Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

van 12 phan tich rừng xà nu nguyễn trung thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.19 KB, 13 trang )

RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên.
Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung
cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm
vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng,
kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh
Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến
chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam
đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện
ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con
người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm
chính là hình tượng cây xà nu.
1- HÌNH TƯỢNG CÂY XÀ NU
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu”
của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà
nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt
trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi
bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi
sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ
của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng
Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết :
“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần,
hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà
gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con
nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối
mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung
Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài
cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài
cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế”
cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng


khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây
không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình
đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt,
long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu
lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn
lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc
lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh
mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó
giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn
lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai


ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô
man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật
thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó,
Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng
đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng
và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân
cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn
phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao
đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như
những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải
mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người
trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của
kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu
do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn
ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải

Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. Ánh sáng của
niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân
đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà
Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có T'Nú và Mai. Cứ như thế, các thế
hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ
vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói
riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững,
đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh
rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức
mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ
chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có
cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những
ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm
than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận
của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử
thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây
dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn
miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân
hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.


Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình
tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn,
mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm
cho nền văn học dân tộc.

II- TÍNH SỬ THI
Rừng xà nu được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến
tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. “Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang,
nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm
trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ” (1). Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó
mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời hiện tại, và
hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện làng Xô Man trở thành
chuyện của cả “Đất nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử.
Hình tượng lớn lao bao trùm toàn bộ tác phẩm là hình tượng những cây xà nu.
Chính nó đã đem lại cho tác phẩm sức khái quát lớn cũng như sự sinh động, chân thực
như cuộc đời. Và trước hết nó khơi lên nguồn cảm hứng dạt dào ở người viết, trở
thành điểm tựa điểm gợi tứ để nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước và sức
sống của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần y
nguyên đến hai lần ở phần đầu và phần kết thúc của tác phẩm: “Đứng trên đồi xà nu
ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối
tiếp chân trời”. Đấy là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu chuyện. Tác
giả chưa bao giờ để gián đoạn mạch kể về rừng xà nu. Cây xà nu khi thì tách ra, khi
thì hòa nhập với con người. Tả cây xà nu tác giả ưa dùng thủ pháp nhân hóa, còn khi
là con người ông lại thường xuyên liên hệ, so sánh với cây xà nu. “Xà nu”, “xà nu” –
tác phẩm trùng trùng điệp điệp với những “xà nu” và đó chính là điểm khá cơ bản quy
định chất thơ hào hùng của nó (thơ, như có người nhận xét, là một kết cấu trùng điệp
đầy âm vang).
Hãy trở lại với đoạn mở đầu của truyện ngắn. Nhà văn đã đem hết bút lực của mình
ra để tả một khu rừng xà nu. Đấy không phải là một khu rừng xà nu chung chung mà
là khu rừng xát cạnh làng Xô Man, kế bên con nước lớn (nguồn sống của con người)
và lọt trong tầm đại bác của đồn giặc. Ngay từ đầu ta đã thấy rừng xà nu phải đối diện
với những thử thách ác liệt, dữ dội. Thương tích là không thể tránh khỏi: “Cả rừng xà
nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang
nửa thân mình, đổ ngang như một trận bão”. Nhưng sức sống mãnh liệt của cây xà nu
mới là điều tác giả muốn nhấn mạnh: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khỏe

như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn,
hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng khỏe vì chúng tha thiết với mặt trời:
“Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi trên cao
xuống từng luồng lớn thẳng tấp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra,
thơm mỡ màng”. Thật là một đoạn miêu tả sống động, giàu chất tạo hình nhưng
không chỉ có ý nghĩa tả thực. Rừng xà nu, đấy chính là một ẩn dụ về con người: con
người đau khổ, con người bất khuất, con người khát khao tự do, con người của truyền
thống anh hùng lớp trước lớp sau liên tục đứng lên bảo vệ phẩm giá của mình …


Thêm nữa, rừng xà nu ở đây còn là một hình tượng tượng trưng, một biểu tượng cho
con người Tây Nguyên, cho cả một dân tộc hiệp sĩ : “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn
của mình ra, che chở cho làng”. Trong hành động ưỡn tấm ngực lớn chứa đựng biết
bao nhiêu là kiêu hãnh, nó biểu thị một phẩm chất phóng khoáng, hào hiệp và là một
hành động tự nguyện do xác định được đúng vị trí đứng đầu bão táp của mình. Để
diễn tả một nội dung phong phú như vậy qua hình tượng cây xà nu, tác giả đã sử dụng
một giọng văn thiết tha pha chút cường điệu. Nhiều lúc như không nén nổi những xúc
động đang tràn ngập vì yêu thương, vì yêu thương và cả kính trọng nữa, nhà văn đã
thốt lên những lời nhận xét trực tiếp, để lộ cái tôi của mình “Trong rừng ít có loại cây
sinh sôi nẩy nở khoẻ như vậy”, “Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”.
Hàng loạt động từ, trạng từ gây cảm giác mạnh được huy động cho mục đích miêu tả:
ào ào, ứa, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, gay gắt, bầm, ngã gục, lao thẳng, phóng,
vượt, ưỡn .v.v. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng rất đắt cái nhìn của điện ảnh để cho sự vật
hiện lên động và nét hơn. Ống kính của ông khi thì lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng
xà nu, khi lại rà sát, soi kỹ dáng vươn lên kiêu dũng của những cây xà nu con. Có lúc
tác giả quay chếch ống kính để trước mắt ta, màn ảnh như chao đảo: một cảnh tượng
tuyệt vời nên thơ, tráng lệ hiện ra: “ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng
luồng lớn thẳng tắp …”.
Mạch cảm xúc đã được khơi lên. Hướng đi của ngòi bút đã được hình dung. Điểm
“neo” những ấn tượng và quan sát phong phú đã được xác định với một cái làng cụ

thể. Từ đây toàn bộ câu chuyện cứ thế mà tuôn chảy và hiện rõ trước mắt người viết,
người đọc mồn một từng chi tiết từng hình ảnh.
Chuyện làng Xô Man được bắt đầu từ thời điểm hiện tại: “Ba năm đi lực lượng bữa
nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh
về” đấy là những lời kể cô đúc hé lộ một lịch sử và báo hiệu một đổi thay. Quả thực
làng Xô Man đã đổi thay nhiều lắm so với ngày Tnú ra đi. Khắp núi rừng đâu cũng có
cạm bẫy chờ sẵn “chờ đón” quân thù. Một lớp người mới trưởng thành đứng ra gánh
vác công việc kháng chiến. Sinh hoạt trong một làn vui tươi và có quy củ. Tất cả toát
lên một vẻ hồ hởi tự tin khiến cho Tnú không khỏi có chút ngỡ ngàng. Phải nói rằng
sự lựa chọn thời điểm bắt đầu câu chuyện hết sức thích hợp. Tất cả phải từ hôm nay
và cho hôm nay, cũng y như mục đích kể chuyện tại nhà Ưng của cụ Mết. Đó là sự
chuẩn bị tinh thần để bước vào một thử thách to lớn mới. Những lời nhắc nhở trầm
vang như tiếng chiêng, cồng của cụ Mết: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng
thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ …” cũng chính là lời nhắn gửi
của độc giả, trước hết là độc giả của thời kỳ lịch sử ấy.
Ra đời trong một thời điểm hào hùng của lịch sử, lại kể về những sự việc có tầm
vóc thời đại, giọng điệu trần thuật có màu sắc anh hùng ca đã được sử dụng rất đắc
địa. Lời kể của tác giả đã hoà lẫn với lời kể của cụ Mết và dòng hồi tưởng của Tnú
một cách hết sức tự nhiên. Cái bi tráng của một giai đoạn cách mạng cùng khí thế
chiến đấu bừng bừng của buôn làng Tây Nguyên ngày nổi dậy đã được tái hiện với
đúng “chất” của nó. Trên dài đất cao nguyên hùng vĩ này từng có người dân sống
nghẹt thở dưới ách áp bức, khủng bố bạo tàn của Mĩ Diệm.


Khắp nơi đều có dấu vết tội ác của chúng. Thiên nhiên bị tàn phá. Nhân dân bị
chém giết. Chúng “đi trong rừng xà nu như con beo” với những “lưỡi lê dính máu”.
Quả là chúng đang làm chủ cả núi rừng, nhưng là cách làm chủ của beo sói. Khi kể
chuyện Tnú hồi nhỏ đi liên lạc bị giặc bắt, có đến ba lần tác giả nói đến vết dao trên
lưng em. Đó là một chi tiết nghệ thuật tiêu biểu tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ngay
tấm lưng nhỏ bé, non trẻ “rộng chưa bằng bề ngang của cái xà lét mẹ để lại” dường

như sinh ra để cha mẹ vuốt ve cũng phải hứng chịu những sự vùi dập tàn bạo, phũ
phàng nhất. Ở một đoạn khác, khi nói đến tình thế bị o ép dữ dội của dân làng Xô
Man trước ngày khởi nghĩa, tác giả đã có dụng ý mô tả môt loạt âm thanh kinh khủng,
đó là tiếng cười sằng sặc, giần giật của thằng Dục ác ôn, tiếng roi vun vút, tiếng gậy
sắt nện hừ hự xuống thân người …
Nhưng sự việc đã diễn ra theo đúng quy luật có áp bức có đấu tranh, và một chân lí
cách mạng dần dần được làm sáng tỏ: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Rừng xà nu không chỉ chuyện làng Xô Man trong đau thương mà chủ yếu là chuyện
làng Xô Man đứng dậy. Tác giả đã rất thành công khi xây dựng chân dung một tập thể
anh hùng. Họ gồm những cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng … mỗi người
mỗi vẻ nhưng đều giống nhau ở sự gan góc, ở lòng trung thành với cách mạng. Sự gan
góc, trung thành ấy không biểu hiện ồn ào. Nó ít lời mà dồn nén biết bao dữ dội. Tnú
bị bắt, cụ Mết chỉ nói: “Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man”. Tnú trả lời bằng bằng
một cái nhìn. Giặc cởi trói cho Tnú để em chỉ chỗ người cộng sản, Tnú để bàn tay lên
bụng mình nói “Ở đây này”. Rồi đôi mắt của Mai, cái nhìn của Dít .. rõ ràng đó là cái
im lặng của những người đã chịu nhiều đau khổ, cái im lặng đầy sức mạnh, đầy đe
dọa với quân thù, nó báo trước sự bùng nổ ghê gớm của lòng căm giận. Trong tác
phẩm còn có một đoạn rất đáng chú ý khác nói về sự dũng cảm của Dít trước quân ác
thú. Có thể nói trong khoảnh khắc, Dít đã lớn rất nhiều, thoạt đầu Dít khóc thét lên khi
bị chúng bắn dọa. Nhưng đến viên đạn thứ mười, Dít đã chùi nước mắt, bình thản
nhìn về bọn giặc. Đây là một chi tiết giàu tính tượng trưng. Không thể nói sự thay đổi
đó của Dít như nói về một sự trấn tĩnh bình thường. Trong tình thế khó khăn con
người phải tự lớn vượt lên mau chóng nếu không sẽ bị đè bẹp. Dềnh dàng là chết.
Điều đó đúng với cả làng Xô Man, cả Tây Nguyên và cả cách mạng miền Nam ngày
ấy.
Trong nhiều nguyên nhân tạo nên sức quật khởi của làng Xô Man mà tác giả có ý
thức nêu lên, nguyên nhân thuộc về truyền thống lịch sử đã được biểu hiện qua một
hình tượng sinh động: cụ Mết. Đúng là tác giả viết trong một bài hồi ức: “Ông là cội
nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông
như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng

mãnh liệt hơn sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau”. Để tả cụ Mết tác giả thường
mượn những đặc tính của cây xà nu làm đối tượng so sánh: ngực cụ “căng như một
cây xà nu lớn”, còn bàn tay “nặng như sắt” của cụ thì “sần sùi như vỏ cây xà nu” tiếng
nói của cụ cũng thật đặc biệt: “nặng trịch”, “ồ ồ” “dội vang trong lồng ngực” tưởng
như tiếng âm vọng của núi rừng. Đúng là không thể hình dung nổi cuộc sống chiến
đấu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu hình ảnh cụ Mết. Riêng đối


với phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hình ảnh đó tạo nên màu sắc Tây
Nguyên đậm đà trên từng trang viết và tạo những điểm nhấn góp phần bộc lộ sâu sắc
chủ đề, những điểm nhấn gắn liền với các câu nói mang ý nghĩa tông kết, giáo dục và
kêu gọi của cụ: “Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi,
bây còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!
…” có thể nói thêm: nếu thiếu hình ảnh cụ Mết, tác phẩm sẽ thiếu đi một cơ sở quan
trọng để sử dụng cái giọng trầm hùng vang vọng rất sử thi như nó đã có.
Nhiều đêm bên bếp lửa trong nhà ưng, cụ Mết đã kể cho con cháu nghe chuyện về
anh Tnú. Đó là câu chuyện của thời hiện tại nhưng đã được lịch sử hoá bởi nó quá tiêu
biểu cho hành trình số phận của các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Cuộc đời của
Tnú đã trải qua biết bao thử thách khốc liệt ngay từ thuở còn thơ. Chính những thử
thách ấy đã hun đúc nên một con người mang nhiều phẩm chất tốt đẹp: gan dạ, trung
thưc, một lòng một dạ gắn bó với cách mạng. Khi lớn lên, hạnh phúc riêng vừa đánh
chết ngay trước mắt anh mà anh không làm gì được. Bản thân anh bị giặc bắt và bị
chúng đốt cụt mười đầu ngón tay. Từ nỗi đau thương và căm thù đó, anh tham gia lực
lượng quân giải phóng góp phần bảo vệ quê hương, trở thành niềm tự hào của buôn
làng, thánh tấm gương cho cụ Mết dùng để giáo dục thế hệ sau. Khắc hoạ nhân vật
Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay của anh – hai bàn tay biết kể với chúng ta về
số phận một con người. Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với hầu hết các nhân
vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm nỗi bật nào đó của họ. Phải
chăng ở đây có dấu vết của cách giới thiệu nhân vật trong sử thi? Dù sao đây cũng là
một trong những đặc điểm hình thức khá nổi bật của truyện ngắn này.

Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được nhốt chặt trong một
khuôn khổ hẹp. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những
ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một
tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm
lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc khá xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt,
hào hùng.
III- Phân tích nhân vật Tnú
Vào một đêm ngoài rừng mưa rì rào như gió nhẹ, dưới ánh lửa xà nu bập bùng, tất
cả dân làng Xôman già trẻ gái trai nghe cụ Mết, một già làng có thân hình vạm vỡ
quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu rài ngang ngực kể về cuộc đời đầy bi hùng của
Tnú.
Lúc còn bé đến khi trở thành chiến sĩ.
Tnú là người con của dân làng Xôman, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu
mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng "có cái bụng thương núi, thương nước",
Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Trú đã mở
rộng thành tình yêu gắn bó trung thành thủy chung sâu nặng với Cách mạng, cán bộ
Cách mạng. Bởi ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và
truyền ngọn lửa Cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: "Cán bộ là Đảng.
Đảng còn nước non này còn". Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất
hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã


sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính...
Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán
bộ - đầu anh Xút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng
với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng.
Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai à Tnú đã làm
rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào " Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc
bị
giết


trong
rừng".
Tnú còn là một người có phẩm chất chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn như
cây xà nu. Tnú quyết tâm học cho được cái chữ Cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay
anh Quyết, nếu không may anh Quyết bị hy sinh. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong
việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi
vậy, khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách
"cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng". Hành động này có cái gì đó
hơi nóng nảy, nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí, quyết tâm sắt đá của một con người có
chí khí, vì không học được chữ nên tự trừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng
hơn.
Làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn là con
người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc
vây các nẻo đường, Tnú leo lên cây cao xé rừng mà đi vượt qua mọi vòng vây. Tnú
không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác
hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng
súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào
bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù Kontum với biết bao đòn roi,
thương tích. Địch tra tấn hỏi "Cộng sản ở đâu?" Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên
bụng và nói: "Ở đây này!".Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc
của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thủy chung, trung thành với
Cách mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù "Uy vũ không thể khuất phục"
Tnú và bi kịch gia đình
Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc.
Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng đầy
thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa
đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia
đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây
Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách

không tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh thần
Cách mạng của Tnú, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự
bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng
"Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy... bụng anh có lửa
đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn". Căm thù đau nhói trong tim và
bừng cháy trong hai con mắt - một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính,
hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp
nữa!


Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi
đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết
cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ "Đứa
con chết rồi. Mai chắc cũng đã chết. Mình rồi cũng chết thôi". Nhưng Tnú không sợ,
điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là không sống được đến ngày cùng dân
làng Xô man đánh giặc, rồi khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô
man ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ
lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương thành hành động.
Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Chúng định dùng
lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng
đã vô tình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man. Một
ngón, hai ngón rồi ba bốn ngón của Tnú bốc cháy. Không gì đượm băng lửa Xà nu.
Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người
Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù "răng anh đã cắn nát môi anh rồi". Đúng rồi, Tnú
không thèm kêu van nhưng Tnú đã thét lên một tiếng "Giết". Tiếng thét ấy làm rung
chuyển núi rừng, làm lay động tâm can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy
là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng, tiếng cụ Mết ồ ồ "Chém! Chém hết,
Giết, giết hết!", Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm
hờn của dân làng Xôman. Trong phút chốc họ đã: xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang
quanh đống lửa.

Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc
sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: "sau này, tao chết rồi, bay còn sống phải
nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cấm giáo". Đó là chân lý của
Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một
chân lý thật nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng của nhân
dân.
Vượt qua bi kích cá nhân, trở thành người chiến sĩ, cán bộ có tinh thần kỷ luật
cao.
Từ đây cả dân làng Xôman vùng dậy cầm lấy giáo mác... làm vũ khí chống lại súng
đạn tối tân tàn bạo của Mỹ - Nguỵ. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối tiếp
bằng việc "đi lực lượng". Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham
gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội
trời chung với vợ con anh - còn tồn tại trên đất nước Việt Nam này. Khi đã trở thành
chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê
hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm như quy định
trong giấy phép.
Hình ảnh Tnú gắn liền với một hình tượng độc đáo: bàn tay.
Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả chúng ta bởi những phẩm chất, tính cách
anh hùng; bởi bút pháp mang đậm màu sắc sử thi bi tráng và tính chất triết lý của nó,
mà còn hấp dẫn bởi tính chất hình tượng của tác phẩm. Một trong những hình tượng
giàu nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mỹ và tạo lên một sức ám ảnh đặc biệt cho độc giả là


hình ảnh bàn tay của Tnú. Đây là một hình tượng như có một số phận riêng, gắn bó
mật thiết với cuộc đời Tnú, góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách cao
đẹp của anh. Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh
Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: "Cộng sản đây này". Bàn tay ấy cũng
đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu
thương đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về... Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay Tnú, bàn

tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc
đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo - 10 ngọn đuốc từ
ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Bàn tay chỉ
còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối
cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn
cả dã thú.
Kết luận: Như vậy, câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý nghĩa cụ thể, cá
thể, vừa có ý nghĩa điển hình tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và
con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân
vật Tnú còn có cái gì đó phảng phất như những anh hùng trong các trường ca Đam
San, Xinh Nhã.
Thanh Thảo tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1946. Quê xã Đức Tân,
Huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi. Tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tổng hợp HN.
Tham gia trực tiếp chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Từ sau năm 1975, Thanh
Thảo hoạt động văn nghệ và báo chí. Ông là phó chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn
Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quãng Ngãi.
Tác phẩm chính: Những người đi tới biển (1977 - trường ca). Dấu chân qua Trảng
cỏ (1978 - thơ), Khối vuôn ru bích (1985 - thơ), Từ một đến một trăm (1988 - thơ),
Những ngọn sóng mặt trời (2002 – trường ca).
Ông được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1979 cho tập thơ Dấu chân qua
trảng cỏ. Thanh Thảo tiêu biểu cho gương mặt thơ trẻ thời chống Mĩ và có nhiều nỗ
lực đổi mới thơ Việt. Thơ Thanh Thảo viết về đề tài nào cũng đều đậm chất triểt lí.
Mạch trữ tình trong thơ ông đều hướng tới những vẻ đẹp của nhân cách: nhân ái, bao
dung, can đảm, trung thực và yêu tự do. Thơ ông dành mối quan tâm đặc biệt cho
những con người sống có nghĩa khí như Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xênhin, Lor-ca
1/ Bản sắc dân tộc của hình tượng Lorca (Khổ 1)
Lor ca là một nhà thơ nổi tiếng, ông không chỉ là một người con sứng đáng của đất
nước TBN, ông còn là tiếng nói, là niềm vui nỗi buồn của đất nước mình. Nhờ những
vần thơ tài hoa của ông mang đậm chất dân gian, mà người ta nghe thấy tiếng hoàng
hôn than khóc ánh bình minh. Tiếng đàn ghi ta cất lên làm sao xuyến tiếng đôi thằn

lằn thì thầm bên tảng đá ven sông, tiếng cát lạo sạo dưới chân cặp người yêu bên
nhau. Cũng nhờ tiếng thơ của ông, đất nước TBN hiện lên với chiều dài lịch sử với
những sắc màu độc đáo nồng nhiệt. Nhưng vẫn phản phất đâu đó những nỗi buồn.


Nhân cách cao đẹp và số phận oan khốc của Lorca đã khiến Thanh Thảo ngưỡng mộ
và xúc động sâu sắc, tạo được sự đồng cảm giữa người sáng tác và người đọc, gợi
được những nét đặc trưng của văn hóa TBN, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của Lorca.
Một trong hình ảnh mang đậm bản sắc của TBN chính là hình ảnh áo choàng đỏ.
- Hình ảnh “áo choàng đỏ” nhắc nhở môn đấu bò tót, một hoạt động văn hóa khiến
TBN nổi tiếng thế giới. Nhưng đây không phải đấu trường giữa đấu sĩ với bò tót mà là
đấu trường đặc biệt giữa khát vọng đấu tranh dân chủ của công dân Lorca với nền
chính trị độc tài của khát vọng cách tân nghệ thuật trong chàng nghệ sĩ Lorca với nền
nghệ thuật già nua. Màu áo đỏ gắt tráng lệ, bỗng biến thành bê bết đỏ, màu đỏ đau
thương đã nhốm máu thi nhân, đã hủy diệt cái đẹp.
- Nhìn theo góc độ nào cũng chỉ thấy con người tự do, nhà cách tân nghệ thuật mong
manh, đơn độc đi tìm cái đẹp trong thế giới bạo tàn, trong nền cảm thông của nhà thơ
VN- Thanh thảo.
Ngoài ra các hình ảnh: “Vầng trăng”, “yên ngựa”, “cô gái Di-gan” và âm thanh “lila” cũng gợi một không gian văn hóa đậm đà bản sắc TBN. Hình tượng Lorca nổi bật
trên cái nền văn hóa đó thật cao quý. Đó là một tràng kị sĩ lang thang đơn độc, một ca
sĩ dân gian TBN hát nghêu ngao. Bởi Lorca không chỉ đơn độc trong sáng tạo nghệ
thuật, mà còn đơn độc trong mục đích đấu tranh chân chính. Đất nước TBN với nền
chính trị độc tài, vẫn không ngừng ngêu ngao những âm thanh cùng mục đích với
Lorca. Dù nỗi bất hạnh của cuộc đời ai cũng cảm thấy nhưng tất cả như muốn ngóng
chờ địa vị đó ở Lorca. Vì thế TBN trở nên kinh hoàng khi nghe tin Lorca bị giết hại.
Hình ảnh Lorca bị điệu về bãi bắn với cây đàn, chàng đã như người mộng du
Cùng với bầu trời đồng cỏ, dòng sông tạo một ấn tượng đau sót về hình ảnh một con
người chân chính đang chập chờn đi vào cõi chết. Chàng nghệ sĩ đi đến cái chết mà
tâm hồn và tiếng đàn của chàng vẫn say đắm trong cái đẹp của cuộc sống và nghệ
thuật. Chàng thả hồn vào tiếng ghita nâu, tiếng ghita lá xanh biết mấy. Màu nâu của

vỏ đàn, mà của đất, màu xanh của tình yêu và cuộc sống. Bởi lẽ đối với người TBN
thì loại nhạc cụ này tự nhiên hể như hơi thở như nỗi buồn mênh mang, mà bất cứ
người TBN nào cũng đã hấp thụ cùng sữa mẹ, nó cũng hệt như tiếng hát ru con mà
Lorca được những người phụ nữ láng giềng hát cho nghe thủa ấu thơ. Chàng đối diện
với tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy, đối diện với
họng súng quân thù. Mà tâm hồn còn mải miết hướng về bầu trờ cô gái ấy, hướng về
tình yêu và cuộc sống dân chủ tươi đẹp không màng cái chết cận kề. Lá bùa ném trôi
vào xoáy nước khép lại cuộc đời người chiến sĩ chống Phát xít kiên cường. Những
người yêu dấu của đất nước TBN như tiếng đàn với âm thanh Lili thơm sắc hoa Tử
Linh Hương thì mãi lan tỏa trên dòng sông cuộc sống vĩnh hằng.
2/Giây phút bi phẫn của cuộc đời Lozca (Khổ 2+3)
- Ông bị bọn Phát xít sát hại rồi ném xác xuống giếng để phi tang . Với tính cách
trung thực yêu tự do, yêu cái đẹp và một tâm hồn tràn đầy khát vọng về cuộc sống
tươi sáng cho nhân dân mình. Việc Lorca đến với cuộc đấu tranh chống áp bức là tất
yếu


- 1936 ông và một số người cùng chí hướng trong đó có cả các đảng viên cộng sản
thành lập liên đoàn trí thức chống Phát xít.
- 16/07/1936 ông trở về quê hương, để dự hội thánh. Đó cũng là những ngày bùng
lên cuộc nội chiến giữa lực lượng dân chủ TBN với lực lượng Phát xít phản động.
Trên đường đi ông bị bọn phản động chặn-bắt. Rồi bị sử bắn tại mảnh đất gần quê
hương (Gốc cây Olive) vào một sáng 8/1936 cạnh gốc cây Olive. Cái chết của Lorca
là sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở TBN mà còn với toàn thế giới, không chỉ
lúc bấy giờ mà con âm vang tới nhiều năm sau.
- Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó để tỏ sự ngưỡng mộ đau sót
bằng hình ảnh biểu tượng nghệ thuật Lorca qua một hình ảnh quen thuộc và độc đáo
đàn Ghita, khổ 2 và 3 đã tập trung khắc họa ấn tượng về cái chết bi phẫn của Lorca.
- Đối lập và nhân hóa là 2 hình tượng nghệ thuật nổi bật mà Thanh Thảo đã dùng
trong bài thơ:

- Đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với thế lực tàn ác của bọn Phát xít.
Đối lập giữ tiếng đàn, tiếng hát yêu đời vô tư, với hiện thực phũ phàng đến kinh
hoàng, hiện thực đẫm máu. Áo choàng bê bết đỏ, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan,
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy. Trên tất cả là sự đổi lập giữa tình yêu cái đẹp với
nhưng thế lực dã man tàn bạo.
- Hình ảnh tiếng Ghita ròng ròng máu chảy, được tạo ra bằng nghệ thuật nhân hóa có
sức ám ảnh rất đặc biệt: Âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn đã thành thân thể,
sinh thể, linh hồn của người nghệ sĩ bất tử.
- Tác giả còn sử dụng những biện pháp hoán dụ: tiếng đàn để chỉ nghệ sĩ Lorca, áo
choàng bê bết đỏ chỉ cái chết bi phẫn của nhà thơ. Biện pháp so sánh và chuyển đổi
cảm giác theo thuyết tương giao của lối thơ tượng trưng siêu thực trong bài thơ, khiến
những hình ảnh thơ là những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc.
+ Tiếng ghita nâu: tình yêu say đắm
+ Tiếng ghita lá xanh: của sự sống và cái đẹp muôn đời
+ Tiếng ghita tròn bọt nước: cái chết bất ngờ
+ Tiếng ghita ròng ròng máu chảy: nỗi đau bi phẫn.
- Âm thanh đã vỡ nhòa thành màu sắc hình khối, đường nét, gợi bao xúc động xót
thương trước cái chết bất ngờ của người con TBN yêu quý.
3/ Niềm tin vào sự bất tử của tiếng đàn Lorca(Phần còn lại)
- Cái chết của Lorca thật bất ngờ và đau xót. Ông không có một phần riêng không ai
nhìn thấy thi thể của ông. Ông đã trở thành một phần máu thịt của đất nước TBN
nhưng hồn ông hòa vào núi sông TBN toàn bộ cuộc đời Lorca gây ấn tượng như một
mùa hè không thể nào quên rực rỡ và chan hòa ánh nắng bởi chàng nghệ sĩ tài hoa,
người anh hùng chống Phát xít đã bị giết hại một cách đê hèn. Thân thể của Lorca có
thể mục nát dưới đáy giếng, cây đàn của chàng có thể bị bạo lực đập vỡ nát. Nhưng
linh hồn và tiếng đàn của chàng thì mãi ngân vang.
- Hình ảnh ấn dụ “tiếng đàn” tượng trưng cho nghệ thuật của Lorca, cho tình yêu
con người và yêu tự do mà ông suốt đời theo đuổi thì sẽ sống mãi. Lorca là một ca sĩ
yêu tự do mà đơn độc. Chàng một mình lang thang hát lên niềm khát vọng của nhân



dân mình. Chàng từng dự cảm về cái chết của mình và mong muốn khi tôi chết hãi
chôn tôi với cây đàn ghita trong cát, giữa bạt ngàn rừng cam và thơm mát đồng cỏ.
Thế thì lời thơ, tiếng đàn như cỏ mọc hoang của Thanh Thảo dường như là chính hình
ảnh của Lorca của người nghệ sĩ TBN bất tử đã thấm vào cảm súc của nhà thơ VN
sinh sau Lorca cả nửa thế kỉ
- Hãy để cho tiếng đàn ấy trở về với thiên nhiên, với sự sống vĩnh hằng, bởi đây là
cái đẹp không ai có thể hủy diệt, nó sẽ sống, sẽ lan truyền mãi, giản dị mà kiên cường
như cỏ dại .“Không ai chôn cất tiếng đàn, tiếng đàn như cở mọc hoang” . Hình tượng
tiếng đàn còn gợi nỗi sót thương của một thiên tài, và nỗi xót tiếc của một hành trình
cách tân nghệ thuật dang dở của Lorca, với nền văn chương của TBN. Bở lẽ nhà cách
tân Lorca đã chết nghệ thuật thiếu vắng kẻ dẫn đường, nghệ thuật thành thứ: “cỏ mọc
hoang” . Tất cả đã đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn được viết theo lối
tượng trưng. Tạo thành những trùng phúc giao thoa ánh xạ vào nhau, gợi những suy
tư đa chiều bộc lộ sự chân trọng và niềm tin mãnh liệt của tác giả và sự bất diệt của
tiếng đàn Lorca. Những hình ảnh đó là: “giọt nước mắt vầng trăng” “long lanh đáy
giếng” “dòng sông” “lá bùa” “chiếc ghita nâu” . Lorca bị giết hại và bị ném thi thể
xuống giếng. Ông nằm đó long lanh như làn nước mắt khổng lồ, giọt nước mắt sáng
trong khóc thương và ngợ ca người con yêu quí của TBN. Ông nằm đó như vầng
trăng long lanh soi tỏ một con người đã chết cho đất nước, cho sợ phồn sinh của nền
dân chủ.
- Hình ảnh đường chỉ tay đã đứt: ẩn dụ về số phận nghiệt ngã, nhắc tới chi tiết Lorca
bị thủ tiêu, bị ném xác xuống giếng, hình ảnh này cũng gợi số phận ngắn ngủi giữa
dòng sông-dòng đời vô tận. Lorca bị thủ tiêu, bị ném xác xuống giếng đó là vết
thương mãi chưa lành ở TBN như báo chí phương Tây từng viết. Và ghita chuyển
màu bạc gợi cái chết và sự siêu thoát cái chết của Lorca trong niềm kính cẩn của mọi
người.
- Các hành động ném lá bùa, ném trái tim, bơi sang ngang cũng có ý nghĩa tượng
trung cho một sự giã từ, một sự chọn lựa di chúc: “hi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn
ghi ta” của Lorca.Trong bài thơ ghi nhớ được lấy làm đề từ của bài thơ của Thanh

Thảo, như một chìa khóa ngầm hướng người đọc hiểu thông điệp sâu sắc của bài thơ.
Nó không chỉ bộc lộ tình yêu say đắm của Lorca với nghệ thuật với xứ sở Tây Ban
Cầm, mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi
những khát vọng của anh ta không có ai tiếp tục. Nhưng cái chết đau đơn hơn của một
nhà cách tân khi tên tuổi còn là cái chết của anh được đưa lên bệ thờ và sự sáng tạo
nghệ thuật của anh trở thành bức tường kiên cố cản trở sự cách tân văn chương của
những người đến sau.
Nhân danh lòng kính trọng Lorca hãy để Lorca có được sự giải thoát thực sự . Lorca
bơi sang ngang trên chiếc ghita màu bạc. Cây đàn ghita đã cùng bên Lorca hát lên lời
hát Lo-xi-a. Trên khắp xứ sở TBN tươi đẹp rực rỡ nắng trời thơm mát hoa cỏ, với
những con người TBN phóng thoáng giờ đây chuyển màu bạc, vĩnh biệt đi vào cõi bất
tử, lời thơ chan chứa yêu thương, ngưỡng mộ đau sót, đồng cảm của nhà thơ VN.
Lorca chọn con đường đi và chấp nhận số phận của mình. Nhà thơ Thanh Thảo dường


như đau sót ngưỡng mộ cũng đồng tình với Lorca, ném trái tim mình và lặng yên bất
chợt, nhưng tiếng hát tiếng đàn thơm sắc hoa Tử Linh Hương, của người nghệ sĩ
không chết lila, lila
III. Kết luận
1.Giá trị nghệ thuật
Bài đàn ghi ta của Lorca là bài thơ có cấu trúc cách tân vừa có cấu trúc tự sự, vừa có
cấu trúc nhạc gồm bè trầm và phần nhạc đệm của chuối âm ghita lila, lila, lila,…
Bài thơ có phong cách tượng trưng, pha màu sắc siêu thực gần gũi với phong cách
thơ của Lorca. Đây là trường phái nghệ thuật ra đời những năm 20 của thế kỉ 20. Chú
ý cái tôi đa ngã, cấu trúc thơ nổi không vần đã đảo lộn ngữ pháp cổ điển cũng rất gần
gũi với phong cách thơ của Lorca. Một nhà thơ VN – Thanh Thảo đã có một Lorca
trong lòng như vậy nên đàn ghi ta của lorca được xem như là sự gặp gỡ đẹp tạo thành
phút bùng nổ của năng lượng sáng tạo của Thanh Thảo
Hình ảnh thơ phong phú, ngôn từ mới mẻ góp phần làm nên diện mạo phong phú
của thơ ca Việt Nam sau năm 1975

2/Nội dung tư tưởng
Bài thơ là tiếng nói tri ân của Thanh Thảo với nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ
Lorca, từ đó bài thơ xây dựng được hình tượng Lorca đẹp và cảm động với nhiều khía
cạnh khác nhau:
- Một nghệ sĩ tự do và cô đơn
- Một cái chết oan phẫn bởi những thế lực tàn ác
- Một tâm hồn cao quý bất diệt
=> Đây là một hình tượng bi tráng về người nghệ sĩ chân chính trong một môi
trường
bạo
lực
thống
trị
Thanh Thảo đã từng viết: Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm
nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh
cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên



×