Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.34 KB, 45 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Dự án đầu tư và sự cần thiết của việc lập dự án đầu tư.
1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về dự án đầu tư. Tùy theo
từng mục tiêu nghiên cứu mà dự án đầu tư được nhìn nhận dưới những góc độ
khác nhau.
World Bank xem dự án đầu tư là tổng thể các chính sách hoạt động và chi
phí liên quan đến nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nào đó
trong một thời gian nhất định.
Theo tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO 8402): “Dự án là một quá trình bao
gồm các hoạt động được phối hợp thực hiện và quản lý trong một giai đoạn xác
định nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể trong điều kiện giới hạn về nguồn lực.
Theo qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định
52/1999/NĐCP ngày 8/7/1999: “Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có
liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật
chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến,
nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác
định.
Như vậy, về bản chất, “Dự án đầu tư được hiểu là tập hợp kết quả nghiên
cứu các nội dung liên quan đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu
tư”.
Về mặt hình thức trình bày, “Dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu
trách nhiệm lập, trong đó trình bày một cách khoa học và đầy đủ các nội dung
liên quan đến công cuộc đầu tư, nhằm khẳng định tính đúng đắn của chủ trương
đầu tư và đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư”.
Với những khái niệm này, dự án đầu tư là một trong những căn cứ quan
trọng nhất để quyết định việc bỏ vốn đầu tư, là phương tiện tìm đối tác đầu tư,
là phương tiện thuyết phục các tổ chức tài chính tiền tệ trong nước và nước
ngoài tài trợ hoặc cho vay vốn.


1.1.2. Các đặc trưng của dự án đầu tư.
Các định nghĩa trên đã thể hiện các quan điểm khác nhau trong khi tiếp
cận với khái niệm dự án đầu tư. Tuy nhiên, điều cần phải chú ý nhất đó chính là
các đặc trưng của dự án đầu tư. Một dự án sẽ thành công nếu các đặc trưng của
dự án được các nhà quản lý dự án nhận biết và đánh giá một cách đúng đắn.
- Dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn hàm ý hành động
với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở
trạng thái tiềm năng.
- Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải
nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực tế mới.
- Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường triển khai
dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong dự án rủi
ro thường là lớn và có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ
thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý dự án.
- Dự án bị khống chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù
phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ
hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh
tế.
- Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng
buộc về vốn, vật tư, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng
buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các
vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối
quan hệ, chẳng hạn, chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công,
các nhà kỹ thuật,…Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần
đạt tới mục tiêu của dự án.
1.1.3. Phân loại dự án đầu tư.
1.1.3.1. Phân loại theo ngành, lĩnh vực đầu tư:
- Dự án đầu tư phát triển công nghiệp.
- Dự án đầu tư phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.
- Dự án đầu tư phát triển dịch vụ.

- Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
1.1.3.2. Phân loại theo nguồn vốn đầu tư:
- Dự án đầu tư bằng nguồn vốn trong nước như: vốn Ngân sách Nhà nước,
vốn tự có, vốn vay Ngân hàng,…
- Dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài như: vốn đầu tư trực tiếp, vốn
vay, vốn hỗ trợ phát triển chính thức,…
1.1.3.3. Phân loại theo tính chất đầu tư:
- Dự án đầu tư mới: là hoạt động bỏ vốn để xây dựng các công trình mới
hoặc hình thành các đơn vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân.
- Dự án đầu tư mở rộng: là hoạt động bỏ vốn để mở rộng công trình đang
hoạt động, nhằm nâng cao công suất, tăng thêm mặt hàng, hoặc nâng cấp, hiện
đại hóa dây chuyền sản xuất, dịch vụ trên cơ sở các công trình sẵn có.
1.1.3.4. Phân loại theo chức năng quản trị vốn đầu tư:
- Dự án đầu tư trực tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó chủ đầu tư trực tiếp
tham gia quản trị và sở hữu vốn đã bỏ ra.
- Dự án đầu tư gián tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn không
trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra.
1.1.3.5. Phân loại theo chủ thể đầu tư:
- Đầu tư của Nhà nước
- Đầu tư của doanh nghiệp
- Đầu tư cá nhân
Ở Việt Nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo
Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 02 năm 2005 của Chính Phủ, dự
án đầu tư được phân loại cụ thể như sau:
Bảng 1: Phân loại dự án đầu tư
Loại dự án đầu tư xây dựng công trình
Tổng mức
đầu tư
I Dự án quan trọng quốc gia Theo Nghị
quyết của

Quốc hội
II Nhóm A
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh vực
bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc
gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng
Không kể mức
vốn.
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất
độc hại, chất nổ; hạ tầng khu công nghiệp.
Không kể mức
vốn.
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo
máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà
ở.
Trên 600 tỷ
đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao
thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình
hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông
tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình
cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông.
Trên 400 tỷ
đồng
5 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ,
sành sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
chế biến nông, lâm sản.

Trên 300 tỷ
đồng
6 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa,
giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng
khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể
dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Trên 200 tỷ
đồng
II
I
Nhóm B

1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo
máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà
ở.
Từ 30 đến 600
tỷ đồng
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao
thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình
hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông
tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình
cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông.
Từ 20 đến 400
tỷ đồng
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: hạ tầng kỹ thuật
khu đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, in,
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông,

lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm
sản.
Từ 15 đến 300
tỷ đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa,
giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng
khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể
dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Từ 7 đến 200
tỷ đồng
IV Nhóm C
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp
điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo
máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ). Các trường phổ
thông nằm trong quy hoạch (không kể mức vốn), xây
dựng khu nhà ở
Dưới 30 tỷ
đồng
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao
thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình
hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông
tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình
cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông.
Dưới 20 tỷ
đồng
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ,
sành sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản,

chế biến nông, lâm sản.
Dưới 15 tỷ
đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa,
giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng
khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể
dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Dưới 7 tỷ đồng
1.1.4. Yêu cầu đối với một dự án đầu tư.
Soạn thảo dự án là một công việc khó khăn, phức tạp. Không thể xem
soạn thảo dự án là việc làm chiếu lệ để tìm đối tác hoặc vay vốn đầu tư. Để một
dự án đầu tư có tính thuyết phục và thu hút các bên tham gia, khi soạn thảo dự
án cần đảm bảo đầy đủ những yêu cầu cơ bản sau:
* Tính khoa học: Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu của dự án đầu tư.
Đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai và thực hiện thành công
dự án. Tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu
sau:
- Về số liệu thông tin: Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải
đảm bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất
xứ của những thông tin và những số liệu đã thu thập được.
- Về phương pháp lý giải: Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập,
riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá
trình phân tích, lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo lôgic và
chặt chẽ.
- Về phương pháp tính toán: Khối lượng tính toán trong một dự án thường
rất lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và
chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về
kích thước, tỷ lệ.
- Về hình thức trình bày: Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi
trình bày phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đẹp.

* Tính pháp lý: Để đảm bảo yêu cầu quản lý Nhà nước một cách thống
nhất trong lĩnh vực đầu tư, dự án cần có tính pháp lý. Vì vậy, việc triển khai
thực hiện dự án phải được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Muốn vậy, dự
án đầu tư không được chứa đựng những điều trái với luật pháp và chính sách
của Nhà nước về đầu tư. Nói khác đi là dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc,
tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi
người soạn thảo dự án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước
và các văn bản luật pháp có liên quan đến các hoạt động đầu tư đó.
* Tính khả thi: Tính khả thi của dự án đầu tư thể hiện ở chỗ nó phải được
xuất phát từ thực tế và có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Thật
vậy, một dự án đầu tư khi không có tính khả thi, tức là một dự án không phản
ánh đúng hiện thực, thiếu các yếu tố cần thiết để định lượng được biên độ an
toàn khi bỏ vốn đầu tư. Vì vậy muốn bảo đảm yêu cầu tính khả thi đòi hỏi dự án
phải phản ánh đúng môi trường đầu tư tức là phải được xây dựng trong những
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể về thị trường, mặt bằng, vốn, nguồn nguyên
liệu…Đặc biệt đối với những dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài, để đảm bảo tính
khả thi của nó đòi hỏi việc soạn thảo dự án phải hết sức tranh thủ ý kiến tư vấn
của các phòng làm dịch vụ đầu tư ở các nước tiếp nhận đầu tư vì họ là người am
hiểu đầy đủ mọi đặc điểm của môi trường đầu tư ở nước họ.
* Tính thống nhất: Lập và thực hiện dự án đầu tư là một quá trình gian
nan, phức tạp. Đó không chỉ là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó còn liên
quan đến nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng, các nhà tài trợ…Vì vậy, dự án phải biểu hiện sự thống nhất về lợi ích
giữa các bên có liên quan đến dự án. Muốn các bên đối tác hiểu và quyết định
tham gia dự án đầu tư, các tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay đối
với các dự án và muốn được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép đầu
tư thì việc xây dựng dự án từ các bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách
trình bày dự án cần phải tuân thủ theo những quy định chung mang tính thống
nhất trong quốc gia và quốc tế. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các bên chấp thuận
dự án.

* Tính hiệu quả: Được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận và những
chỉ tiêu về lợi ích kinh tế xã hội mà dự án mang lại. Thật vậy, không một nhà
đầu tư nào khi bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mà không nghĩ đến
phần lợi nhuận mà mình được hưởng. Song, phần lợi ích mà nhà đầu tư được
hưởng đó chỉ được coi là có hiệu quả khi nó không gây ảnh hưởng xấu hoặc vi
phạm đến lợi ích của xã hội.
* Tính giả định: Xuất phát từ tính phức tạp của hoạt động đầu tư nên
người soạn thảo dự án dù đã có nhiều kinh nghiệm và chuẩn bị kỹ lưỡng đến
đâu cũng không thể lường hết được những yếu tố sẽ chi phối hoạt động đầu tư
trong tương lai. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả,
doanh thu, lợi nhuận…trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế
thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường
hợp, thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án. Vì vậy, trong
quá trình lập dự án cần chú ý đến tính giả định. Có nghĩa là người lập dự án cần
đưa ra những tình huống giả định có tính rủi ro trên một số phương diện như thị
trường, công nghệ, quản trị…của dự án, từ đó, tiến hành việc phân tích, đánh
giá xem những rủi ro đó sẽ tác động đến dự án như thế nào để có biện pháp
phòng ngừa hiệu quả.
1.1.5. Sự cần thiết của dự án đầu tư.
* Đối với chủ đầu tư:
Dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều đối tượng khác nhau,
trong đó có thể nói quan trọng nhất và trực tiếp nhất là đối với các chủ đầu tư
Trước hết, dự án đầu tư là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết
định có nên tiến hành đầu tư hay không bởi vì sau khi thiết lập và thẩm định dự
án đầu tư, nhà đầu tư sẽ thấy rõ được tất cả những lợi hại do dự án mang lại. Dự
án đầu tư sẽ là công cụ giúp nhà đầu tư xác định được cơ hội đầu tư tốt, giảm
thiểu rủi ro, chi phí cơ hội. Ngoài ra, sau khi đã quyết định đầu tư, dự án đầu tư
sẽ là cơ sở cho các nhà đẩu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và
kiểm tra quá trình thực hiện dự án. Dự án đầu tư cũng sẽ là công cụ để tìm kiếm
các đối tác liên doanh, tài trợ vốn cho dự án thông qua việc các đối tác này có

điều kiện đánh giá triển vọng hợp tác đầu tư qua những giải trình chi tiết, đầy đủ
trong dự án. Dự án đầu tư lại là căn cứ để soạn thảo hợp đồng liên doanh ngay
sau khi quyết định hợp tác với nhau cũng như là căn cứ để giải quyết các mối
quan hệ tranh chấp giữa các đối tác trong quá trình thực hiện dự án.
* Đối với Nhà nước:
Dự án đầu tư là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xét duyệt cấp giấy phép
đầu tư, là căn cứ pháp lý để tòa án xem xét, giải quyết khi có sự tranh chấp giữa
các bên tham gia đầu tư.
* Đối với các tổ chức tài trợ vốn:
Đối với các tổ chức tài trợ vốn, ví dụ như các NHTM – một nhà tài trợ
lớn, thường xuyên và quan trọng, ngoài những ý nghĩa được chú trọng trên thì
dự án đầu tư là căn cứ để các tổ chức này xem xét tính khả thi của dự án, từ đó
quyết định có nên tài trợ hay không, tài trợ đến mức độ nào nhằm đảm bảo thu
hồi được vốn, hạn chế tối đa mọi rủi ro. Trong thực tế có thể nói đó chính là
điều bận tâm lớn nhất, điều quan tâm tập trung nhất và cũng hầu như là duy nhất
đối với các chủ ngân hàng trong hoạt động cho vay. Để đạt được mục tiêu đó,
trên cơ sở các dự án đầu tư thì các nhà tài trợ, các chủ ngân hàng sẽ xem xét,
thẩm định một cách kỹ lưỡng trên nhiều phương diện dự án bằng các phương
pháp, nghiệp vụ khác nhau.
1.1.6. Cơ cấu, nội dung của một dự án đầu tư.
Thông thường, một dự án đầu tư phải được trình bày theo những nội dung
sau:
Một là: Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư.
Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc
đầu tư sản xuất – kinh doanh, phát triển kinh tế, làm tiền đề cho các quyết định
đầu tư và hoạt động tài trợ. Tùy theo từng dự án cụ thể để nghiên cứu, xác định
những cơ sở về sự cần thiết phải tiến hành đầu tư theo dự án đó. Tuy nhiên, do
hoạt động đầu tư mang tính phức tạp, có liên quan, ảnh hưởng và chịu sự chi
phối của rất nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là tình hình kinh tế của mỗi vùng,
mỗi khu vực và mỗi quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng, tình hình kinh tế tổng

quát là cơ sở chủ yếu nhất để nghiên cứu sự cần thiết phải thực hiện các dự án
đầu tư. Khi nghiên cứu tình hình kinh tế tổng quát có liên quan đến dự án đầu tư
cần xem xét trên các khía cạnh chủ yếu sau:
- Điều kiện về địa lý, tự nhiên.
- Điều kiện về dân số và lao động.
- Tình hình chính trị, các chính sách và hệ thống luật pháp của Nhà nước.
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực trạng sản xuất
– kinh doanh của ngành, của cơ sở.
Hai là: Nghiên cứu về phương diện thị trường của dự án.
Nghiên cứu về phương diện thị trường là nội dung quan trọng đầu tiên và
có ý nghĩa sống còn của dự án. Thị trường là nơi phát ra những tín hiệu rất cần
thiết đối với chủ đầu tư, là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô
của dự án. Nghiên cứu thị trường dự án bao gồm các vấn đề chính sau:
- Lựa chọn sản phẩm dự án.
- Xác định nhu cầu thị trường hiện tại.
- Dự báo nhu cầu tương lai sản phẩm dự án.
- Phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
- Xây dựng các biện pháp tiếp thị và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự
án.
Ba là: Nghiên cứu phương diện kỹ thuật – công nghệ của dự án.
Tùy thuộc vào từng loại dự án cụ thể mà nội dung nghiên cứu kỹ thuật –
công nghệ có nội dung và mức độ phức tạp khác nhau. Tuy nhiên, những nội
dung cơ bản cần tập trung nghiên cứu bao gồm các vấn đề chính sau:
- Lựa chọn hình thức đầu tư
- Nghiên cứu lựa chọn công suất của dự án.
- Xác định chương trình sản xuất và nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản
xuất.
- Lựa chọn địa điểm xây dựng dự án.
- Nghiên cứu về công nghệ và trang thiết bị.
- Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng công trình của dự án.

Bốn là: Nghiên cứu phương diện quản trị nhân lực dự án.
Năm là: Nghiên cứu phương diện tài chính dự án.
Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn nên quyết định đầu tư trước hết và
thường là quyết định tài chính. Trên thực tế hoạt động đầu tư, các quyết định
như chọn địa điểm xây dựng, mua máy móc, thiết bị, xây dựng công trình…
luôn được cân nhắc, xem xét từ khía cạnh tài chính. Nếu dự án có thể khả thi ở
một số phương diện nhưng không khả thi ở phương diện tài chính sẽ không thể
thực hiện trên thực tế. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc thẩm định,
đánh giá về phương diện tài chính của dự án.
Mục đích chủ yếu của việc thẩm định, đánh giá về mặt tài chính của dự án
đầu tư nhằm:
- Kiểm tra nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực
hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
- Kiểm tra tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án để đánh giá
khả năng sinh lời của vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn, độ rủi ro của dự án…
Để đạt được mục tiêu trên, cần tiến hành thẩm định thông qua các nội
dung chủ yếu sau:
- Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn vốn
- Nghiên cứu giá thành sản phẩm dự án.
- Nghiên cứu doanh thu của dự án.
- Nghiên cứu các chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu của dự án.
- Đánh giá mức độ rủi ro của dự án.
Sáu là: Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án.
Cần đánh giá, so sánh giữa lợi ích do dự án tạo ra và cái giá mà xã hội
phải trả trong việc sử dụng các nguồn lực trên các mặt chủ yếu sau:
- Khả năng tạo nguồn thu Ngân sách.
- Tạo công ăn, việc làm.
- Mức phù hợp với mục tiêu của Chính Phủ.
- Nâng cao mức sống người dân.
- Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.

- Yếu tố môi trường.
Bảy là: Kết luận và kiến nghị.
Thông qua nội dung nghiên cứu trên cần kết luận tổng quát về khả năng
thực hiện của dự án, những khó khăn và thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và
thực hiện dự án, đồng thời đề xuất kiến nghị đối với các tổ chức có liên quan
đến dự án.
1.2. Thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.1. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của NHTM.
Dự án đầu tư có tầm quan trọng vô cùng to lớn không những đối với các
doanh nghiệp, đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung mà còn đối với
các NHTM. Cho vay theo dự án là một hoạt động tín dụng hỗ trợ cho các doanh
nghiệp có được lượng vốn ban đầu để đầu tư, tư vấn cho họ về tính hợp lý hay
không hợp lý của dự án đầu tư, về những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai
của dự án và về những rủi ro mà dự án có thể gặp phải. Đây là hoạt động mang
lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng nhưng lại chứa đựng rủi ro rất cao. Tuy
nhiên, đã là một NHTM đa năng trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và
thách thức thì phải xác định luôn chung sống với rủi ro, và tìm cách hạn chế,
phòng ngừa nó.
Họat động cho vay theo dự án đầu tư của NHTM có những đặc trưng chủ
yếu sau:
- Là hoạt động cho vay trung dài hạn, nhưng thời hạn cho vay không được
vượt quá thời gian khấu hao tài sản hình thành từ vốn vay đó.
- Là hoạt động cho vay với quy mô lớn.
- Là hoạt động cho vay có mức rủi ro cao vì thời hạn dài, quy mô lớn, và
dự án chịu nhiều tác động bởi các yếu tố môi trường, kinh tế, xã hội, kỹ thuật…
1.2.2. Khái niệm về thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của
NHTM.
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính hoạt động trên lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ. Trong kinh doanh của ngân hàng hiện đại, việc đa dạng hóa các
hoạt động nghiệp vụ là hết sức cần thiết. Cùng với nhiều nghiệp vụ khác, tài trợ

dự án là một trong những lĩnh vực căn bản và quan trọng nhất trong các nghiệp
vụ của NHTM.
Tại Việt Nam, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, rất
nhiều dự án đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề và lĩnh vực
đang được thực hiện. Để công cuộc đầu tư triển khai được thuận lợi thì việc
đảm bảo đầy đủ vốn đầu tư là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.
Đầu tư là hoạt động kinh tế – kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi một thời gian dài
với khối lượng vốn đầu tư sử dụng rất lớn. Đứng trên góc độ doanh nghiệp, chủ
đầu tư phải huy động mọi nguồn tài chính của mình để thực hiện dự án. Tuy
nhiên, trên thực tế, nguồn tài chính của chủ đầu tư thường không thể đáp ứng
hoàn toàn nhu cầu vốn của dự án. Điều này không chỉ xảy ra đối với các doanh
nghiệp ở nước ta, một quốc gia đang phát triển, mà còn là tình trạng chung của
nhiều nước trên thế giới, kể cả một số nước công nghiệp phát triển.
Để đáp ứng nguồn tài chính cho hoạt động đầu tư, nhất là đối với các dự
án có quy mô lớn, các chủ đầu tư phải tìm kiếm nguồn tài chính hỗ trợ từ bên
ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư xã hội để tài trợ cho dự án có thể thông qua
nhiều con đường khác nhau. Trong đó, nguồn vốn tài trợ cho dự án từ các
NHTM có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện Việt Nam hiện
nay, khi các kênh dẫn vốn khác còn rất hạn chế hoặc hoạt động chưa mấy hiệu
quả.
Hoạt động tài trợ dự án của NHTM có thể thực hiện thông qua nhiều hình
thức khác nhau như tín dụng trung, dài hạn, đồng tài trợ, cho thuê tài chính, …
Trong quá trình tài trợ, điểm mấu chốt nhất mà các NHTM đều quan tâm đó là
tính hiệu quả và an toàn của khoản tài trợ cho dự án.
Trên thực tế, đầu tư dự án là lĩnh vực tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do đó, vừa
đảm bảo hiệu quả đồng thời đảm bảo an toàn vốn đầu tư là một bài toán hết sức
phức tạp đối với các NHTM. Hướng tới mục tiêu này, NHTM đã sử dụng nhiều
phương thức khác nhau để đánh giá tính khả thi và quản trị khoản tài trợ sao cho
đạt được yêu cầu mong muốn. Trong đó, thẩm định dự án đầu tư luôn luôn được
các NHTM coi như một công cụ hữu hiệu và đặc biệt quan trọng trong hệ thống

các biện pháp đảm bảo cho hoạt động tài trợ vốn của ngân hàng đối với dự án.
Các doanh nghiệp khi có định hướng đầu tư sẽ tiến hành thuê các cơ quan
tư vấn để cùng phối hợp xây dựng dự án. Do có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh
vực lập dự án nên các dự án có sự tham gia của tư vấn đều đảm bảo được những
yêu cầu cơ bản trong lập dự án.
Tuy nhiên, bất cứ một dự án nào trong quá trình soạn thảo cũng có thể
mắc phải những sai sót, khiếm khuyết mang tính khách quan và chủ quan.
Những sai sót này nếu không được phát hiện và kịp thời điều chỉnh sẽ gây ra
những hậu quả khôn lường khi dự án được triển khai và nhất là giai đoạn đi vào
vận hành khai thác. Một thông tin sai trong quá trình lập dự án có thể buộc chủ
đầu tư và NHTM trả một giá rất đắt khi dự án được đưa vào vận hành.
Chính vì lý do nói trên, trước khi quyết định tài trợ vốn cho dự án, NHTM
nhất thiết phải tiến hành công tác thẩm định để có thể nắm bắt một cách cụ thể
và rõ ràng tất cả các vấn đề có liên quan đến dự án.
“ Thẩm định dự án là quá trình NHTM phân tích và đánh giá lại dự án
một cách khoa học, độc lập và khách quan trên cơ sở các thông tin do ngân hàng
thu thập được nhằm khẳng định tính hiệu quả, tính an toàn, tính khả thi của dự
án. Qua đó, NHTM có cơ sở chắc chắn để quyết định về quy mô và hình thức
tài trợ cho dự án ”.
1.2.3. Ý nghĩa của công tác thẩm định dự án đầu tư đối với NHTM.
Hỗ trợ về mặt tài chính cho các dự án là hoạt động cần thiết đối với các
NHTM, các chủ đầu tư cũng như với nền kinh tế nói chung. Trên quan điểm
ngân hàng, đây là hoạt động có rủi ro rất cao đồng thời cũng có lợi nhuận kỳ
vọng rất lớn. Vấn đề ngân hàng quan tâm nhất là nhà đầu tư có khả năng trả đủ
và trả đúng thời hạn những khoản vay hay không. Để có câu trả lời chính xác thì
ngân hàng cần thẩm định lại những dự án đầu tư đó. Việc thẩm định dự án đầu
tư sẽ góp phần không nhỏ tránh được rủi ro và thiệt hại không chỉ về vật chất,
uy tín mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế và xã hội, đồng thời không bỏ lỡ cơ
hội thu về lợi nhuận. Về cơ bản, thẩm định dự án trước mắt sẽ tránh được hai
vấn đề:

Một là: Nếu dự án vay vốn mà khả thi nhưng ngân hàng lại không cho
vay thì sẽ mất cơ hội sử dụng đồng vốn hiệu quả, mất khách hàng tốt và giảm
uy tín của chính mình.
Hai là: Nếu dự án vay vốn mà không khả thi nhưng ngân hàng vẫn đầu tư
thì rủi ro mất vốn, thua lỗ, mất an toàn trong kinh doanh tất yếu sẽ xảy ra.
Do đó, hoạt động thẩm định dự án sẽ giúp ngân hàng:
- Đưa ra những cơ sở, những kết luận vững chắc về tính khả thi, tính
hiệu quả của dự án, và quan trọng hơn cả là khả năng hoàn trả vốn vay của chủ
đầu tư để từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn nhất.
- Dự đoán những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới quá trình triển khai,
thực hiện dự án như các yếu tố về sự biến động thị trường, nguyên liệu đầu vào,
chi phí sản xuất, các yếu tố về môi trường, chính sách quản lý,…Trên cơ sở này,
phát hiện và bổ sung thêm các biện pháp phòng ngừa hoặc hạn chế rủi ro, đồng
thời tham gia ý kiến với các cơ quan Nhà nước và chủ đầu tư, từ đó nâng cao
tính khả thi trong việc thực hiện dự án.
- Lựa chọn phương án tốt nhất, xác định được lợi nhuận của dự án khi
đưa vào hoạt động.
- Xác định chính xác chi phí sử dụng vốn, thời gian thực hiện cũng như
thời gian hoàn vốn để từ đó ngân hàng có thể đưa ra thời hạn cho vay và lãi suất
hợp lý để thu hồi vốn đúng hạn. Trên cơ sở đó tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử
dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm trong quá trình thực hiện dự án.
- Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng
vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Người soạn thảo thường đứng trên
góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Các nhà thẩm định thường có cái
nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án, xuất phát từ lợi ích của ngân hàng và
của nền kinh tế nói chung để nhìn nhận một cách khách quan về dự án.
- Khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu
thuẫn, không lôgic, thậm chí có những câu văn, những từ dùng sơ hở có thể gây
ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án sẽ phát
hiện và sửa chữa được những sai sót đó.

- Qua mỗi lần thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng sẽ rút ra được những
kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư, cho vay để chất lượng hoạt động của ngân
hàng ngày càng được nâng cao.
Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là cần thiết và trên thực tế, nghiệp vụ
này đã trở thành một bộ phận quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động
tín dụng trung dài hạn của mỗi NHTM.
1.2.4. Nội dung thẩm định dự án đầu tư.
1.2.4.1. Thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ xin vay vốn.
a. Giấy đề nghị vay vốn.
b. Danh mục hồ sơ pháp lý.
Hồ sơ pháp lý mà khách hàng phải gửi đến ngân hàng bao gồm:
* Đối với khách hàng hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước:
- Quyết định thành lập doanh nghiệp.
- Điều lệ doanh nghiệp.
- Quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, giám
đốc, quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng.
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
- Giấy phép hành nghề đối với những ngành nghề có giấy phép.
- Giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp nếu ngành nghề có qui định hoặc
đăng ký mã số xuất nhập khẩu.
- Văn bản ủy quyền hoặc xác định về thẩm quyền trong quan hệ vay vốn
như: văn bản của Hội đồng quản trị, ủy quyền của Tổng giám đốc, Giám đốc
cho người khác ký hợp đồng.
- Trường hợp khách hàng vay vốn là đơn vị hạch toán hụ thuộc của pháp
nhân thì phải có văn bản pháp lý như quyết định thành lập, quy chế tổ chức và
hoạt động, xác định rõ thẩm quyền hoặc ủy quyền vay vốn tại Ngân hàng. Nội
dung ủy quyền phải thể hiện cụ thể số tiền vay hoặc số tiền được vay cao nhất,
thời hạn vay vốn, mục đích vay vốn, bảo đảm tiền vay,…và có cam kết chịu
trách nhiệm trả nợ thay khi đơn vị phụ thuộc không trả được nợ vay. Người ủy
quyền phải có đủ thẩm quyền pháp lý.

- Đăng ký mã số thuế.
- Các văn bản khác theo quy định của pháp luật.
* Đối với khách hàng hoạt động theo luật doanh nghiệp.
- Quyết định thành lập doanh nghiệp.
- Điều lệ doanh nghiệp.
- Giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh.
- Giấy phép hành nghề đối với doanh nghiệp cần giấy phép.
- Giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp nếu ngành nghề có quy định.
- Giấy chứng nhận phần vốn góp của từng thành viên.
- Biên bản bầu thành viên Hội đồng quản trị, Chủ tịch, văn bản bổ nhiệm
Tổng giám đốc, Giám đốc, Kế toán trưởng
- Quyết định của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị về việc ủy
quyền cho người đaị diện doanh nghiệp vay vốn ngân hàng.
- Các giấy tờ khác liên quan.
* Đối với khách hàng là doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước
ngoài:
- Giấy phép đầu tư.
- Hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Điều lệ doanh nghiệp.
- Văn bản bổ nhiệm hoặc bầu Hội đồng quản trị, Chủ tịch, Tổng giám đốc,
Giám đốc, kế toán trưởng hoặc một chức danh quản lý về tài chính.
- Văn bản ủy quyền hoặc xác định về thẩm quyền trong quan hệ vay vốn.
- Các giấy tờ khác liên quan.
c. Danh mục hồ sơ đảm bảo tiền vay
* Trường hợp cho vay không có tài sản đảm bảo:
Giấy cam kết của khách hàng về việc thực hiện đảm bảo bằng tài sản khi
được đơn vị trực tiếp cho vay yêu cầu
Chỉ định của Chính Phủ về việc cho vay không có đảm bảo đối với khách
hàng
* Trường hợp đảm bảo bằng tài sản của khách hàng:

- Giấy tờ pháp lý chứng nhận quyền sở hữu tài sản:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm tài sản
- Các giấy tờ khác có liên quan
* Trường hợp bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
- Giấy cam kết thế chấp, cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay trong đó nêu
rõ quá trình hình thành tài sản và bàn giao ngay các giấy tờ liên quan đến tài sản
khi được hoàn thành hoặc hợp đồng thế chấp cầm cố, dự phòng.
- Văn bản của Chính Phủ cho phép được bảo đảm bằng tài sản hình thành
từ vốn vay (nếu việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay theo chỉ định
của Chính Phủ).
* Trường hợp bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba:
Ngoài các giấy tờ như ở trường hợp thứ hai còn có hợp đồng, văn bản bảo
lãnh của bên thứ ba.
1.2.4.2. Thẩm định về tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành và
quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng.
* Đánh giá chung về khách hàng:
- Lịch sử công ty.
- Những thay đổi về vốn góp.
- Những thay đổi trong cơ chế quản lý.
- Những thay đổi về công nghệ hoặc thiết bị.
- Những thay đổi về sản phẩm.
- Lịch sử về các quá trình liên kết, hợp tác, giải thể.
- Loại hình kinh doanh hiện tại.
- Khía cạnh chính trị và xã hội đằng sau các hoạt động kinh doanh
- Điều kiện địa lý kinh tế
Những thông tin này được dùng để đánh giá chung về khả năng hiện tại
cũng như tính cạnh tranh cuả công ty trong tương lai. Đây là điều cần thiết để
biết liệu công ty có thể đứng vững trước những thay đổi bên ngoài cũng như khả
năng mở rộng hoạt động.
* Đánh giá tư cách và năng lực pháp lý.

- Khách hàng vay vốn có trụ sở tại địa bàn nơi Ngân hàng cho vay có trụ
sở không?
- Khách hàng vay vốn là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự không?
- Khách hàng vay vốn là doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp có đủ
hành vi năng lực dân sự, năng lực pháp luật dân sự và hoạt động theo luật doanh
nghiệp?
- Khách hàng vay vốn là công ty hợp danh có hoạt động theo luật doanh
nghiệp? Thành viên công ty có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự?
- Điều lệ, quy chế tổ chức của khách hàng vay vốn có thể hiện rõ về
phương thức tổ chức, quản trị, điều hành?
- Giấy phép đầu tư, chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề
có còn hiệu lực trong thời hạn cho vay?
- Khách hàng vay vốn là đơn vị hạch toán phụ thuộc có giấy ủy quyền vay
vốn của pháp nhân trực tiếp?
- Mẫu dấu, chữ ký
* Mô hình tổ chức, bố trí lao động của doanh nghiệp:
- Quy mô hoạt động của doanh nghiệp
- Cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
- Số lượng lao động, trình độ lao động, cơ cấu lao động trực tiếp và gián
tiếp
- Tuổi trung bình, thời gian công việc, mức thu nhập trung bình
- Chính sách và kết quả tuyển dụng
- Chính sách tăng lương, thưởng
- Hiệu quả sản xuất
- Trình độ kỹ thuật, trình độ học vấn, kinh nghiệm và lĩnh vực của các kỹ
sư chính trong doanh nghiệp
- Tình hình đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển về doanh số và
thiết bị, phát triển các sản phẩm mới, kiểu dáng, mẫu mã, hợp tác công nghệ
* Quản trị điều hành của Ban lãnh đạo

- Danh sách Ban lãnh đạo, tuổi, sức khỏe, thời gian đã đảm nhiệm chức vụ
- Trình độ chuyên môn
- Kinh nghiệm, cách thức quản lý, đạo đức của người lãnh đạo cao nhất và
ban điều hành
- Khả năng nắm bắt thị trường, thích ứng hội nhập thị trường
- Uy tín của lãnh đạo trong và ngoài doanh nghiệp
- Ai là người ra quyết định thực sự của doanh nghiệp
- Những biến động về nhân sự lãnh đạo của công ty
- Ban quản lý có khả năng ra các quyết định dựa vào các thông tin tài chính
không
- Việc ra quyết định có phải được tập trung vào một người và cách thức
quản lý của họ hay không?
1.2.4.3. Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư và mục tiêu của dự án.
- Mỗi một dự án, đánh giá được sự cần thiết phải đầu tư và những mục
tiêu mà dự án cần đạt được là mối quan tâm hàng đầu của người thẩm định. Cụ
thể, người thẩm định cần phải nắm bắt được những nội dung chủ yếu sau đây:
- Mục tiêu của dự án có phù hợp và đáp ứng mục tiêu của ngành, của địa
phương và của cả nước không?
- Đánh giá về sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp trước những đòi
hỏi ngày càng cao và đa dạng của thị trường? Dự án nếu được thực hiện sẽ
mang lại lợi ích cho chủ đầu tư, cho nền kinh tế - xã hội như thế nào?
- Đánh giá quan hệ cung cầu của sản phẩm hiện tại và dự đoán trong
tương lai, từ đó xác định được khả năng tham gia thị trường cũng như tiềm năng
phát triển của dự án.
Nếu là đầu tư để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp
hiện có thì đánh giá về trình độ sản xuất, chất lượng quy cách, giá cả sản phẩm
trước và sau khi đầu tư. Phân tích năng lực máy móc, thiết bị, quy mô sản xuất
hiện có so với nhu cầu thị trường hiện tại, từ đó, nêu bật lên sự cần thiết phải
đầu tư để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm.

Nếu dự án được thực hiện thì sẽ đem lại những lợi ích cụ thể gì cho địa
phương, cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân?
Nhìn một cách tổng thể, các dự án có rất nhiều mục tiêu khác nhau cần
phải đạt được. Tuy nhiên, đối với một dự án sản xuất kinh doanh thì mục tiêu
quan trọng nhất là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp từ đồng vốn đầu tư. Bên cạnh
đó, dự án có thể giải quyết nhiều mục tiêu khác như tăng cường khả năng cạnh
tranh của sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo sản
phẩm thay thế nhập khẩu, xuất khẩu tăng thu ngoại tệ hoặc đem lại những lợi
ích kinh tế xã hội khác,…
1.2.4.4. Thẩm định phương diện thị trường của dự án.
Nghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư xuất phát từ việc nắm bắt các
thông tin và nhu cầu của giới tiêu thụ để quyết định sản xuất mặt hàng gì, quy
cách phẩm chất thế nào, khối lượng là bao nhiêu, lựa chọn phương thức bán,
phương thức tiếp cận thị trường như thế nào để tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên
thị trường hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường,
sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất lớn, khả năng tiêu thụ sản phẩm,
khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường quyết định trực tiếp đến sự thành bại
của dự án. Do đó, việc chủ đầu tư nghiên cứu kỹ về nội dung thị trường và
NHTM thẩm định lại những luận cứ của chủ đầu tư đã đưa ra là hết sức cần
thiết để có thể khẳng định tính vững chắc về mặt thị trường của dự án.
Mục đích của việc thẩm định thị trường là xác định và đánh giá xem dự
án đầu tư sẽ khai thác sản phẩm nào là có triển vọng nhất, khu vực nào sẽ tiêu
thụ các sản phẩm đó. Trên cơ sở nghiên cứu về thị trường như quy mô tiêu thụ
hiện tại, tình hình cạnh tranh,…cán bộ thẩm định sẽ khẳng định được về khả
năng tiêu thụ của sản phẩm đồng thời đánh giá được tính đúng đắn về chiến
lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối sản phẩm và chiến lược
khuyến thị của dự án.
Nội dung thẩm định thị trường bao gồm các vấn đề sau:
a. Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm dự án.
• Cần xác định rõ thị trường của dự án là thị trường trong nước, nước ngoài hay

cả hai thị trường đó. Trên cơ sở định hướng thị trường cần tiếp tục nghiên cứu
phân tích đến tình hình dân số, tốc độ tăng dân số, khả năng thu nhập và thị
hiếu, tập quán tiêu dùng của người dân từng khu vực,…Từ đó hình thành nên
định hướng sản xuất sản phẩm cũng như cách thức phân phối bán hàng đến từng
khu vực để đạt hiệu quả cao nhất.
• Phân tích quan hệ cung – cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án.
• Định dạng sản phẩm của dự án.
• Đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án. Tình hình
sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định.
• Xác định tổng nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm,
dịch vụ đầu ra của dự án, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị
trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm dự án trong đó lưu ý liên hệ với
mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm dự án có thể bị thay thế bởi các
sản phẩm khác có cùng công dụng.
• Trên cơ sở phân tích quan hệ cung cầu, tín hiệu của thị trường đối với sản
phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, đưa ra nhận xét về thị trường tiêu thụ đối với
sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, nhận định về sự cần thiết và tính hợp lý của
dự án đầu tư trên các phương diện như:
- Sự cần thiết phải đầu tư trong giai đoạn hiện nay
- Sự hợp lý của quy mô đầu tư, cơ cấu sản phẩm
- Sự hợp lý về việc triển khai thực hiện đầu tư (phân kỳ đầu tư, mức huy động
công suất thiết kế)
b. Đánh giá về cung sản phẩm.
- Xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của
sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được bao
nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu. Việc nhập khẩu là do sản xuất trong
nước chưa đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn.
- Dự đoán biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối
tượng khác cùng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án.
- Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu trong

thời gian tới.
- Dự đoán ảnh hưởng của các chính sách xuất nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập
các tổ chức khu vực và quốc tế như AFTA, WTO, APEC, Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ đến thị trường sản phẩm của dự án.
- Đưa ra số liệu dự kiến về tổng cung, tốc độ tăng trưởng về tổng cung sản
phẩm, dịch vụ.
c. Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng độc quyền sản xuất và phân phối
một mặt hàng nào đó là rất hiếm có. Thường có rất nhiều doanh nghiệp cùng
sản xuất và kinh doanh một số sản phẩm tương tự như nhau. Ngoài ra, xu hướng
tự do hóa thương mại trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng dẫn đến khả
năng hàng hóa của các nước khác nhau có cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt
Nam ngày càng nhiều. Điều này tạo nên một sức cạnh tranh gay gắt trên thị
trường nước ta hiện nay và trong những năm sắp tới.
Xuất phát từ thực tiễn trên, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, cán bộ
thẩm định cần tập trung phân tích một số điểm sau đây:
• Đối với thị trường nội địa:
- Đã có những sản phẩm của các doanh nghiệp nào đang được tiêu thụ trên
thị trường, hình thức, mẫu mã, chất lượng sản phẩm của dự án so với các sản
phẩm đó, có ưu điểm gì không.
- Các doanh nghiệp đó đang áp dụng phương thức cạnh tranh chủ yếu nào,
cạnh tranh qua giá bán hay qua chất lượng sản phẩm, qua phương thức phân
phối, qua chế độ hậu mãi,…
• Đối với thị trường nước ngoài:
- Cán bộ thẩm định cần nắm bắt tình hình và triển vọng trong quan hệ kinh tế và
chính trị giữa Việt Nam và những nước dự kiến sẽ nhập khẩu sản phẩm của dự
án.
- Những quy định và mức độ khắt khe của thị trường nhập khẩu về tiêu chuẩn
chất lượng, về bao bì, về vệ sinh thực phẩm,…
- Mức độ gay gắt về cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, yếu tố nào được các

nhà sản xuất khác sử dụng trong cạnh tranh trên thị trường đó: giá cả, chất
lượng hàng hóa, phương thức phân phối, phương thức thanh toán hay sức mạnh
quảng cáo.
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, đối với Ngân hàng, khi thẩm định
phương diện thị trường phải tập trung phân tích:
 Khả năng tiêu thụ sản phẩm, xem xét tính chính xác, trung
thực của các số liệu thông tin dựa vào luận chứng kinh tế kỹ
thuật trên các mặt: giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã hàng
hóa, thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt đối với thị trường nước
ngoài.
 Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua.
Kinh nghiệm của đơn vị trong quan hệ thị trường về sản
phẩm, khả năng nắm bắt các thông tin về thị trường quản lý
xuất nhập khẩu của các nước có quan hệ.
 Các hợp đồng tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm về số lượng,
chủng loại, giá cả, thời gian và phương thức thanh toán.
 Các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn đặt hàng, hiệp
định đã ký, các biên bản đàm phán.
Chú ý tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy của các văn bản nói trên,
tránh những trường hợp giả mạo, rủi ro có thể xảy ra. Về phương thức tiêu thụ
hàng hóa cần tính toán để không nên chỉ bán hàng cho một thị trường hoặc một
nhà tiêu thụ duy nhất mà cần chiếm lĩnh nhiều thị trường, tạo lập nhiều đầu mối
tiêu thụ để chủ động bán được nhiều hàng hóa, tránh ép giá và ứ đọng hàng.
Nếu các kết quả phân tích trên cho thấy nhu cầu của thị trường chỉ mang
tính nhất thời hay đang dần dần bị thu hẹp lại thì cần phải hết sức thận trọng khi
bỏ vốn đầu tư cho dự án.
d. Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối:
Xem xét, đánh giá trên các mặt:
- Sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào, có
cần hệ thống phân phối không.

- Mạng lưới phân phối của sản phẩm dự án đã được xác lập hay chưa,
mạng lưới phân phối có phù hợp với đặc điểm của thị trường hay không. Cần
lưu ý trong trường hợp sản phẩm là hàng tiêu dùng, mạng lưới phân phối đóng
vai trò khá quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm nên cần được xem xét, đánh
giá kỹ. Cán bộ thẩm định cũng phải ước tính chi phí thiết lập mạng lưới phân
phối khi tính toán hiệu quả của dự án.
- Phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay để dự kiến các khoản phải
thu khi tính toán nhu cầu vốn lưu động ở phần tính toán hiệu quả dự án.
Nếu việc tiêu thụ chỉ dựa vào một số đơn vị phân phối thì cần có nhận
định xem có thể xảy ra việc bị ép giá hay không. Nếu đã có đơn hàng cần xem
xét tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy khi thực hiện.
e. Đánh giá, dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án.
Trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định phải đưa ra được các dự kiến
về khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án sau khi đi vào hoạt động theo các chỉ
tiêu chính sau:
- Sản lượng sản xuất, tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi cơ cấu sản phẩm nếu
dự án có nhiều loại sản phẩm.
- Diễn biến giá bán sản phẩm, dịch vụ đầu ra hàng năm.
1.2.4.5. Nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật.
Đảm bảo kỹ thuật cho một dự án là một nội dung quan trọng.
Trong điều kiện nhất định về vốn, về thị trường, về điều kiện xã hội, lựa
chọn công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu phù hợp, lựa chọn địa điểm xây
dựng của dự án tối ưu chẳng những thỏa mãn các yêu cầu kinh tế kỹ thuật dự án
đề ra mà còn tránh gây ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong việc tiêu thụ sản
phẩm. Cho nên, nghiên cứu kỹ thuật của dự án thực sự góp phần rất quan trọng
vào việc đảm bảo tính khả thi của dự án.
Khi nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật phải xem xét, phân
tích trên các mặt chính sau:
a. Thẩm định về địa điểm xây dựng

Đây là một khâu quan trọng ban đầu và cũng rất khó khăn. Để đảm bảo sự
hoạt động của công trình về sau thì việc lựa chọn địa điểm xây dựng phải đảm
bảo được các yêu cầu sau:
- Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính.
- Giao thông thuận tiện, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hợp lý.
- Thuận tiện đi lại cho cán bộ công nhân viên nhà máy.
- Tận dụng được cơ sở hạ tầng sẵn có: đường sá, bến cảng, điện, nước,…
để tiết kiệm chi phí đầu tư.
- Mặt bằng phải phù hợp với quy mô hiện tại và dự phòng khả năng dự án
phát triển, mở rộng trong tương lai. Đảm bảo yêu cầu vệ sinh công nghiệp, xử lý
ô nhiễm môi trường, phòng cháy, chữa cháy,…
- Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các văn bản quy định của Nhà nước về
quy hoạch, đất đai, kiến trúc xây dựng (có giấy phép của cấp có thẩm quyền).
Cần tính toán đầy đủ chi phí đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, san lấp tạo
nền móng cho công trình có thể đi vào xây dựng.

×