Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.4 KB, 34 trang )

Hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng.
2.1 Ủy ban Basel và hệ thống các nguyên tắc thanh tra giám sát
hoạt động Ngân hàng
Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Uỷ ban bao gồm các
chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi một số Thống đốc
Ngân hàng Trung ương vào năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp
của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng tại 10 quốc gia trên thế giới, bao
gồm Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Canada, Thụy Điển và Bỉ.
Quan điểm của Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc
gia có thể ảnh hưởng tới sự ổn định về tài chính không chỉ trong phạm vi quốc
gia đó mà trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế, đây là vấn đề cần được cơ quan
giám sát tại các quốc gia và Ủy ban Basel về Giám sát Nghiệp vụ ngân hàng đặc
biệt quan tâm.
Trong quá trình hoạt động, Uỷ ban đã xây dựng và xuất bản hai nhóm ấn phẩm
chủ yếu: 1) Bộ các nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của ngân
hàng một cách có hiệu quả; và 2) Bộ sách hướng dẫn (được cập nhật định kỳ)
với các khuyến nghị hiện nay của Uý ban Basel, các hướng dẫn và tiêu chuẩn.
Nhóm ấn phẩm nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel (25 nguyên tắc)
Bộ 25 nguyên tắc cơ bản Basel là tài liệu dành cho cán bộ thực hiện công tác
giám sát ở các quốc gia và cả trên phạm vi quốc tế. Các nguyên tắc này đã được
thiết kế cho các chuyên gia giám sát, nhóm giám sát khu vực và thị trường nói
chung theo nguyên tắc dễ áp dụng và kiểm chứng. Uỷ ban Basel sẽ cùng với các
tổ chức liên quan khác đóng vai trò nhất định trong việc giám sát tiến độ áp
dụng các nguyên tắc trên đây của các quốc gia nhằm xây dựng hệ thống giám
sát đủ mạnh. Bộ nguyên tắc cơ bản bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu sau:
- Các Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết cho việc giám sát
ngân hàng hiệu quả: cụm chủ đề này được thể hiện bởi nguyên tắc 1. Nguyên
tắc chỉ ra điều kiện của một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng có hiệu quả
là: i) phải có một khung pháp lý phù hợp; ii) phân định mục tiêu, nguồn lực và
trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; iii) quy định về chia sẻ và bảo
mật thông tin.


- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và cơ cấu: bao gồm từ nguyên tắc
2 đến nguyên tắc 5, với các nội dung chính: i) xác định rõ ràng các hoạt động tổ
chức tài chính được phép làm và chịu sự giám sát; ii) quyền đưa ra các tiêu chí
và bác bỏ đơn xin thành lập nếu không đạt yêu cầu của cơ quan cấp phép; iii)
quyền rà soát và từ chối bất kỳ một đề xuất nào đối với việc chuyển quyền sở
hữu hoặc quyền kiểm soát ngân hàng hiện tại cho các bên khác.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng: cụm
chủ đề bao gồm từ nguyên tắc số 6 đến số 15. Nội dung chính của nhóm nguyên
tắc là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng
được làm và nhất thiết phải biết xử lý trong hoạt động của mình ví dụ như: yêu
cầu về an toàn vốn cho các ngân hàng, xác định rõ những khu vực nào của vốn
ngân hàng chịu rủi ro; đánh giá các chính sách, thực tiễn hoạt động, các thủ tục
cho vay vốn, đầu tư, việc kiểm soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của ngân
hàng đó; đánh giá chất lượng tài sản và tính thích hợp của các điều khoản chống
thất thoát và quĩ dự trữ thất thoát khoản vay.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiện nay:
bao gồm từ nguyên tắc số 16 đến nguyên tắc số 20. Nhóm nguyên tắc này quy
định yêu cầu đối với một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiệu quả bao
gồm cả các hình thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Cơ quan giám sát cần
thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc ngân hàng để hiểu rõ về hoạt động của
NH, xây dựng phương pháp phân tích báo cáo thống kê và có biện pháp thẩm
định độc lập thông tin giám sát thông qua kiểm tra tại chỗ.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề yêu cầu về thông tin: chủ đề này có 1 nguyên
tắc số 21 chỉ ra cán bộ giám sát phải biết chắc mỗi ngân hàng có hệ thống lưu
trữ tài liệu phù hợp cho phép chuyên gia giám sát có thể tiếp cận và thấy được
tình hình tài chính thực tế của ngân hàng.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát:
cụm chủ đề này có 1 nguyên tắc số 22 chỉ ra các biện pháp giám sát bắt buộc để
có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời khi ngân hàng không đáp ứng
được những yêu cầu cơ bản (ví dụ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không đảm bảo,

năng lực quản trị điều hành yếu...). Trong trường hợp khẩn cấp, hoạt động can
thiệp này bao gồm cả việc thu hồi giấy phép lập tức hoặc đề nghị thu hồi giấy
phép hoạt động.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề nghiệp vụ ngân hàng xuyên biên giới: cụm
chủ đề này bao gồm từ nguyên tắc số 23 đến nguyên tắc số 25 với nội dung
hướng dẫn giám sát đối với các nghiệp vụ giao dịch ngân hàng quốc tế, yêu cầu
các ngân hàng nước ngoài hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn cao bằng tiêu
chuẩn của các ngân hàng trong nước và thiết lập quan hệ và hệ thống trao đổi
thông tin với các chuyên gia giám sát khác, đặc biệt là với chuyên gia giám sát
của nước sở tại.
Bộ sách hướng dẫn được cập nhật tháng 6 năm 2006 (10 nguyên tắc)
Tháng 6 năm 2006, Uỷ ban Basel đã phát hành tài liệu hướng dẫn với nội dung
“Đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay”. Tài liệu bao
gồm 10 nguyên tắc được chia làm 2 chủ đề chính: i) những vấn đề giám sát liên
quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay và ii) vấn
đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám sát.
Về những vấn đề giám sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và
định giá khoản cho vay. Phần này bao gồm 7 nguyên tắc đầu tiên với các vấn đề
được đề cập như sau:
_ Ban giám đốc của ngân hàng phải có trách nhiệm bảo đảm ngân hàng có
trình tự đánh giá rủi ro tín dụng phù hợp và hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả
phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của nghiệp vụ cho vay của đơn
vị đồng thời phù hợp với chính sách, hệ thống kế toán và hướng dẫn giám sát
của nước sở tại
_ Ngân hàng phải có một hệ thống phân loại khoản cho vay đáng tin cậy dựa
trên cơ sở rủi ro tín dụng
_ Chính sách của ngân hàng phải được mô hình đánh giá rủi ro tín dụng nội bộ
nhất định phê chuẩn
_ Ngân hàng phải phê chuẩn và ban hành phương pháp quản lý tổn thất khoản
cho vay hợp lý trong đó đề cập đến: quy trình, chính sách đánh giá rủi ro tín

dụng, quy trình kiểm tra lại và xác định những vấn đề về khoản cho vay, hướng
trích lập dự phòng một cách kịp thời
_ Khoản dự phòng trích lập phải đủ để có thể bù đắp những tổn thất cho vay
trong danh mục các khoản cho vay
_ Việc sử dụng phương pháp đánh giá tín dụng đã được kiểm chứng và ước
lượng hợp lý là một phần cơ bản trong việc đánh giá tổn thất cho vay
_ Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng phải cung cấp cho ngân
hàng những công cụ, trình tự và dữ liệu thích hợp để đánh giá rủi ro tín dụng.
Về vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám
sát. Phần này bao gồm 3 nguyên tắc, từ nguyên tắc số 8 đến nguyên tắc số 10;
cụ thể:
_ Định kỳ, cơ quan giám sát phải đánh giá tính hiệu quả của chính sách rủi ro
tín dụng và đánh giá thực tế chất lượng khoản cho vay
_ Cơ quan giám sát phải xác nhận phương pháp tính dự phòng tổn thất cho
vay của ngân hàng là phù hợp
_ Cơ quan giám sát ngân hàng phải xem xét chính sách và thực tế áp dụng
đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng khi kiểm tra mức đủ vốn của ngân hàng.
Thực trạng công tác giám sát tại Việt Nam và vấn đề áp dụng các nguyên tắc
Basel vào hoạt động giám sát Trong điều kiện Việt Nam đang trong quá trình
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi, tín dụng nhanh

là một tín hiệu khả quan, nhưng
đồng thời cũng là nguy cơ khi năng lực quản trị điều hành, khả năng cạnh tranh
của các ngân hàng còn yếu kém.
Với trách nhiệm đảm bảo an toàn hệ thống, Bộ máy giám sát tài chính ngân
hàng tại Việt Nam chưa được xây dựng đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo giảm
thiểu rủi ro. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa được chuyển đổi
hoạt động theo mô hình Ngân hàng Trung ương. Thanh tra ngân hàng được giao
thực hiện một số hoạt động giám sát an toàn hệ thống ngân hàng trong khi vẫn

có chức năng thanh tra chuyên ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các Bộ,
cơ quan ngang bộ khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế
việc thực thi có hiệu quả chính sách giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó, việc phân
định chức năng, phối hợp nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực
hiện giám sát chủ yếu bao gồm: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam và Bộ Tài chính chưa được quy định cụ thể gây khó khăn trong
quá trình tác nghiệp, hoạt động chồng chéo. Phương pháp thanh tra giám sát
đang từng bước được đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Kiểm
tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là nội dung hoạt động chủ yếu, khả năng giám
sát toàn bộ thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn yếu.
Những vấn đề nói trên đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn diện hệ thống giám sát
cả về tổ chức và phương pháp thực hiện. Cải cách là tất yếu, nhưng nếu cải cách
quá chậm sẽ khiến chúng ta phải gánh chịu chi phí cơ hội ngày càng lớn và rủi
ro đổ vỡ sẽ không chờ đợi bất kỳ ai, vì bất cứ nguyên nhân gì. Đề án phát triển
ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban
hành kèm theo Quyết định 112/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 5 năm 2006 của

Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra lộ trình xây dựng khung pháp lý quan trọng cho
hoạt động ngân hàng như xây dựng Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (mới),
Luật các Tổ chức tín dụng (mới), Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Giám sát an toàn
hoạt động ngân hàng. Trong quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng và hoạt động
giám sát, Việt Nam cần nghiên cứu các quy trình, chuẩn mực quốc tế (Bộ các
nguyên tắc Basel là một trong số đó) để hoạt động giám sát thực sự là chốt chặn
an toàn cho nền kinh tế.
2.2 Hệ thống CAMELS trong giám sát hoạt động của các Ngân
hàng.
Hệ thống CAMELS là hệ thống đánh giá hoạt động Ngân hàng toàn diện,
được dùng phổ biến trên thế giới. Để góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra giám
sát Ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Các thanh tra viên sử dụng báo cáo giám sát CAMELS để tiến hành xếp hạng

cho từng Ngân hàng dựa trên sự đánh giá của 6 cấu phần chính về năng lực và
hoạt động của 1 Ngân hàng. Sự xếp hạng sẽ cân đối với quy mô và sự phức tạp
của Ngân hàng, dặc trưng trong hoạt động và việc quản lý rủi ro của Ngân hàng.
Việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ thống Ngân hàng
đua ra những hoạt động cần thiết cho thanh tra tại chỗ. Nội dung của toàn bộ
hoạt động thanh tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều chỉnh cho việc xếp hạng tổng
thể CAMELS. Các cấu phần được đánh giá trên các khía cạnh sau :
- Vốn (C)
- Chất lượng tài sản có (A)
- Chất lượng quản lý và hoạt động (M)
- Thu nhập (E)
- Thanh khoản (L)
- Độ nhạy với lãi suất (S)
Việc tổng hợp xếp hạng được đánh giá dựa trên thang điểm từ 1 đến 5 theo
mức độ cần giám sát tăng dần. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả của việc xếp
hạng 6 cấu phần. Xếp hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý nghĩa là tổ chức
tín dụng có hệ thống tốt nhất, đảm bảo chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền với
một mức độ giám sát ít nhất. Xếp hạng 5 là mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ
chức tín dụng này có hoạt động yếu kém, không đảm bảo khả năng quản lý rủi
ro và đòi hỏi hoạt động giám sát cao nhất cho tổ chức tín dụng này.
2.2.1 Đánh giá hoạt động
Ý nghĩa của việc xếp hạng cho từng mức như sau :
Xếp hạng 1 : Cho thấy tổ chức hoạt động tốt với mức cao hơn mức trung bình
chung
Xếp hạng 2 : Cho thấy tổ chức hoạt động ở mức chấp nhận được với mức độ
đánh giá trung bình hoặc trên trung bình không nhiều. Điều này cũng có nghĩa
hoạt động của tổ chức tín dụng vừa đủ đảm bảo ở mức an toàn.
Xếp hạng 3 : Cho thấy tổ chức hoạt động ở mức thấp hơn mức độ được chấp
nhận, được đánh giá như mức độ hoạt động dưới mức trung bình.
Xếp hạng 4 : Là mức độ cho rằng hoạt động của tổ chức là không đảm bảo,

thấp hơn mức độ trung bình rất nhiều. Nếu không được tiến hành kiểm tra thì tổ
chức tín dụng này có thể dẫn đến nguy cơ mất năng lực hoạt động.
Xếp hạng 5 : Mức độ này cho thấy hoạt động của tổ chức tín dụng là rất kém và
đòi hỏi cần phải được chú ý giám sát ngay. Hoạt động này thường đi kèm với
những yếu kém và nguy cơ mất năng lực hoạt động của tổ chức tín dụng.
Việc xếp hạng cho từng cấu phần được tiến hành độc lập nhưng cũng cần xem
xét mối quan hệ với các cấu phần khác. Mức xếp hạng quá cao hoặc quá thấp
cho một cấu phần có thể dẫn đến điều chỉnh tăng hoặc giảm xếp hạng cho các
cấu phần khác.
Ví dụ, một Ngân hàng cho chỉ số xếp hạng cho cấu phần vốn được dự tính ở
mức 1 nhưng nếu cấu phần chất lượng tài sản có lại được xếp hạng ở mức 4 thì
mức xếp hạng của cấu phần vốn nên được điều chỉnh giảm xuống ít nhất là ở
mức 2 hoặc thấp hơn nữa để cho thấy sự thiếu mức vốn đảm bảo có mối quan
hệ với chất lượng tài sản xấu. Tương tự đối với việc xếp hạng cho cấu phần thu
nhập và thanh khoản vì những cấu phần này cũng chịu những tác động tiêu cực
khi chất lượng tài sản kém. Trong một tình huống khác, việc xếp hạng cao cho
cấu phần quản lý có thể dẫn đến không điều chỉnh thấp đi cho các xếp hạng của
các cấu phần khác bởi vì chất lượng của quản lý có thể giúp tổ chức tín dụng
vượt qua được những khó khăn tạm thời.
2.2.2 Xếp hạng cấu phần.
C – Mức đảm bảo vốn
Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn đảm bảo chống đỡ với các loại rủi ro
đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản lý để xác định, đo lường,kiểm soát
và điều chỉnh những rủi ro này. Những tác động của rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường và các rủi ro khác đối với hoạt động của ngân hàng có thể xem như
thước đo đánh giá mức độ đủ vốn của ngân hàng. Các loại hình và mức độ rủi ro
tác động đến hoạt động của một ngân hàng sẽ quyết định đến mức vốn cần duy
trì them trên mức vốn tối thiểu theo quy định để từ đó có thể đề phòng những
hậu quả xấu mà những rủi ro này có thể có đối với mức vốn của ngân hàng.
Mức đảm bảo vốn nên được xếp hạng dựa trên những yếu tố đánh giá sau :

- Mức vốn, chất lượng vốn và khả năng tài chính tổng thể của ngân hàng.
- Khả năng quản lý để có thể xác định những nhu cầu cho nguồn vốn bổ sung.
- Bản chất xu hướng và số lượng các tài sản có vấn đề, và mức độ đảm bảo dự
phòng rủi ro cho các khoản mất nợ và các quỹ dự phòng khác.
- Bảng tổng hợp cân đối tài sản bao gồm nội dung và số lượng các tài sản vô
hình, rủi ro thị trường, rủi ro tập trung và những rủi ro có lien quan đến các hoạt
động không mang tính truyền thống của ngân hàng.
- Các rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động ngoại bảng của ngân hàng.
- Mức thu nhập và sự hợp lý của cổ tức.
- Triển vọng và kế hoạch phát triển, cũng như việc đảm bảo kế hoạch tăng
trưởng trong quá khứ.
- Khả năng tiếp cận với thị trường vốn và các nguồn vốn khác bao gồm cả sự hỗ
trợ vốn của các cổ đông hiện tại và cổ đông triẻn vọng trong tương lai.
Xếp hạng : Những ngân hàng có chỉ số vốn được xếp hạng ở mức 1 hoặc 2 sẽ
có đủ mức vốn mặc dù các chỉ số vốn của ngân hàng xếp hạng 1 thông thường
lớn hơn chỉ số của ngân hàng xếp hạng 2. Ngân hàng xếp hạng 3 là những ngân
hàng mà mức vốn đảm bảo cho các tài sản có rủi ro , các tài sản có chất lượng ở
mức tương quan thấp, tốc độ tăng trưởng của ngân hàng, kế hoạch và triển vọng
phát triển ; và tăng cường năng lực quản lý cũng đòi hỏi vốn đảm bảo cho dù
cấu phần quản lý được xem như là một nhân tố tác động tốt. Trong phần lớn các
trường hợp, những ngân hàng như vậy sẽ có các chỉ số vốn nằm dưới mức trung
bình của nhóm đồng hạng. Ngân hàng xếp hạng 4 hoặc 5 rõ ràng là những ngân
hàng không đảm bảo được mức vốn cần thiết, với mức xếp hạng 5 tức là ngân
hàng đang đứng trước nguy cơ bị mất năng lực hoạt động và mất khả năng
thanh toán. Mức xếp hạng 5 cũng là mức đòi hỏi ngân hàng phải có ngay một sự
hỗ trợ từ các cổ đông hoặc từ các nguốn hỗ trợ tài chính bên ngoài khác.
A – Chất lượng tài sản có
Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên mức độ, sự phân bổ và tình trạng
của các nhóm tài sản không tính cộng dồn và tài sản được giảm lãi suất; mức độ
đảm bảo dph nợ,năng lực quản lý và điều hành việc xử lý và thu hồi những

khoản nợ có vấn đề. Mức đảm bảo dự phòng nợ và khả năng có thể xử lý và thu
hồi các khoản nợ có vấn đề chính là yếu tố tác động tốt, ở một chừng mực nào
đó, đến khả năng khắc phục những khó khăn có thể xảy ravới các nhóm nợ.
Việc đánh giá chất lượng tài sản có nên xem xét đến các mức độ tập trung tín
dụng hoặc đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, và tính hợp lý
của các chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng.
Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên những tiêu thức sau :
- Khả năng đảm bảo các tiêu chuẩn bảo lãnh nợ, khả năng điều hành và quản lý
tín dụng, và các năng lực quản lý rủi ro cần thiết khác.
- Số lượng, sự phân bổ tình trạng và xu hướng của các tài sản có vận động đã
phân loại, không tính cộng dồn, cơ cấu lại,quá hạn và không hoạt động trên cả
nội bảng lẫn ngoại bảng.
- Mức độ đảm bảo dự phòng cho mất nợ và các dự phòng tài sản khác.
- Những rủi ro tín dụng có thể tăng hoặc giảm thông qua các hoạt động ngoại
bảng như các cam kết nợ không được thực hiện, các cam kết tín dụng, các thư
tín dụng thương mại hoặc bảo lãnh.
- Khả năng đa dạng hóa vá chất lượng của các khoản nợ và các danh mục đầu
tư.
- Mức độ tập trung hóa tài sản.
- Tính hợp lý của các chính sách cho vay, đầu tư cũng như các thủ tục có liên
quan.
- Khả năng quản lý trong việc xử lý các tài sản bao gồm cả việc phát hiện kịp
thời và thu hồi được những khoản nợ có vấn đề.
- Năng lực kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin quản lý
- Số lượng và bản chất của những hồ sơ tín dụng đặc biệt.
Xếp hạng : Xếp chất lượng tài sản có ở mức 1 và 2 không đòi hỏi nhu cầu cần
thanh tra giám sát. Cả hai mức độ xếp hạng này đều cho thấy một danh mục nợ
và đầu tư của ngân hàng ở mức tốt, mặc dù xếp hạng ở mức 1 được hiểu là mức
độ và thực trạng của các nhóm nợ là tốt hơn mức 2. Xếp hạng ở mức 3 đòi hỏi
một mức giám sát nhất định, đặc biệt trong hoàn cảnh có những xu hướng tiêu

cực có thể dẫn đến những vấn đề trầm trọng hơn trong tương lai. Xếp hạng ở
mức 4 hoặc 5 là mức độ của những tài sản đang có những vấn đề nghiêm
trọng,đặc biệt với mức 5 là một dấu hiệu đe dọa đến khả năng mất năng lực hoạt
động của các ngân hàng do những tác động dây truyền của các tài sản có vấn đề
nghiêm trọng này đối với việc duy trì và đảm bảo mức vốn của ngân hàng
M – Quản lý
Cấu phần quản lý cần được đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố ddc cho là cần
thiết đối với hoạt động của ngân hàng trong một môi trường an toàn và các hoạt
động ngân hàng được chấp nhận. Do vậy, cấu phần quản lý được đánh giá dựa
trên trình độ học vấn, năng lực điều hành và lãnh đạo, các chính sách và quy
trình quản lý rủi ro, khả năng tuân thủ Pháp luật và các quy định, khả năng lên
kế hoạch và đối phó với những biến động của môi trường,và những kết quả từ
sự thành công trong quản lý. Việc đánh giá cấu phần quản lý cũng cần xem xét
đến những chất lượng của những hoạt động kinh doanh và tất cả các chính sách
cho vay, đầu tư và kinh doanh, cũng như sự tham gia của ban giám đốc và các
cổ đông.
Căn cứ vào đặc trưng và phạm vi hoạt động của ngân hàng, hoạt động quản lý
có thể xem xét đến một số hoặc tất cả những rủi ro sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường ,rủi ro hoạt động , hoặc các giao dịch, danh tiếng, chiến lược, khả năng
tuân thủ , tính pháp lý, và thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động quản lý tốt
được theo dõi chặt chẽ bởi ban giám đốc và hội đồng quản trị, các cá nhân cạnh
tranh, tính hợp lý của các chính sách, tác nghiệp và kiểm soát sẽ cần xem xét
them với quy mô và vai trò của ngân hàng,khả năng duy trì một chương trình
kiểm toán cũng như môi trường kiểm soát nội bộ hợp lý, và hệ thống quản lý
thông tin và quản lý rủi ro hiệu quả.
Năng lực và các hoạt động của ban quản lý và hội đồng quản trị sẽ được đánh
giá dựa trên những yếu tố sau :
- Mức độ và chất lượng của hoạt động kiểm tra và hỗ trợ đối với tất cả các hoạt
động của ngân hàng của ban quản lý và hội đồng quản trị ngân hàng.
- Năng lực của ban quản lý và hội đồng quản trị, trong từng chức năng nhiệm vụ

của mình, để lên kế hoạch và đối phó với những rủi ro có thể có do những thay
đổi trong điều kiện kinh doanh hoặc những cải cách để đưa ra những sản phẩm
dịch vụ và hoạt động mới.
- Khả năng đưa ra và thích ứng với những chính sách nội bộ và kiểm soát hoạt
động kinh doanh cũng như rủi ro của những hoạt động chư yếu.
- Tính chính xác kịp thời và hiệu quả của hệ thống thông tin quản lý và hệ thống
kiểm soát rủi ro tương ứng với quy mô sự phức tạp và rủi ro của ngân hàng.
- Tính hợp lý của kiểm toán và kiểm soát nội bộ nhằm tạo động lực cho các hoạt
động của ngân hàng được hiệu quả và đảm bảo tính tin cậy cho các báo cáo tài
chính và báo cáo thanh tra, các tài sản đảm bảo, đồng thời cũng đảm bảo sự tuân
thủ với các quyết định, chỉ thị và hướng dẫn của thanh tra và các chính sách nội
bộ.
- Mức độ thực hiện và tuân thủ với các quyết định và chỉ thị và khả năng đáp
ứng với các khuyến nghị của kiểm toán viên và các thanh tra viên có thẩm
quyền.
- Kết quả và sự thành công của các nhà lãnh đạo cao cấp.
- Mức độ mà ban quản lý và hội đồng quản trị phải chịu sự chi phối, tác động và
kiểm soát của chủ sở hữu chính.
- Tính hợp lý của các chính sách khen thưởng , tránh tình trạng tập trung quyền
lực và mâu thuẫn lợi ích.
- Xem xét khả năng thích ứng với các yêu cầu có tính pháp lý của ngân hàng
trong hệ thống, và hoạt động tổng thể của ngân hàng cũng như các rủi ro của nó.
Xếp hạng : Xếp hạng ở mức 1 tức là hoạt động quản lý của ngân hàng đảm bảo
ở mức hiệu quả toàn diện với tất cả các yếu tố và khả năng ứng phó và xử lý với
tất cả những vấn đề hiện tại và những vấn đề dự tính có thẻ xảy ra với hoạt động
của ngân hàng. Mức xếp hạng 2 cho thấy một vài điểm yếu những nhìn chung là
thỏa mãn những yêu cầu của hoạt động quản lý.Mức 3 cho thấy hoạt động quản
lý chưa đủ thỏa mãn để đối phó với những tình huống trong hoạt động ngân
hàng. Hoặc là hoạt động quản lý này được đánh giá ở mức vừa phải, có thẻ trên
trung bình một chút, hoặc dưới mức trung bình theo quy mô hoặc loại hình ngân

hàng.Do vậy, năng lực quản lý với những tình huống không thuận lợi có thể còn
thiếu. Mức xếp hạng 4 cho biết khả năng quản lý nhìn chung là dưới mức được
chấp nhận và mức được yêu cầu. Mức 5 được sử dụng trong trường hợp ngân
hàng không còn khả năng cạnh tranh. Trong những trường hợp này, những vấn
đề có nguyên nhân từ việc quản lý yếu kém kéo theo những hậu quả xấu với
hoạt động của ngân hàng cần phải có sự cải cách nâng cao năng lực quản lý
thậm chí thay đổi ban quản lý nhằm khôi phục lại môi trường hoạt động hiệu
quả cho ngân hàng.
E – Thu nhập
Cấu phần thu nhập được đánh giá dựa trên khả năng xử lý với các khoản nợ mất
và khả năng đảm bảo mức vốn cần thiết, xu hướng tăng trưởng của thu nhập, so
sánh trong nhóm đồng hạng, chất lượng và các cấu phần của thu nhập ròng,
mức độ thu nhập của nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Việc đánh giá cũng cần
xem xét mối quan hệ với tỷ lệ chi trả cổ tức, với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận để
lại và mức độ đảm bảo vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo dự phòng mất nợ và
đề phòng với những bất thường, với các giao dịch chứng khoán và với các tác
động của thuế cũng cần được xem xét khi đánh giá cấu phần này.
Việc xếp hạng thu nhập được căn cứ trên những tiêu thức sau :
- Mức thu nhập, bao gồm cả xu hướng tăng trưởng và mức độ ổn định
- Khả năng đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng vốn từ nguồn lợi nhuận để lại.
- Chất lượng và các nguồn của thu nhập, cũng như mức chi phí gắn liền với
các hoạt động kinh doanh.
- Khả năng đảm bảo ngân quỹ và những tac nghiệp dự tính và hệ thống
thông tin quản lý
- Khả năng đảm bảo dự phòng mất nợ và các dự phòng tài sản khác.
- Những rủi ro tiềm ẩn đối với biến động lãi suất, tỷ giá.
Xếp hạng – Thu nhập được xếp hạng 1 được xem như có dự phòng đầy đủ cho
các khoản mất nợ và đảm bảo sự tăng trưởng đều đặn của vốn với một chất
lượng tài sản và tốc độ tăng trưởng ngân hàng đã cho. Nhìn chung, ngân hàng
được xếp hạng này thường ở trên mức trung bình của nhóm đồng hạng. Một

ngân hàng có mức thu nhập xoay quanh một mức tuyệt đối hoặc thậm chí có xu
h đi xuống có thể được xếp hạng 2 tức là mức thu nhập của ngân hàng này được
xem là thỏa mãn các đánh giá thu nhập đã neu trên. Thông thường ngân hàng
này có chỉ số thu nhập trùng hoặc trên một chút so với nhóm đồng hạng. Mức
xếp hạng 3 gắn liền với mức thu nhập được cho là không đủ để đảm bảo trích
dự phòng mất nợ và đảm bảo tăng trưởng vốn đều theo kịp với tố độ tăng
trưởng ngân hàng. Thu nhập của những ngân hàng này có thể chỉ thể hiện dưới
các mức thu nhập có tính tuyệt đối hoặc những xu hướng thu nhập không thống

×