
giảm đi, hiệu ích thu về ngày càng nhỏ, vì vậy kinh phí chi sửa chữa càng cần
nhiều hơn hay nói cách khác, việc quản lý hệ thống ngày một đi vào bế tắc.
Một hệ thống thuỷ lợi được coi như là bị xuống cấp khi nó có những
biểu hiện sau:
+ Hiệu quả phục vụ sản xuất giảm dần trong khi yêu cầu phục vụ của sản
xuất nông nghiệp không hề thay đổi: diện tích phục vụ giảm, chất lượng công
tác tưới bị hạ thấp, diện tích tưới thẳng trở thành diện tích tạo nguồn, diện tích
đảm bảo tiêu bị thu hẹp, dù rằng lượng mưa yêu cầu tiêu không đổi.
+ Công trình bị suy giảm về chất lượng, vận hành kém an toàn sự cố bất
thường luôn luôn xảy ra.
+ Chi phí quản lý khai thác gia tăng trong điều kiện thời tiết bình
thường.
19

Vậy khi thấy hệ thống thuỷ lợi có những biểu hiện xuống cấp thì cơ quan
quản lý phải nhanh chóng vạch kế hoạch cụ thể để bảo trì, tu sửa, nâng cấp
công trình, huy động mọi nguồn lực như vốn, con người, máy móc thiết bị để
tiến hành sửa chữa nhằm đưa công trình vào hoạt động cho công suất cao đáp
ứng được yêu cầu thời vụ.
2.4. Tổ chức tưới nước và tiêu nước khoa học:
Chế độ tưới tiêu khoa học là đảm bảo một lượng nước cần thiết nhất định
phù hợp với từng loại cây trồng, phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng và
phát triển của mỗi cây trồng. Chế độ tưới tiêu khoa học biểu hiện chất lượng
của thuỷ lợi hoá.
3-/ Sự cần thiết phải đầu tư vào thuỷ lợi.
Trong lý thuyết đầu tư và mô hình số nhân của Keyness đã chứng minh:
“Đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của cầu tiêu dùng từ đó tăng số lượng việc
làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất
tái phát triển”. Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi quốc
gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất nhất thiết
phải đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có xuất phát điểm
thấp, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu.
Như các phần trước đã nói thuỷ lợi có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế, góp phần phát triển sản xuất đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp,
trong các ngành sản xuất dịch vụ phục vụ nông nghiệp thì thuỷ lợi được coi là
ngành mũi nhọn chiếm vị trí quan trọng nhất. Mặt khác thuỷ lợi còn tác động
đến đời sống xã hội như chiến thắng thiên tai, hạn hán, lũ lụt, cung cấp nguồn
nước sạch phục vụ cho nhân dân...
Với những đóng góp rất lớn của thuỷ lợi vào nền kinh tế thì việc quan
tâm và đưa ra nhiều phương hướng phát triển thuỷ lợi là những việc cần làm.
Một trong những phương hướng thúc đẩy phát triển thuỷ lợi là cần vốn để đầu
tư mới cho thuỷ lợi vì thuỷ lợi gồm 3 giai đoạn: quy hoạch khảo sát thiết kế,
tổ chức thi công xây dựng công trình, tổ chức quản lý khai thác và sử dụng
công trình. Mỗi giai đoạn muốn thực hiện được đều cần phải có vốn thì mới

tiến hành được như cần vốn để mua nguyên vật liệu, khoa học công nghệ, trả
20
lương cho người lao động ...Khi công trình thuỷ lợi đi vào hoạt động đến một
giai đoạn nào đó thì nó cần phải tu sửa nâng cấp lúc đó tiếp tục phải có vốn để
phục vụ sự hoạt động của công trình.
Ở những nước kinh tế phát triển cơ sở vật chất thuỷ lợi được đầu tư rất
cao, khoảng 10.000 USD/ ha. Vì đầu tư cao như vậy kết quả sản xuất nông
nghiệp ở những nước này cho năng suất cao, đời sống của nông dân được
nâng cao, diện tích đất được tưới tiêu được mở rộng, nói chung nông nghiệp ở
những nước này rất phát triển. Với sự đầu tư cao nên hệ thống kênh mương
được bê tông hoá làm việc rất ổn định và chống thấm tốt. Các hệ thống tưới
phun mưa hoặc nhỏ giọt người ta dùng ống thép hoặc ống nhựa chôn ngầm
dưới đất, vừa kín vừa an toàn thuận lợi cho canh tác, tiết kiệm đất canh tác...
Các nước Đông Nam Á do sự đầu tư cao vào thuỷ lợi, với mức độ đầu tư
bình quân từ 3.000 - 4000USD/ ha tưới, vì thế công trình được trang bị khá
đồng bộ từ đầu mối trở xuống nên những nước này đã đáp ứng được nhu cầu
bức thiết về lương thực thực phẩm do sức ép của sự gia tăng dân số. Những
nước có tốc độ phát triển thuỷ lợi nhanh như Thái Lan, Lào, Bănglađet...
Nước ta là nước nông nghiệp, khoảng 80% dân số sống và làm việc ở
nông thôn nên sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong nền kinh tế.
Chính vì vậy hệ thống công trình thuỷ lợi tương đối phát triển do được Đảng
và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đầu tư tương đối cao so với các ngành
khác. Chính vì vậy nó đã góp phần làm cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta
phát triển mạnh mẽ và Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới.
Cụ thể trong năm 1995 Việt Nam đầu tư 1531,85 tỷ đồng vào thuỷ lợi
với sự đầu tư này nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng mới và phục hồi
nâng cấp một số công trình kết quả sản lượng lương thực là 27,5 triệu tấn.
Đến năm 1999 với lượng vốn đầu tư 2962,557 tỷ đồng tăng cao hơn năm
1995 nên kết quả về sản xuất nông nghiệp năm 1999 rất cao đạt31 triệu tấn.

Năng suất lúa năm 1995 đạt 36,3 tạ/ ha thì đến năm 1999 đạt 40,8 tạ/ ha.
Cùng với việc tăng sản lượng và năng suất cây trồng thì hệ thống đê điều
được nâng cấp tu sửa đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ.
21
Với sự tăng vốn đầu tư vào thuỷ lợi cùng kết hợp với nhiều chính sách
và biện pháp khác đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa
nông nghiệp nước ta phát triển ổn định, không những đảm bảo lương thực
trong nước mà còn xuất khẩu với khối lượng lớn. Bên cạnh đó nó còn giải
quyết được phần nào các vấn đề nước ăn cho nhân dân miền cao, cải thiện đời
sống nhân dân.
Vậy việc đầu tư vào thuỷ lợi là việc làm cần thiết, không chỉ tạo sự phát
triển cho nông nghiệp mà thuỷ lợi góp phần phát triển các ngành kinh tế quốc
dân khác và đời sống xã hội.
22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI
TRONG NHỮNG NĂM QUA
I-/ THỰC TRẠNG NGÀNH THUỶ LỢI THỜI GIAN QUA.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII và các nghị quyết của
Ban chấp hành trung ương Đảng: “ Phát triển nông lâm, ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế vùng nông thôn và xây
dựng vùng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế
xã hội đặt trọng tâm vào chương trình lương thực thực phẩm nhằm đảm bảo
vững chắc nhu cầu trong nước và xuất khẩu nhất là gạo và sản phẩm chăn
nuôi”. Để thực hiện được các mục tiêu trên thì thuỷ lợi đóng vai trò quan
trọng, là điểm tựa thúc đẩy sản xuất lương thực phát triển. Thuỷ lợi đã phát
huy khai thác có hiệu quả các công trình thuỷ lợi đã có, xây dựng thêm nhiều
công trình mới trên các vùng lãnh thổ, bảo vệ an toàn hệ thống đê điều, khắc
phục và hạn chế thiên tai phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu kế hoạch sản xuất lương thực và đã đạt 31 triệu tấn lương

thực năm 1999, vượt hơn 1 triệu tấn so với kế hoạch năm 1999, tăng 1,9 triệu
tấn so với năm 1998
Nhờ những thắng lợi trong sản xuất nông nghiệp, bộ mặt nông thôn được
cải thiện, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng cũng phát triển theo, vấn đề
lương thực đảm bảo tiêu dùng của người dân được đảm bảo trong thời gian
giáp hạt, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Những chương trình lớn về phát triển thuỷ lợi phục vụ phát triển kinh tế
xã hội nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng như chương trình khai
thác Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, Bán đảo Cà
Mau, Miền trung và Tây Nguyên, nâng cấp các hệ thống thuỷ nông, chống lũ
và chống úng ở đồng bằng sông Hồng, cấp nước ăn vùng cao đã đạt được
những kết quả khả quan. Một số công trình thuỷ lợi lớn ở miền Trung, Tây
Nguyên và miền núi phía Bắc vừa thi công vừa phát huy hiệu quả sớm tích
nước để phục vụ sản xuất như công trình Truồi, An Mã, Tràng Vinh, Ayun
Hạ... nhiều công trình đang xây dựng đã phát huy hiệu quả điển hình như các
23
công trình đồng bằng sông Cửu long: kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2, công trình
kiểm soát lũ Châu Đốc_ Tịnh Biên, Ba Hòn, Vàm Rầy... đã đảm bảo mục tiêu
ngăn lũ, thông nước trước mùa lũ. Với những kết quả đó nó sẽ tiếp tục tạo thế
để phát triển thuỷ lợi trong năm 2000 và sau năm 2000
Dưới đây là tóm tắt thực trạng thuỷ lợi thông qua hệ thống công trình
thuỷ lợi và công tác quản lý sử dụng.
1.1 Thực trạng hệ thống công trình thuỷ lợi
Việt Nam là một trong một số nước trong khu vực có hệ thống công
trình thuỷ lợi phát triển, đặc biệt là thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Đến năm 1999 Việt Nam đã có hệ thống công trình tưới tiêu 3.9 triệu ha, trên
1triệu ha rau màu, ngăn mặn cho 0.9 triệu ha và chống lũ cho gần 3triệu ha.
Các công trình thuỷ lợi ở Việt Nam gồm 75 hệ thống thuỷ nông lớn và
vừa, 750 hồ chứa có dung tích từ 1 triệu m3 trở lên, 10000 hồ chứa nước nhỏ
với tổng dung tích gần 30 tỷ m3, tức gần bằng 18% dòng chảy mùa kiệt của

cả nướcvà nếu trừ đồng bằng sông Cửu Long thì dung tích các hồ chiếm tới
36% dòng chảy mùa kiệt của toàn lãnh thổ. Trên 1000 cống tưới và tiêu lớn,
3514 trạm bơm lớn và vừa với tổng công suất bơm tưới là 200 MW, tổng
công suất bơm tiêu là 250 MW, có 300.000 máy bơm dầu. Tổng giá trị tài sản
cố định phần Nhà nước đầu tư là trên 25.000 tỷ đồng (giá năm 1995). Đó là
chưa kể đến công đóng góp của nhân dân trong phần công trình nội đồng ước
tính 30 - 40% giá trị xây dựng công trình đầu mối.
Hệ thống đê điều đã được hình thành có 7700 km gồm 5700 km đê sông,
2000 km đê biển, 3000 km bờ bao chống lũ đầu vụ ở đồng bằng sông Cửu
Long. Trên các tuyến đê có 590 kè và 2900 cống dưới đê.
Các hệ thống thuỷ lợi được coi là biện pháp hàng đầu trong nhiều năm
phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển nông
nghiệp.
Tính đến năm 1999 đã có 6 triệu ha gieo trồng lúa được tưới bằng công
trình thuỷ lợi, chiếm gần 80%, tăng trên 1,4 triệu ha so với năm 1985.
Trong đó:
- Tưới:
24
Lúa Đông Xuân: 2,41 triệu ha.
Lúa Hè Thu: 1,56 triệu ha.
Lúa Mùa: 1,73 triệu ha.
Hoa Màu: 0,3 triệu ha.
- Tiêu: 1 triệu ha.
Tuy nhiên do đầu tư không đồng bộ, Nhà nước chỉ đầu tư công trình đầu
mối, kênh trục, một số công trình được Nhà nước đầu tư tới kênh cấp 2, kênh
cấp 3 và công trình nội đồng do nhân dân tự làm. Do đó nhiều công trình sau
khi hoàn thành công trình đầu mối phải sau 5 - 7 năm thậm chí có công trình
sau 10 năm mới phát huy hết khả năng tưới hoặc tiêu thiết kế. Nhiều công
trình diện tích tưới hoặc tiêu chỉ đạt 50 - 60% (đối với hồ chứa) hoặc 70 -
90% (đối với cống, trạm bơm) diện tích thiết kế.

Thực hiện nghị quyết 22 của Bộ chính trị, nghị quyết 72 HĐBT, quyết
định 69 HĐBT và chỉ thị 525 TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngành thuỷ lợi
đã xây dựng chương trình cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho đồng bào vùng
cao đến năm 2000. Bước đầu đã xây dựng được một số công trình thuỷ lợi
giải quyết nước ăn cho trên 30 vạn đồng bào các dân tộc miền núi phía bắc và
như dự kiến thì đến cuối năm nay chương trình này sẽ kết thúc.
Trong điều kiện rất khó khăn về ngân sách Nhà nước đã dành cho phát
triển thuỷ lợi trong kế hoạch 1995 - 1999 là 9872,957 tỷ đồng. Trong đó 55%
do Bộ quản lý, 45% do các tỉnh quản lý. Riêng các công trình lớn mà Bộ đầu
tư trong năm năm mở ra 241 công trình đã hoàn thành 85 với năng lực tưới
thêm 451.000 ha và trên 180.000 ha.
Các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ được phát triển đều khắp các vùng,
góp phần quan trọng nâng độ đồng đều phát triển kinh tế giữa các vùng đồng
thời cũng thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Các công trình trọng điểm
đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế với mức tăng trưởng 2,5 - 3
lần sau mỗi thập kỷ, với mức bảo đảm lương thực 500 kg/ người/ năm, thực
hiện đổi mới cơ cấu kinh tế trong nông thôn thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đảm bảo mức tăng trưởng GDP trong nông nghiệp 4 - 5%
thì nhiệm vụ ngành thuỷ lợi còn khá nặng nề.
25

×