Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

phân tích van 12 vợ nhặt kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.02 KB, 5 trang )

Vợ nhặt
1. Nhan đề Vợ nhặt cũng là một nét độc đáo: Tình huống truyện của tác phẩm này
thể hiện ngay ở nhan đề "Vợ nhặt". Một anh nông dân "nhặt" được vợ. Thật là một
chuyện khó tin. Bởi theo quan niệm truyền thống, ông cha cho rằng:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà,
Trong ba việc ấy thực là khó khăn.
Vậy mà đọc tác phẩm chúng ta nhận thấy, Anh cu Tràng- một gã trai thô kệch,
nghèo khổ lại là dân ngụ cư- chỉ "tầm phơ tầm phào" mấy câu mà có vợ theo về giữa
lúc nạn đói khủng khiếp đang hoành hành. Sức hấp dẫn của tình huống truyện trước
hết là ở đó. Và phải chăng tình huống trong tác phẩm này là một tình huống hành
động, có lẽ đúng hơn là tình huống tâm trạng.
2. Mở đầu truyện là bức tranh xám ngắt về ngày đói:
Tình huống bắt đầu từ một câu chuyện một hoàn cảnh khác thường
a. một hoàn cảnh khác thường: Nạn đói năm 1945 làm nền cho tác phẩm đây là sự
lựa chọn chính xác để từ đó phát hiện ra vẻ đẹp của con người.
Trong lịch sử dân tộc ít có nạn đói nào khủng khiếp đến thế.
-Nó đã cướp đi sinh mạng hơn hai triệu đồng bào ta. Không phải ngẫu
nhiên mà vợ nhặt mở đầu bằng một không gian u ám, chết chóc, khung cảnh trời
chiều đói khát là cái nền triển khai mạch truyện.
-Cái đói in hằn trong không gian đó là tiếng âm thanh của những con quạ gào thê
thiết, người chết như nhả rạ. Đêm tân hôn của hai vợ chồng vẫn vang lên tiếng khóc
hờn tỉ tê của những người sống dành cho người chết.
-Cái đói hiện hình từng khuôn mặt hốc hác từng người, từng dáng điệu người bao
nhiêu đoàn người từ Nam Định, Thái Bình... kéo lên vờ mong vớ được cái gì đó để
ăn. Nhưng rất nhiều người đã bị bỏ mạng giữa đường. Ở xóm ngụ cư những bóng
người đi lại dật dờ như những bóng ma.
3. Đó là tình huống một anh cu Tràng nghèo khổ xấu trai, ế vợ đang đứng ngấp nghé
bên bờ vực của cái chết vì đói khát lại nhặt được vợ trong nạn đói khủng khiếp 1945.
+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như
hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui " Muốn
ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì". Tràng chỉ muốn hò để


xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người
đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng
thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái
"cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy
đâu".
+ Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có
người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn " Điêu, người thế mà
điêu". Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn
là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy
sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy
người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng


trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng
cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc".
Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý
định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.
Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất
lo sợ về cái đói và cái chết"mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất
lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh
phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ một từ "kệ"
thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho
cái hạnh phúc của mình.
Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để
nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại
cần chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ LIỀU,
nhưng cái Liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm,
dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết.

Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin
của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng
trước sự diệt vong của nạn đói ?
4. Tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách nhân vật. Tình huống
này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng, và cả bản thân của Tràng
nữa, vì hai lí do:
•ü Một là, Tràng - một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh
bỉ) xưa nay đàn bà con gái chẳng ai thèm để ý. Vả lại không có tiền cưới vợ, vậy mà
bỗng dưng lấy được vợ, lại là vợ theo hẳn hoi.
•ü Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, chỉ làm nghề đẩy xe bò thuê kiếm
sống qua ngày, đến nuôi thân còn không nổi lại còn đèo bòng vợ với con.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ
mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này?
•ü Trước hết là sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư: Nhìn theo bóng Tràng và người
đàn bà, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, ai cũng ngạc nhiên, phân vân "ai đấy
nhỉ ? Hay là người nhà bà cụ Tứ dưới quê lên", có người cười " hay là vợ anh cu
Tràng ?", có người thương hại "Biết có nuôi nổi nhau qua cái thời đói khát này
không ?"
•ü Bà cụ Tứ: biết tin anh cu Tràng lấy vợ, lòng bà ngổn ngang trăm mối. Bà vô cùng
ngạc nhiên, rồi vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Bà trở nên đổi khác "Cái mặt bủng
beo u ám hằng ngày bỗng trở nên rạng rỡ hẳn lên". Chính bà là ngọn lửa nhen lên
giữa cái nền thảm đạm của nạn đói làm ấm lên hạnh phúc của Tràng và cô vợ nhặt.
•ü Tràng: Tâm trạng của anh cũng khá phức tạp. Nhưng về cơ bản, anh lo ít vui
nhiều. Mới đầu Tràng cũng "chợn", nhưng liền sau đó chặc lưỡi "kệ !".Trên đường
đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, "hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái


mặt cứ vênh lên tự đắc với mình". Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu
được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc "chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng
khóc!". Bỗng nhiên "nhặt" được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột

ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy "trong người êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách
nhiệm đối với cái tổ ấm của mình cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với
mọi người, với ngôi nhà một cách lạ lùng."Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn
bó với cái nhà của hắn lạ lùng...Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập
trong lòng. Bây giờ hắn thấy hắn mới nên người". Tràng biết quan tâm đến chuyện
chính trị. Biết nghĩ suy về lá cờ đỏ và đoàn người kéo nhau đi phá kho thóc nhật. Đây
chính là sự chiếu rọi của cách mạng tới sự giác ngộ của Tràng.
•ü Cô vợ nhặt: Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất
đi lòng tự trọng, mất cả nữ tính. Thị không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể
nhặt được nơi đầu đường xó chợ. Giá của người đàn bà chỉ bằng bốn bát bánh đúc, hai
hào dầu, một cái thúng con... thị cho không Tràng chính bản thân mình chỉ vì muốn
được sống. Sau đêm tân hôn thị trở thành con người khác hẳn. Là nàng dâu hiền thảo,
biết quan tâm vun vén hạnh phúc gia đình, khác với vẻ "chao chát - chỏng lỏn - sưng
sỉa" mà Tràng đã gặp ngoài chợ.
5. Tình huống truyện thể hiện thái độ của nhà văn đối với con người và thực trạng
xã hội đương thời.
•·
Nhà văn lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay
sai đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đẩy dân tộc ta vào cảnh túng đói quay
quắt, kinh hoàng "Người chết như ngả rạ". Lịch sử còn ghi lại nạn đói ghê sợ ấy, từ
Lạng Sơn đến Quảng Trị, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
•·
Thái độ cuả nhà văn đối với con người:
•ü Nhà văn xót xa và cảm thương sâu sắc với nỗi khổ của người dân lành. Kim Lân
thực sự xót xa, ái ngại khi nhận thấy con người phải đối diện với đói rét, khi con
người bị rẻ rúng, coi thường.
•ü Kim Lân trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo: Dù
đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tăm tối, người dân nghèo vẫn luôn thương
yêu, đùm bọc, cưu mang nhau. Thậm chí càng gieo neo, khốn khó, họ càng thương

yêu nhau. Thật đúng với tinh thần"Thương người như thể thương thân", "Lá lành đùm
lá rách"...đầy tính nhân văn của dân tộc ta. Quan trọng hơn, nhà văn muốn ngợi ca
niềm tin, niềm lạc quan yêu sống của con người Việt Nam. Bởi mấp mé bên vực thẳm
của cái chết, người dân ngụ cư vẫn không hề bi quan, không buông xuôi, phó mặc sự
sống mà rất yêu sống, ham sống. Thật đúng là "còn da lông mọc, còn chồi nảy cây".
Kết bài
Tình huống truyện trong Vợ nhặt thật độc đáo. Là hạt nhân của cấu trúc thể loại,
tình huống truyện trong Vợ nhặt đóng vai trò rất quan trọng. Qua tình huống truyện,
nhà văn không chỉ dựng được chân dung các nhân vật, mà quan trọng hơn, thái độ
của nhà văn được thể hiện thật tự nhiên và sâu sắc.
II- Nghệ thuật dựng chuyện


Trước hết, mới qua cái tựa đề Vợ Nhặt thôi mà nó cũng đã mang lớp ý nghĩa, nó gây
cho độc giả một sự chú ý hết sức đặc biệt trước khi thưởng thức tác phẩm. Bởi xưa
nay trên thế gian người ta nói là nhặt được cái này, cái nọ chớ có ai nói là nhặt được
vợ bao giờ. Vả lại, lấy vợ vốn là một trong ba vịêc khó nhất đời của người đàn ông:
“tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”. Bởi vì việc dựng vợ, dựng chồng phần nhiều được tổ chức
thế này thế nọ, hết sức long trọng. Ấy vậy mà anh Tràng tự nhiên nhặt đựơc cô vợ thì
quả thật là việc bất ngờ, lý thú. Và với cái nội dung đó thì chỉ có cái nhan đề Vợ nhặt
mói nói đúng và sát với diễn biến câu chuyện mà thôi. Cũng với nhan đề độc đáo đó
mà Kim Lân đã nói lên được thân phận con người lao động nông dân trong những
năm bốn mươi lăm đói kém đến nỗi vợ mà người ta có thể nhặt được một cách dễ
dàng như nhặt một cọng rơm, cọng cỏ vậy.
Một điều quan trọng hơn góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm đó chính là
nghệ thuật dựng truyện. Đọc qua những trang truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân một
sự tưởng tượng hết sức phong phú cứ gợi và diễn ra trong tâm trí của chúng ta. Một
bức tranh nông dân trong những năm bị cái đói hoành hành của một phần tư đất nước,
cứ như rõ mồn một. Nhân dân lao động bị đói, tiều tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước
mắt. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi chứng kiến cái cảnh “ Cái đói đã tràn về” trẻ con vì

đói khát mà “chúng ngồi ủ rũ không buồn nhúc nhích”. Trẻ em vì thế, người lớn phải
trôi dạt nay đây mai đó. Một cọng rau cho đỡ đói cũng không, đâu tới hạt cơm hạt
thóc... bởi thế nhữn góc tường, phố chợ người đói nằm “la liệt như ngã rạ” càng kinh
tởm và đớn đâu khi có “cái mùi gây gây của xác người chết”.
Kim Lân đã dân truyện dựng cảnh hiện thực một cách độc đáo như vậy nhưng về
phương diện khác cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lý nhân vật lại càng độc
đáo hơn. Nhân vật Tràng hiện lên qua trang văn với đầy đủ những gì chân thật nhất
của người nông dân - người nông dân bị đói khát: “Chiếc áo vắt trên vai , dường như
mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của hắn”. Ôi tiếng “hắn” cái
tiếng xưng gọi mà ta đã quen thuọc ở Chí Phèo của Nam Cao nay lại hiện lên trước
mắt : “Hắn ngồi khóc, khóc rồi chửi, hắn chửi ai? Hắn chửi đời, chửi giời, chửi cả
làng Vũ Đại, chửi cả những thằng cha mẹ nào đẻ ra hắn....” Tiếng hắn vẻn vẹn vậy
thôi, ghê tởm ư? Thù ghét ư? Khinh bạc ư?
Không ! Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao đều gợi lên tiếng hắn với tất cả niềm
đau xót, thương cảm ,trân trọng.
Ai đã một lần đọc Vợ nhặt,làm sao không xúc động và có thể quên đựơc một nhân
vật - bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng.
Không biết được chuyện con mình – Tràng - nhặt đựơc vợ mang về tâm trạng của cụ
diễn biến thật phong phú, phức tạp. Trong những ngày tháng bị cái đói bất hạnh, bà
thấu hiểu. Bà rất ý thức về việc dựng vơ, dựng chồng cho con mình “phải làm thế này,
thế nọ”. Nhưng trời ơi “ cái khó bó cái khôn”. Con người ta có thấu hiểu cái lo lắng
đến đâu thì cũng chỉ là con số không. Bởi vậy, cụ Tứ chỉ biết nghĩ “tủi thân, tủi phận”
mà thôi. Bà thương con mình rồi thương con dâu. Cun nhìn người đaà bà lòng đầy
thương xót. Hỡi ơi ! Có ai thấu hiểu cho cụ không ? Tình thương yêu, sự đồng cảm,
chịu đựng hoàn cảnh không chỉ riêng ai – cái đói cái khát – đã khiến lòng cụ không


nghĩ gì khác, lờn nói đầy xúc động của cụ “Chúng mày lấy nhau lúc này”...thương
quá ! Sao nó mặn mà , sâu đậm đến vậy.Hoàn cảnh đói khát đến chết người vậy mà
nổi lên cái nền ấy một khối đầm ấm yêu thương làm sao, có lẽ truyền thống ngàn đời

của dân tộc “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” đựơc Kim
Lân gửi gắm qua những trang văn xúc động này.
Việc Tràng đã có vợ vừa là niềm vui, vừa là nỗi lo của bà cụ Tứ. Có cha mẹ nào
không sung sướng, hạnh phúc khi con cái của mình đủ lông đủ cánh trải qua thời niên
thiếu nay trưởng thành đã có vợ có chồng....Còn lo là lo vì hoàn cảnh hiện tại từ trước
đến giờ chỉ có hai mẹ con, nạn đói hoành hành vốn đã khó đủ ăn nay thêm một miệng
ăn lại càng khó khăn vất vả thêm. Tuy vậy, niềm vui vẫn là phần nhiều “khuôn mặt
bủng beo của bà rạng rỡ hẳn lên”, “bà cụ nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai sau
này”, bà cố giấu nỗi lo để cho con dâu được vui vẻ. Tuy vậy bà vẫn “nghẹn” lời. Bà
vẫn tin tưởng ở con, ở tương lai rạng rỡ hơn. Một câu nói đầy tự tin cảu cụ “Tụi mày
ráng bảo nahu mà làm ăn may ra trời cho khá hơn không...có ai giàu ba họ có ai khó
ba đời đâu”. Quả là một sự tin tưởng hoàn toàn khách quan, có căn cứ, khó khăn rồi
nhất định sung sướng, hạnh phúc. Nếu nói như Hồ Chí Minh trong Trời hửng thì cũng
chẳng khác nào : Hết mưa là hửng nắng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời. Vì thực tế
là như vậy, hình ảnh lá cờ đỏ tung bay cùng với đám người cướp kho thóc ở cuối
truyện cũng hiện lên trong tâm trí Tràng đã mở ra một số phận nhân vật một khung
trời mới đi làm cách mạng với những thắng lợi vang dậy non sông như Cách mạng
tháng Tám, Điện Biên Phủ sau này.
Với cách dựng truyện độc đáo, xây dựng nhân vật với sự chuyển biến tâm lí, tinh tế
Kim Lân đã thành công đáng kể với truyện ngắn Vợ Nhặt. Có thể với nhân vật, tình
tiết câu chuyện đi qua số phận nhân vật là sự mở đầu cho ý thức đấu truanh, giác ngộ
cách mạng. Dù chỉ thông qua một vài câu nói đến “lá cờ đỏ’, “Việt Minh” nhưng Kim
Lân đã thành công được và không để cho số phận nhân vật mình tối tăm bế tắc như
chị Dậu – anh Pha như Chí Phèo, anh kép Tư Bền...trước đó.
Tóm lại , đồng cảm với Kim Lân, xót thương,c ảm thông cho những con người trong
Vợ nhặt, ta hãy hát cùng Tố Hữu ca khúc vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam
ngàn đời:
Có gì đen trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau.




×