Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tín dụng ngân hang và chất lượng tín dụng ngân hàng trong cơ chế kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.88 KB, 22 trang )

Tín dụng ngân hang và chất lượng tín dụng ngân hàng trong cơ chế
kinh tế thị trường
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
1. Những hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại trong cơ
chế thị trường.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại 3 loại tín dụng là tín dụng thương mại, tín
dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng. Nói như vậy không có nghĩa là chúng
cùng xuất hiện vào một thời điểm xác định nào đó. Tín dụng ngân hàng xuất
hiện đầu tiên và phải nhiều thế kỷ sau đó tín dụng ngân hàng mới ra đời, tuy
muộn mằn nhưng tín dụng ngân hàng đã chiếm lĩnh vị trí quan trọng nhất
trong các loại hình tín dụng. Mỗi loại hình tín dụng đều mang những nét đặc
trưng cơ bản của nó và chúng tồn tại song hành với nhau, bổ sung và hỗ trợ
cho nhau.
Tín dụng thương mại biểu hiện qua quan hệ mua bán chịu hàng hóa, sản
phẩm, dịch vụ giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau thông qua công cụ
lưu thông là thương phiếu (gồm kỳ phiếu và hối phiếu) và các thương phiếu
này lại trở thành công cụ để tái chiết khấu của các NHTM. Tín dụng Nhà nước
phản ảnh quan hệ tín dụng giữa Chính phủ và dân chúng thông qua các công
cụ tài chính như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, công trái quốc gia.. Các công cụ
này cũng được dùng để cầm cồ vay vốn tại ngân hàng cũng được dùng để cầm
cố vay vốn tại ngân hàng, chuyển nhượng trên thị trường tài chính.. Tín dụng
ngân hàng phản ánh quan hệ tín dụng (cho vay) giữa một bên là ngân hàng
thương mại còn bên kia là các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thông qua các
văn bản pháp lý là các HĐTD, khế ước tín dụng, cam kết tín dụng ... TDNH ra
đời và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong nền kinh tế là tất yếu khách quan bởi
lẽ, TDNH khắc phục được những hạn chế của các loại hình tín dụng khác về các
mặt: thời gian, không gian, địa điểm, số lượng, qui mô.. mặt khác còn là do các
yêu cầu bức thiết mà xã hội phát triển đặt ra.
Tín dụng là hoạt động chính yếu trong kinh doanh ngân hàng, một mặt nó
thể hiện chức năng cơ bản của ngân hàng là đi vay để cho vay, mặt khác nó là
hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng (chiếm hơn 60% tổng thu


nhập, riêng ở nước ta tỷ lệ đó lên tới 90%). Trong kinh doanh của các NHTM,
dựa trên tính chất và phạm vi hoạt động của mình đã hình thành các dạng
hình ngân hàng đa năng, ngân hàng chuyên môn hóa, ngân hàng bán buôn hay
ngân hàng bán lẻ ... Mỗi dạng hình đều có những nét đặc trưng riêng nhưng
nói chung lại là chúng đều thực hiện tất cả các hoạt động dịch vụ ngân hàng
chỉ khác nhau ở mức độ phạm vi và tính thường xuyên của nghiệp vụ.
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan như: kinh doanh
tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi
để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.. cụ thể bao gồm các mặt
hoạt động sau:
1.1. Nghiệp vụ tài sản có (hay sử dụng vốn).
a/ Nghiệp vụ ngân quĩ:
Theo qui định của pháp luật, các NHTM thường xuyên phải duy trì một
phần tài sản của mình dưới dạng tiền dự trữ (bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại
các NHTM, NHNN ...). Mục đích là để đảm bảo khả năng thanh toán chi trẳ khi
có các luồng tiền rút ra. Dự trữ tiền mặt có hai dạng là dự trữ tiền giấy và dự
trữ tiền kim loại. Việc dự trữ tiền mặt nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào các
biến động của nền kinh tế và chiến lược hoạt động của ngân hàng. Thông
thường các NHTM không dự trữ nhiều tiền mặt bởi lẽ các khoản tiền dự trữ
này không sinh lời tuy nhiên cũng không dự trữ quá nhỏ tới mức báo động
nguy hiểm. Tiền dự trữ chia làm hai loại là:
Dự trữ tiền gửi: tiền gửi tại NHNN, tại các NHTM khác..
+ Tiền DT sơ cấp:
DT tiền mặt: gồm tiền giấy và tiền kim loại.
+ Tiền dự trữ thứ cấp: bao gồm các chứng khoán có tính lỏng cao chủ yếu
là các chứng khoán chính phủ có thời hạn ngắn như: tín phiếu, kỳ phiếu, trái
phiếu.. Việc dự trữ phải luôn tuân thủ các qui định dự trữ của NHTW (ví dụ
như ở Việt Nam tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%/ tổng vốn huy động) và NHTM dự
trữ nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố sau:

+ Môi trường hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trình độ dân trí, mức
độ phát triển của nền kinh tế, địa điểm của ngân hàng...
+ Tính thời vụ: chu kỳ kinh doanh của các thành phần kinh tế, chu kỳ phát
triển, suy thoái của nền kinh tế ...
b- Nghiệp vụ tín dụng
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản
có của NHTM và là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng nhất
nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn, chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Khi thực hiện
các nghiệp vụ tín dụng, các NHTM thường quan tâm nhiều hơn đến khả năng
sinh lời của các đối tượng vay vốn chứ không coi trọng tính thanh khoản của
các hợp đồng tín dụng bởi vì đó là nguồn bảo đảm thanh toán cho khoản vay
Ngân hàng và đó cũng là biểu hiện bản chất của tín dụng Ngân hàng. Bên cạnh
đó, Ngân hàng cũng cần phải dự báo đuợc các rủi ro có thể xảy ra đối với
khoản tiền cho vay của mình, xác định thời hạn tín dụng phù hợp với tính chất
của nguồn vốn cho vay...
c- Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán
Các NHTM sử dụng một phần nguồn vốn của mình vào việc mua và nắm
giữ các chứng khoán với các mục đích sau:
+ Tìm kiếm lợi nhuận
+ Đa dạng hoá các hoạt động của Ngân hàng để phân tán rủi ro
+ Đảm bảo khả năng thanh toán bởi vì các chứng khoán mà Ngân hàng
nắm giữ thường có tính lỏng cao
d- Các tài sản của Ngân hàng
bao gồm: Tài sản cố định, công cụ dụng cụ phục vụ cho hoạt động của
Ngân hàng và những tài sản khác là những tài sản hình thành do thanh lý các
hợp đồng tín dụng (khi đến hạn thanh toán, các khách hàng không trả được nợ
vay cho Ngân hàng, Ngân hàng sẽ thực hiện các điều khoản của hợp đồng tín
dụng như tịch biên các tài sản cố định, cầm cố... và đưa vào sử dụng phục vụ
cho hoạt động của Ngân hàng).
1.2 Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn

a- Nghiệp vụ huy động vốn: đây là nền tảng cho các hoạt động của Ngân
hàng. Ngân hàng đi vay để cho vay do vậy nguồn vốn huy động chính là nguyên
liệu cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nghiệp vụ huy động vốn bao
gồm:
+ Huy động tiền gửi: Tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số vốn
huy động của Ngân hàng bao gồm:
- Tiền gửi không kì hạn là loại hình tiền gửi mà khách hàng có thể sử
dụng vào bất cứ lúc nào. Nó chia thành 2 loại: Tiền gửi thanh toán phục vụ chủ
yếu cho mục đích chi trả, thanh toán của khách hàng mà không có lãi và Tiền
gửi không kì hạn thuần tuý có được hưởng lãi nhưng rất thấp.
- Tiền gửi có kì hạn là loại tiền gửi mà giữa Ngân hàng và khách hàng có
sự thoả thuận rút ra. Nếu khách hàng rút trước thời hạn thì chỉ được hưởng
lãi suất không kì hạn. Khách hàng ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp, các đơn
vị kinh tế có nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời gửi có kì hạn với mục đích thu lãi cao
hơn tiền gửi không kì hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm: huy động nguồn vốn tiết kiệm, tích luỹ trong dân cư.
Đối với các nước khác trên thế giới, tiền gửi tiết kiệm có hai loại sau:
Tiền gửi tiết kiệm có thông tri: là TGTK không thời hạn nhưng khi khách
hàng muốn rút ra phải có thông báo trước cho NH một số ngày nhất định.
TGTK có mục đích: là loại tiền gửi trong đó khách hàng đã xác định rõ
mục đích của việc gửi tiền là để làm gì ví dụ xây dựng nhà ở, mua sắm tiện nghi
đắt tiền .. Với loại hình TK này, khách hàng có thể được vay thêm vốn của NH
để bổ sung phần thiếu hụt khi sử dụng vào các mục đích trên.
Ở VN có ba loại TGTK là
TGTK không kỳ hạn: là loại hình tiết kiệm mà NH và Khách hàng không có
thoả thuận về thời hạn rút tiền và khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào.
- TGTK có mục đích: Đây là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm
phục vụ cho những mục đích nhất định, hiện tại chủ yếu là hình thức tiết
kiệm xây dựng nhà ở.
- TGTK có kỳ hạn: gồm TGTK có kỳ hạn được hưởng lãi và tiền gửi tiết

kiệm có lãi, có thưởng (ngoài tiền lãi khách hàng còn được thưởng thông qua
hình thức sổ số theo định kỳ)
+ Huy động qua phát hành kỳ phiếu : Trong quá trình hoạt động nếu ngân
hàng thiếu vốn trong kinh doanh, Ngân hàng có thể phát hành các chứng chỉ
tiền gửi để huy động vốn chủ yếu dưới hai hình thức sau:
- Phát hành chứng chỉ theo mệnh giá: Người mua sẽ mua bằng mệnh giá
được trả lại theo định kỳ và trả gốc khi đáo hạn.
- Phát hành chứng chỉ chiết khấu mệnh giá: Khách hàng mua chứng chỉ
với giá nhỏ hơn mệnh giá. Khoản chênh lệch giữa mệnh giá và giá mua chính
là phần lãi mà khách hàng được hưởng. Trong suốt thời hạn của chứng chỉ,
Ngân hàng không phải trả lãi cho khách hàng và hoàn trả gốc khi đến hạn.
+ Vốn đi vay:
Ngân hàng thương mại thường đi vay các Ngân hàng thương mại khác,
các tổ chức tín dụng khác, vay nước ngoài... và vay Ngân hàng Nhà nước trong
những trường hợp đặc biệt và được sự cho phép của Thủ tướng chính phủ tuy
nhiên trong ngắn hạn các Ngân hàng thương mại thực hiện vay tái chiết khấu
các giấy tờ có giá trị tại Ngân hàng Nhà nước. Ngược lại Ngân hàng Nhà nước
cho các Ngân hàng thương mại vay dưới các hình thức: cho vay có thế chấp bộ
chứng từ, cho vay theo đối tượng chỉ định hay cho vay để đáp ứng các yêu cầu
thanh toán của các NHTM thông qua thanh toán bù trừ. Nếu vay giữa các tổ
chức tín dụng khác thì chủ yếu là giải quyết khả năng thanh toán và có đặc
điểm là thời hạn rất ngắn (Thường là các thoả thuận vay qua đêm)
Ngoài ra, trong hoạt động huy động vốn còn phát sinh các nguồn vốn khác
như:
- Vốn trong thanh toán: Trong quan hệ thương mại người mua phải trả
tiền cho người bán sau khi giao hàng bằng hình thức thanh toán không dùng
tiềm mặt. Người mua tạm thời mất quyền sử dụng số tièn thanh toán đó
nhưng người bán thì vẫn chưa nhận được ngay khoản thanh toán đó do sự
ảnh hưởng của thời gian luân chuyển chứng từ trong hệ thống ngân hàng. Do
vậy NHTM vẫn có thể sử dụng tạm thời số vốn này vào mục đích hoạt động

kinh doanh của mình cho tới khi Ngân hàng thực hiện thanh toán cho khách
hàng.
- Vốn từ nghiệp vụ đại lý, uỷ nhiệm: Có hai hình thức
• Thứ nhất là Ngân hàng làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công
ty, cho các kho bạc hay thực hiện các dịch vụ khác. Trong khoản thời gian cho
phép Ngân hàng có thể tạo ra nguồn vốn hoạt động và có thể sử dụng nó.
• NHTM được uỷ thác cấp vốn cho các dự án theo sự uỷ nhiệm của các tổ
chức kinh tế, tài chính, xã hội trong và ngoài nước. Thông thường việc cấp vốn
phải theo tiến độ hoàn thành công việc của dự án, do vậy phát sinh những
khoản tiền nhàn rỗi mà Ngân hàng có thể sử dụng được
b. Nguồn vốn tự có.
Vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (5%)
nhưng nó quyết định sự ra đời của các NHTM và quyết định sự mở rộng khả
năng hoạt động của NHTM. Các NHTM sử dụng vốn tự có mua sắm trang thiết
bị phục vụ hoạt động của Ngân hàng, một bộ phận dùng để cho vay, đầu tư và
tốc độ tăng trưởng vốn tự có của Ngân hàng thể hiện thực lực của ngân hàng
đó trên thị trường. Theo quy định các NHTM chỉ được phép huy động vốn tối
đa phù hợp với khả năng đảm bảo của vốn tự có ( ví dụ ở Việt Nam, nguồn vốn
huy động không vượt quá 20 lần vốn tự có) do vậy khi vốn tự có tăng lên kéo
theo nguồn vốn hoạt động tăng lên dẫn tới việc mở rộng hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Chính vì thế các NHTM cũng rất chú trọng đến việc nâng cao
quy mô vốn tự có nhằm phục vụ cho các mục tiêu hoạt động của ngân hàng.
Vốn tự có bao gồm: VĐL và các quỹ.
Vốn điều lệ: là vốn của chủ sở hưu Ngân hàng và được ghi vào điều lệ của
Ngân hàng.
Các quỹ: bao gồm quỹ dự trữ đặc biệt, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ phát triển
nghiệp vụ. Hàng năm, các ngân hàng thương mại thường phải chích một tỷ lệ
nhất định trên lợi nhuận đạt được bổ sung vào quỹ hay VĐL nhằm các mục
đích đảm bảo an toàn và phát triển các hoạt động ngân hàng.
1.3 Các nghiệp vụ kinh doanh khác của ngân hàng thương mại.

a. Nghiệp vụ thu, chi, chuyển tiền.
NHTM đứng ra làm trung gian trong việc thu hộ, chi hộ, chuyển tiền hộ
theo các yêu cầu của khách hàng và nhận phí dịch vụ.
b. Nghệp vụ uỷ thác- thực hiện theo sự uỷ thác của khách hàng.
+ Đối với cá nhân: Có các nghiệp vụ.
-Quản lý, phân chia tài sản theo chúc thư, các công việc cụ thể bao gồm:
thu gom và bảo quản tài sản, thực hiện việc thanh toán, trang trải cho các chủ
nợ, phân chia tài sản cho các thành viên trong gia đình..
-Nghiệp vụ quản lý điều hành tài sản theo hợp đồng đã ký: ngân hàng
quản lý và điều hành tài sản thay cho khách hàng, vì mục tiêu lợi ích cao nhất
của khách hàng như: việc mua bán, chuyển nhượng tài sản, thay đổi danh mục
đầu tư, quyết định sử dụng vốn gốc và lợi tức..
- Nghiệp vụ giám hộ tài sản: ngân hàng đứng ra giám hộ tài sản cho
những khách hàng chưa đủ hoặc chưa được công nhận năng lực pháp lý
nhằm tránh việc sử dụng tài sản một cách lãng phí.
- Dịch vụ đại diện: khách hàng uỷ nhiệm cho ngân hàng đứng ra đại diện
cho khách hàng để thực hiện một số công việc liên quan đến tài sản của mình.
Quyền quyết định vẫn thuộc về khách hàng.
+ Đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội.
Ngân hàng được các tổ chức này uỷ thác trong việc sử dụng và quản lý
quỹ hưu trí, mua bán BĐS, thu hồi vốn gốc và lợi tức phân chia và chi trả lợi
tức, cổ tức..
c. Ngiệp vụ bảo quản và cho thuê tài sản.
Ngân hàng làm dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê két sắt, trang thiết bị
văn phòng... nhằm hưởng phí bảo quản và phí cho thuê
d. Dịch vụ tư vấn
Ngân hàng cung cấp cho khách hàng những lời khuyên tốt nhất về các
lĩnh vực hay theo các yêu cầu của khách hàng: ví dụ tư vấn và mua bán bất
động sản, mua bán chứng khoán..
đ. Nghiệp vụ của ngân hàng trên TTCK.

Ngân hàng đứng ra làm đại lý phát hành và phân phối chứng khoán cho
các công ty, Chính phủ hay trực tiếp tham gia mua bán chứng khoán cho mình
hoặc theo yêu cầu của khách hàng.
e. Nghiệp vụ của ngân hàng trên thị trường hối đoái.
Ngân hàng thực hiện việc mua bán vàng bạc, ngoại tệ.. kinh doanh chênh
lệch giá hay thực hiện các hợp đồng kỳ hạn đối với ngoại tệ...
-Tuy rằng các ngân hàng thương mại luôn có xu hướng đa dạng hoá các
hoạt động dịch vụ ngân hàng nhưng thực tế cho thấy hoạt động tín dụng ngân
hàng luôn là hoạt động trung tâm của mọi hoạt động ngân hàng.
2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng.

×