Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG DÀI HẠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.8 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG DÀI HẠN
I-/ TÍN DỤNG - CÁC LOẠI HÌNH TÍN DỤNG:
1-/ Một số khái niệm cơ bản.
Tín dụng đã xuất hiện ngay từ thời kỳ phong kiến, tự cấp tự túc. Khi đó,
trong nền kinh tế đã có sự phân chia của cải. Phần lớn tư liệu sản xuất nằm
trong tay một số ít địa chủ. Nông dân chiếm đại đa số những không có tư liệu
sản xuất họ phải làm thuê mà vẫn không đủ ăn. Để duy trì cuộc sống, họ phải đi
vay. Giai cấp thống trị nắm trong tay tư liệu sản xuất đã thực hiện quá trình
sản xuất và phát triển theo hướng có lợi cho họ, đó là cho nông dân vay nặng
lãi. Lãi suất cho vay lên tới 200-300% năm và lãi suất này đã chiếm toàn bộ
phần thặng dư. Tín dụng ra đời, thời kỳ này lãi suất cao do sản xuất hàng hoá
chưa phát triển, Nhà nước chưa có sự điều tiết đối với quan hệ tín dụng nên
người cho vay tự ấn định mức lãi suất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị
trường đã hình thành và phát triển nhiều loại hình sở hữu, có sự phân công lao
động, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Luôn luôn tồn tại một thực tế là
ở bất kỳ một thời điểm nào trong nền kinh tế cũng xảy ra hiện tượng thừa vốn
hay thiếu vốn tạm thời do tính chất mùa vụ, chu kỳ kinh doanh. Người thiếu
vốn cần vay để giải quyết nhu cầu, người thừa vốn lại muốn cho vay ra để tăng
thêm lợi nhuận. Đây chính là tiền đề tạo ra quan hệ tín dụng.
Vậy tín dụng là gì?
Có quan niệm cho rằng, “tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ
thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng
trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết
hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận”.
Tuy nhiên, sự phát triển và biến đổi là hết sức đa dạng và phong phú.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, có rất nhiều cách thức loại
hình của nghiệp vụ tín dụng. Việc đưa ra một khái niệm như thế sẽ là gò bó và
không linh hoạt. Vì vậy khái niệm tín dụng chỉ nên đưa ra một cách đơn giản
như sau:
“Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau một cách tạm thời


dựa trên nguyên tắc có hoàn trả và sự tin tưởng”.
Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu tín dụng theo một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, quan hệ tín dụng là quan hệ vay mượn và sử dụng vốn của
nhau giữa các chủ thể kinh tế. Vốn ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng trong
đó bao hàm cả tiền và tài sản. Các chủ thể có thể là hai hoặc nhiều bên cùng
tham gia vào hoạt động tín dụng - điều này giải thích khái niệm đồng tài trợ.
Thứ hai, vốn này chỉ được sử dụng một cách tạm thời nghĩa là có thời
hạn. Thời hạn ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Và khi
hết thời hạn này vốn phải được hoàn trả chủ sở hữu hoặc người cho vay.
Thứ ba, quan hệ tín dụng phải được dựa trên sự tin tưởng. Trên cơ sở có
sự tin tưởng mà một bên sẽ đồng ý cho bên kia sử dụng vốn của mình trong
một thời gian thoả thuận. Trường hợp cho vay không cần bảo đảm chính là đã
được dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Nếu như bên cho vay không tin tưởng
bên đi vay thì họ sẽ yêu cầu đảm bảo bằng tài sản có giá trị tương đương - đây
là trường hợp cầm cố thế chấp bảo lãnh.
Trong quan hệ tín dụng có nhiều loại hình, chủ thể tham gia như: Nhà
nước, ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng và với mỗi loại chủ
thể có thể phát sinh nhiều loại quan hệ tín dụng khácn hau như tín dụng Nhà
nước, tín dụng thương mại, tín dụng hợp tác xã, tín dụng tiêu dùng, tín dụng
thuê bao.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng mà chủ thể tham gia gồm một
bên là ngân hàng và một bên là phần còn lại của nền kinh tế - gồm tất cả các tổ
chức kinh tế xã hội, Nhà nước, cá nhân dân cư.
Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách:
ngân hàng đóng vai trò là người đi vay khi nó nhận tiền gửi của khách hàng,
phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn ngân hàng Nhà nước và
các ngân hàng khác; ngân hàng đóng vai trò là người cho vay khi nó ứng vốn ra
nền kinh tế.
Về tính chất phức tạp của hoạt động cho vay nên khi nói đến tín dụng
người ta thường đề cập đến cho vay mà ít khi đề cập đến mặt thứ hai đó là đi

vay. Trong khuôn khổ của chuyên đề, sinh viên thực hiện chỉ đề cập đến một
khía cạnh trong tín dụng cho vay là cho vay trung, dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là khoản cho vay có thời hạn phát sinh khi người
vay có nhu cầu sử dụng vốn trong một thời gian dài. Tín dụng trung - dài hạn
nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất
của một doanh nghiệp. Đôi khi nó cũng được sử dụng như một bộ phận của
vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trên cơ sở khái niệm tín dụng trên đây, vậy thì một khoản như thế nào
được coi là có hay không đạt được chất lượng tín dụng?
Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của ngân
hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ,...
để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi, trang trải
chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn T-H-T’ như
trên, ngân hàng sẽ thu hồi vốn gốc và có lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có
hiệu quả Xét về tổng thể ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vừa tạo
ra được hiệu quả xã hội.
Trên cơ sở đó, khi cho vay, ngân hàng phải tính toán cân nhắc để vừa đảm
bảo không vi phạm luật, vừa giải quyết được đầu ra. Để thực hiện được điều
này các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ về tình hình sản xuất kinh doanh, khả
năng tài chính, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Đây chính là các cơ sở
chủ yếu cho việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Như vậy chất lượng được hình
thành và đảm bảo từ hai phía: ngân hàng và khách hàng.
Và như thế, hoạt động tín dụng sẽ mang lại hiệu quả khi mà nó càng ngày
càng thực hiện được nhiềm món vay có chất lượng cao, góp phần tích cực cho
sự phát triển không chỉ riêng cho bản thân ngân hàng mà là cả sự phát triển
của nền kinh tế xã hội. Hiệu quả hoạt động tín dụng ngày càng cao thể hiện
mức độ đóng góp của hoạt động ngân hàng đối với xã hội ngày càng lớn. Điều
đó cũng có nghĩa hoạt động tín dụng hiệu quả khi nó đạt được sự tăng trưởng
quy mô và nằm trong tầm quản lý của ngân hàng để giữ ổn định chất lượng tín
dụng. Trong cơ chế thị trường hiệu quả hoạt động tín dụng là điều kiện tiên

quyết cho sự tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng mà trước hết là các tổ
chức tín dụng là nơi trực tiếp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
2-/ Các loại hình tín dụng:
Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên,
căn cứ vào một số các tiêu thức mà người ta có thể phân loại các loại hình như
sau:
2.1. Phân loại theo mục đích:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp
thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giốgn cây trồng, lao động,...
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn cho vay để trang trải
các khoản chi phí thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín
dụng tiêu dùng và phát hành thẻ tín dụng là một ví dụ.
- Thuê mua và các loại tín dụng khác.
2.2 Phân loại theo thời hạn:
Theo cách này tín dụng cho vay phân làm ba loại.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được
dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn. Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn
chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay trung hạn thường là cố định. Trước
đây theo thời hạn của Ngân hàng Nhà nước thì thời hạn cho vay trung hạn là
1-3 năm. Tuy nhiên cho đến nay, để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vay của các
doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại đã đưa thời hạn cuối cùng của vay
trung hạn lên 5 năm giải quyết được hai vấn đề. Thứ nhất là đáp ứng tốt hơn

nhu cầu của doanh nghiệp bởi lẽ đối với, một số tài sản nhất định thời hạn sử
dụng của chúng tương đối dài nên cần phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp
mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng. Thứ hai là tránh tình trạng tiền
cho vay của ngân hàng bị chuyển vào nợ quá hạn chỉ vì thể chế và quy định gây
ra, trong khi doanh nghiệp vẫn làm ăn có lãi và có đầy đủ khả năng trả nợ. Còn
đối với các nước trên thế giới, loại cho vay này có thời hạn lên tới 7 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới
có quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất.... Trong nông nghiệp, cho vay
trung hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước,
xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...
- Cho vay dài hạn là loại cho vay mà thời hạn của nó là dài hơn đối với cho
vay trung hạn. Loại hình tín dụng này được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn
xây dựng xí nghiệp nhà máy mới, các dự án đầu tư phát triển như cơ sở hạ
tầng.
- Nghiệp vụ cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho
vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển
sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng
cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng.
2.3. Phân loại theo căn cứ đảm bảo.
- Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối vói
những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi
nguồn thu nợ bổ xung.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung cấp với điều
kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có
bảo đảm. Sự bảo đảm này căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn

thứ hai, bổ xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại
khoản tiền vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ.
2.4. Phân loại theo phương thức hoàn trả tiền vay.
Theo cách này thì khoản cho vay có thể được hoàn trả theo hai cách. Cách
thứ nhất là trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn. Hai là khoản tiền vay sẽ
được trả làm nhiều lần theo nhiều kỳ nợ. ở Việt Nam, nếu doanh nghiệp không
trả nợ vào lần sau hoặc lần sau nữa. Trong khi đó ở các nước khác nếu ngay từ
lần trả đầu tiên mà không trả được nợ thì bị coi là nợ quá hạn để có biện pháp
giải quyết.
2.5. Phân loại theo xuất xứ vốn vay.
Có loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại cho vay gián tiếp tức là
ngân hàng mua lại nợ từ chủ nợ khác.
2.6 Phân loại theo hình thức giá tự có .
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng
được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản - loại này được áp dụng phổ biến dưới hình
thức tài trợ thuê mua.
II-/ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN.
1-/ Các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là một loại trong số các loại hình tín dụng và nó
được phân biệt với các loại tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau
đây.
Thời hạn cho vay:
Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và tín dụng
ngắn hạn là thời hạn cho vay. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận vay theo
hai loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ
sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá 12
tháng.
- Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn

thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất
nguồn vốn của ngân hàng cho vay. Trong đó:
• Thời hạn cho vay trung hạn là trên 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60
tháng tuỳ theo quy định của từng ngân hàng.
• Thời hạn cho vay dài hạn là trên 36 tháng hoặc 60 tháng.
Đối tượng cho vay:
Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong
tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo, khôi phục,
thay thế, đổi mới kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất
kinh doanh.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, đối tượng cho vay trung dài hạn là
các công trình, hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng mua sắm, sửa
chữa tài sản cố định,... của các đơn vị kinh tế, có bản luận chứng kinh tế kỹ
thuật tốt, xác thực và bản tổng dự toán đã phê duyệt.
Như vậy ngân hàng cho vay nhằm trang trải các chi phí về máy móc thiết
bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế phát minh, chi phí nhân công, giá thuê,
chuyển nhượng đất đai, giá trị các hợp đồng thuê, mua tài sản cố định trong
khuôn khổ pháp luật, chi phí mua bảo hiểm tài sản cố định thuộc dự án đầu tư
và các chi phí liên quan khác.
Nguyên tắc và điều kiện vay vốn .
Khách hàng muốn vay vốn ngân hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc
tín dụng cơ bản :
- Sử dụng vốn vay mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi
vay trung dài hạn người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh
doanh. Các dự án, chương trình này phải thể hiện một cách đầy đủ, rõ ràng
việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Để đảm bảo cho dự án được thực
hiện, cần có sự thông qua, cho phép của các cơ quan có thẩm quyền. Đối với
các phương án cải tiến kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất cần có sự kết
hợp, thoả thuận chặt chẽ giữa ngân hàng và các nhà quản lý doanh nghiệp để
tránh việc sử dụng vốn sai mục đích.

- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ và ngân hàng
Nhà nước.
Trên cơ sở các nguyên tắc tín dụng cơ bản này mỗi ngân hàng sẽ đề ra các
điều kiện ràng buộc các quy định mang tính bắt buộc để có thể thực hiện vay
vốn ngân hàng. Các đối tượng cho vay thường có thời hạn sử dụng lâu dài, thời
hạn thu hồi vốn lâu theo mức độ hao mòn thực tế của tài sản đầu tư. Mức vốn
đầu tư thường rất lớn theo giá trị của đối tượng vay vốn và như thế mức độ
rủi ro sẽ cao. Theo quyết định 367/QĐNH1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về “Ban hành thể lệ tín dụng trung dài hạn” ngày 21/12/1997
đã quy định các điều kiện cho vay như sau:
- Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi, có vốn
tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự toán công trình đầu tư.
- Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước
về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và thể lệ tín dụng trung và dài hạn của ngân
hàng.
- Doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm tài sản hình thành bằng vốn
vay tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
- Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện.
+ Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép xử dụng đất do các cơ quan có
thẩm quyền cấp.
+ Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tư máy móc thiết bị và nếu là
nhập khẩu trực tiếp của nước ngoài thì phải có giấy phép nhập khẩu.
- Đối với các công trình dự án của các đơn vị kinh tế đã và đang hoạt
động kinh doanh ổn định, đang có lãi thực sự, có xu hướng phát triển tốt phù
hợp với cơ chế kinh tế mới. Phải có vốn tối thiểu 30% tổng dự án đầu tư công
trình.
Hiện nay theo quy định mới của Chính phủ các đơn vị kinh tế nếu chứng
minh được là mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng được vay vốn mà

không phải có tài sản thế chấp.
Quy trình cho vay:
Quy trình cho vay là tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín dụng phải
làm khi thực hiện xem xét một khoản vay đối với người xin vay, quy trình tín
dụng là các quy định của các cơ quan cấp trên quản lý ngân hàng ban hành,
buộc ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng cho vay
bao gồm các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn.
Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và
phương án vay vốn.
Bước 3: Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Bước này
chủ yếu gồm:
- Thẩm định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển.
- Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp.
Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư.
- Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư.
- Thẩm định phương diện kỹ thuật, tổ chức quản lý, tài chính.
Bước 5: Quyết định cho vay.
Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ.
2-/ Vai trò của vốn tín dụng trung và dài hạn.
Nhu cầu về vốn tín dụng trung và dài hạn có ở mọi quốc gia, mọi nền kinh
tế bất kể điều kiện kinh tế chính trị xã hội. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển
mạnh và bền vững nếu ở nền kinh tế đó có những hoạt động đầu tư dài hạn
được chú ý. Khác với những loại hình đầu tư khác, tín dụng trung dài hạn cho
phép các tổ chức có được nguồn vốn, hạn hoàn vốn lâu dài để đầu tư vào
những dự án mang ý nghĩa chiến lược, phát huy hiệu quả trong dài hạn.
Đối với các quốc gia, các Chính phủ và nhiều tổ chức kinh doanh thì đó là
những dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, sân bay,... thậm
chí cả việc xây dựng mới các khu đô thị, thành phố. Những dự án này không thể
đem lại những lợi ích trong ngắn hạn nhưng nó đem lại những lợi ích to lớn cho

toàn xã hội trong dài hạn. Đối với Chính phủ việc có được nguồn tín dụng trung
và dài hạn sẽ giúp cho việc theo đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô, đầu tư theo
những trọng điểm theo kịch bản phát triển kinh tế đất nước. Nhờ đó họ có thể
hướng đầu tư nước ngoài, dẫn dắt đầu tư trong nước vào những lĩnh vực mà họ
coi là quan trọng và nên được khuyến khích đầu tư. Cũng như vừa được nêu ở
trên, việc xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ là điều kiện ban đầu cho cuốn hút đầu tư
nước ngoài chảy vào trong nước. Với những dự án quy hoạch lớn do các Chính
phủ đề ra sẽ tạo ra nhiều công việc mới và dẫn tới sự hình thành của các công ty
tư nhân đứng ra cung ứng các chủng loại công việc và nhu cầu đang còn bỏ ngỏ.
Những công trình phúc lợi thường không đem lại lợi ích trong đầu tư đối với
các cá nhân thực hiện, nhưng tổng lợi ích nó đem lại cho các cá nhân trong xã
hội là không thể tính hết. Hơn thế nữa, những công việc đó đòi hỏi những khối
lượng đầu tư tài chính lớn nên không có ai khác ngoài Chính phủ phải đứng ra
đảm nhận công việc này và chính nguồn tín dụng trung dài hạn hỗ trợ họ. Tín
dụng trung dài hạn có thể có được từ các nguồn như tích luỹ trong nước thông
qua việc ký gửi ổn định tại các ngân hàng, thông qua vốn vay từ các tổ chức

×