Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao học, QUẢN TRỊ KINH DOANH báo CHÍ TRUYỀN THÔNG , TÍNH đặc THÙ TRONG QUẢN TRỊ KINH DOANH báo CHÍ TRUYỀN THÔNG THỰC TRẠNG, vấn đề và GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ KINH DOANH báo CHÍ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.94 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

Mở đầu
Chương I: Những vấn đề chung về tính đặc thù trong quản trị kinh doanh báo
chí truyền thông.
I. Các khái niệm về Quản trị kinh doanh báo chí truyền thông và quản trị
doanh nghiệp truyền thông.
II. Tính đặc thù trong quản trị kinh doanh báo chí truyền thông.
Chương II: Thực trạng tính đặc thù trong quản trị kinh doanh báo chí truyền
thông.
I. Đặc thù trong chủ thể kinh doanh báo chí truyền thông
II. Đặc thù về hàng hóa/ dịch vụ
III. Đặc thù về nhu cầu và phương thức tiếp cận, tiếp nhận sản phẩm.
IV. Đặc thù về môi trường sản xuất kinh doanh.
V. Đặc thù về phương thức đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ.
Chương III: Các giải pháp để nâng cao hiệu quả trong quản trị kinh doanh
báo chí truyền thông tại Việt Nam.
Kết luận


ĐỀ TÀI

TÍNH ĐẶC THÙ TRONG QUẢN TRỊ KINH DOANH BÁO CHÍ
TRUYỀN THÔNG. THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP QUẢN
TRỊ KINH DOANH BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM.

MỞ ĐẦU
Báo chí hình thành và phát triển trên cơ sở các điều kiện, nhu cầu thông tin
tự thân và điều kiện kinh tế xã hội, kỹ thuật, khoa học công nghệ, quan hệ thực
tiễn. Báo chí là công cụ, phương tiện, cơ quan ngôn luận của chế độ, giai cấp, tổ
chức chính trị - xã hội. Báo chí phản ánh tất cả các lĩnh vực của xã hội, và người


làm báo cũng tiếp xúc, va chạm, cọ xát với tất cả các lĩnh vực của xã hội trong sự
phản ánh đa dạng của nó.
Trong kinh tế thị trường, hoạt động báo chí không chỉ được coi là hoạt động
truyền thông đại chúng và hoạt động chính trị - xã hội, mà còn là hoạt động kinh tế
- dịch vụ, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trên nhiều khía cạnh, cả về nhận thức lý
luận và hoạt động thực tiễn. Ở các nước tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế thị trường
phát triển, cơ quan báo chí được coi như một doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và
cung ứng dịch vụ. Quản lý cơ quan báo chí coi như quản trị doanh nghiệp. Sản
phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa; dịch vụ báo chí là dịch vụ xã hội, bao gồm
dịch vụ công ích và dịch vụ thương mại. Các thế lực chính trị chi phối hoạt động,
chức năng kinh tế của báo chí được thừa nhận từ lâu. Trên thực tế, nền công nghiệp
báo chí - truyền thông của họ đóng một vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội. Ở ta, do điều kiện lịch sử, cho đến những năm gần đây, hoạt động báo chí
mới được xem xét ở khía cạnh hoạt động kinh doanh và mang tính đặc thù riêng
trong quản trị kinh doanh báo chí truyền thông.
CHƯƠNG I


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍNH ĐẶC THÙ TRONG QUẢN TRỊ KINH
DOANH BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
I. Các khái niệm về Quản trị kinh doanh báo chí truyền thông và quản
trị doanh nghiệp truyền thông.
1. Quản trị kinh doanh là gì?
Quản trị kinh doanh là quản trị các hoạt động từ khâu đầu đến khâu cuối quá
trình kinh doanh, bao gồm việc cân nhắc, tạo ra hệ thống, xây dựng các quy trình
và tối đa hoá hiệu quả bằng quá trình tư duy và ra quyết định của nhà quản trị,
nhằm duy trì, phát triển một /các công việc kinh doanh của một tổ chức kinh tế nào
đó.
2. Quản trị kinh doanh báo chí truyền thông là gì?
Là quản trị các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực báo chí truyền thông để

xây dựng các quy trình và tối đa hiệu quả bằng quá trình tư duy và ra quyết định
của nhà quản trị nhằm duy trì một/các công việc kinh doanh của doanh nghiệp
truyền thông.
II. Tính đặc thù trong quản trị kinh doanh báo chí truyền thông
Bao gồm:
- Đặc thù trong chủ thể kinh doanh báo chí truyền thông
- Đặc thù về hàng hóa/ dịch vụ
- Đặc thù về nhu cầu và phương thức tiếp cận, tiếp nhận sản phẩm.
- Đặc thù về môi trường sản xuất kinh doanh.
- Đặc thù về phương thức đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ.


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÍNH ĐẶC THÙ TRONG QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG.
Có thể nói hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trong
các cơ quan báo chí truyền thông giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định
đối với sức tăng trưởng của nền kinh tế và sự tồn tại của xã hội. Hiện nay, trình độ
về phát triển của các đơn vụ báo chí truyền thông đã đạt được mức cao hơn nhiều
so với những năm vừa qua. Khung pháp lý và thể chế quản lý nhà nước đối với các
loại hình chủ thể kinh doanh của truyền thông đã từng bước phát triển và đang
trong quá trình hoàn thiện.
1. Thuật ngữ chủ thể kinh doanh
Thuật ngữ “chủ thể kinh doanh” được dùng rất phổ biến trong các báo, tạp
chí, giáo trình, tài liệu tham khảo chuyên ngành pháp lý- kinh tế. Tuy nhiên hiện
nay vẫn cha có một khái niệm chính thức nào
Để làm rõ thuật ngữ này, chúng ta bắt đầu bằng thuật ngữ “kinh doanh”.
Theo Từ điển tiếng Việt , “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản xuất buôn
bán sao cho sinh lời”. Với nghĩa phổ thông này từ “kinh doanh’ không những có
nét nghĩa “buôn bán” mà còn bao hàm cả nét nghĩa “tổ chức việc sản xuất”. Hơn

thế nữa, không phải tất cả các hoạt động sản xuất, buôn bán đều là “kinh doanh”.
Theo định nghĩa pháp lý được quy định tại Điều 3 Luật Doanh nghiệp (12/6/1999)
thì “kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi”.
Với định nghĩa “kinh doanh” rộng nh vậy ta có thể hiểu: chủ thể kinh doanh
là bất kỳ cá nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.


Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý - kinh tế hiện nay có một số quan điểm
khác nhau về vấn đề này:
2. Các quan điểm về kinh doanh
Đồng nhất khái niệm “chủ thể kinh doanh” với khái niệm “doanh nghiệp”.
Khái niệm doanh nghiệp lần đầu tiên được đề cập đến một cách chính thức trong
Luật Công ty (21/12/1990) và hiện nay Luật Doanh nghiệp có giải thích như sau:
“doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh ” (Khoản 1, Điều 3).
Xuất phát từ thực tiễn và trên cơ sở quy định của pháp luật cho phép chúng
ta khẳng định rằng: “chủ thể kinh doanh” không thể chỉ giới hạn ở những doanh
nghiệp như đề cập ở trên. Theo các văn bản pháp luật có liên quan, tham gia vào
hoạt động kinh doanh còn có hộ kinh doanh cá thể và tổ hợp tác . Và đơng nhiên là
chúng ta không thể thừa nhận hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác cũng là các loại hình
doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế nước ta. Hay nói khác đi chúng ta
không thể đồng nhất hai khái niệm “chủ thể kinh doanh” và “doanh nghiệp” với
nhau được.
Luật Thương mại nước ta lại không định nghĩa một cách trực tiếp mà chỉ nêu
những đối tượng có thể trở thành thương nhân kèm theo các điều kiện ở những

điều khoản sau đó. Tại Điều 5, Khoản 6 có viết: thương nhân bao gồm cá nhân,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên “. Hoạt động thương mại mà Điều luật trên đề cập
“là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm
việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến
thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện các chính sách kinh tế xã
hội” (gồm có 14 hành vi thương mại quy định tại Điều 45 Luật Thương mại).
Như vậy, thương nhân theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam là một
khái niệm rất hẹp chỉ giới hạn ở những chủ thể có đăng ký hoạt động thương mại,
thực hiện các hành vi thương mại một cách độc lập thường xuyên nhằm mục tiêu


chủ yếu là lợi nhuận. Do đó, chúng ta không thể đồng nhất hai khái niệm “chủ thể
kinh doanh” và “thương nhân” với nhau được.
Một vấn đề nữa cần làm rõ thêm là: chủ thể kinh doanh mà chúng ta đề cập
là những chủ thể được thừa nhận về mặt tư pháp lý. Nghĩa là chúng xuất hiện trên
cơ sở những sự kiện pháp lý nhất định. Chúng được pháp luật thừa nhận, bảo vệ và
có quy chế pháp lý làm cơ sở cho sự tồn tại của mình, tức là chúng ta loại trừ
những chủ thể kinh doanh trái pháp luật. Đó là những cá nhân, tổ chức, đơn vị mà
hành vi kinh doanh của họ đã phạm vào điều cấm của pháp luật hoặc bản thân sự
tồn tại thực tế của những hoạt động kinh doanh đó còn thiếu hoặc không tuân thủ
những thủ tục hay điều kiện cần thiết do pháp luật quy định. Mặt khác việc thực
hiện hành vi kinh doanh được chúng ta đề cập như là một hoạt động nghề nghiệp
thường xuyên, chủ yếu của các chủ thể kinh doanh. Những chủ thể pháp luật khác
nh các cơ quan nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị xã
hội đoàn thể… mặc dù có thể tham gia vào một quan hệ pháp lý mang tính chất
kinh doanh nhng vẫn không được thừa nhận là chủ thể kinh doanh.
Nói tóm lại, chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và
phong phú. Nó không những bao gồm tất cả các loại hình doanh nghiệp mà còn mở
rộng đến tổ hợp tác, hộ gia đình và cá nhân nữa. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này

dưới đây chúng ta sẽ phân tích những đặc điểm cơ bản của nó.
II. Đặc điểm cơ bản của chủ thể kinh doanh
Xét một cách tổng quát chủ thể kinh doanh có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Chủ thể kinh doanh phải được thành lập, đăng ký hợp pháp
Các chủ thể kinh doanh nói chung phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Hiện nay, khi
Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thì quy chế pháp lý về việc thành lập các chủ thể
kinh doanh và các doanh nghiệp nói riêng có nhiều thay đổi theo hướng đơn giản
hơn so với trước đây. Theo đó, các chủ thể kinh doanh là các loại hình doanh
nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp cùng với hộ kinh doanh
cá thể, tổ hợp tác, và hợp tác xã trước đây chỉ cần đăng ký kinh doanh tại cơ quan


nhà nước có thẩm quyền. Riêng với các chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp có
vốn đầu t nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, việc thành lập vẫn phải tuân theo
những trình tự thủ tục được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật tương
ứng đang có hiệu lực. Đây là đặc điểm xác lập tư cách chủ thể pháp lý độc lập của
các chủ thể kinh doanh, làm cơ sở để nhà nước thừa nhận và bảo vệ các chủ thể
kinh doanh trước pháp luật.
2. Chủ thể kinh doanh phải có tài sản riêng
Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền tài
sản. Để tham gia vào hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh phải có tài sản
riêng của mình. Bởi tài sản riêng là cơ sở vật chất không thể thiếu để các chủ thể
này có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện các quyền, nghĩa
vụ của mình. Dấu hiệu phải có tài sản riêng thể hiện tính độc lập và khả năng tự
quyết định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động của các chủ thể kinh
doanh. Nghĩa là các chủ thể này có quyền chiếm hữu (hoặc quản lý), sử dụng, định
đoạt tài sản đó cũng như có quyền điều phối khối tài sản này theo nhu cầu sản xuất
kinh doanh và phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó trước pháp luật.
3. Chủ thể kinh doanh phải có chức năng kinh doanh

Chức năng kinh doanh là phương diện hoạt động thường xuyên, cơ bản và
chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh. Chức năng kinh
doanh thể hiện ở các mặt sau:
Phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh (gọi tắt là giấy phép kinh doanh). Đây là chứng thư pháp lý quan trọng
thừa nhận một chủ thể có quyền hoạt động kinh doanh. Riêng đối với các chủ thể
kinh doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì giấy phép đầu tư có giá
trị là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Các chủ thể kinh doanh chỉ được kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề và
loại hàng hoá ghi trong giấy phép kinh doanh. Mọi trường hợp kinh doanh không
có giấy phép, không đúng nội dung giấy phép hoặc hàng hoá kinh doanh là đối


tượng mà pháp luật cấm hoặc hạn chế lưu thông sẽ không được Nhà nước thừa
nhận và bảo vệ.
Phải thực hiện hoạt động kinh doanh một cách thường xuyên nhằm mục đích
chủ yếu là lợi nhuận. Với tư cách là một thực thể tham gia thị trường, nếu chủ thể
kinh doanh không lấy kinh doanh làm hoạt động cơ bản để tìm kiếm lợi nhuận thì
tất yếu không có sự tồn tại và không có khả năng tồn tại. Tất nhiên, chúng ta chỉ
đứng ở giác độ lý luận khái quát loại trừ những chủ thể kinh doanh là các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích.
4. Chủ thể kinh doanh có tính liên quan và đối kháng với nhau
Trong điều kiện kinh tế thị trường, mỗi một chủ thể kinh doanh không tồn tại
như một tế bào kinh tế đơn lẻ mà nằm trong một hệ thống lớn lực lượng sản xuất
xã hội có tính liên quan một cách hữu cơ với nhau. Các chủ thể kinh doanh phải hỗ
trợ lẫn nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sự hỗ trợ này thực chất là cung cấp
sản phẩm cho xã hội thể hiện nhu cầu đối với tiền vốn và sức lao động sản xuất. Có
thể thấy mỗi hoạt động của chủ thể kinh doanh này có thể ảnh hưởng đến hoạt
động của chủ thể kinh doanh khác. Mặt khác, với tư cách là một chủ thể tham gia
thị trường, các chủ thể kinh doanh có tính đối kháng với những nhân tố tác động từ

bên ngoài như: khủng hoảng tài chính tiền tệ, thiên tai hoả hoạn, các thay đổi về
chính sách quản lý kinh tế của nhà nước hoặc những lợi thế từ các đối thủ cạnh
tranh… để có thể tồn tại, phát triển. Biểu hiện của tính đối kháng là chủ thể kinh
doanh phải dựa vào chính bản thân mình để tiếp thu vật chất từ hoàn cảnh thị
trường, năng động và nhạy bén thông tin, chuyển hoá nguy cơ thành cơ hội… từ đó
không ngừng loại trừ, khắc phục những khó khăn; nếu không tất yếu sẽ bị quy luật
thị trường đào thải. Qua việc tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh
doanh chúng ta thấy rằng chủ thể kinh doanh tồn tại dưới nhiều hình thức, nhiều
loại với quy mô hoạt động khác nhau. Bản thân khái niệm chủ thể kinh doanh chỉ
mang ý nghĩa khái quát, cần phải được hiểu cụ thể hơn. Do vậy việc nghiên cứu
tìm hiểu các loại hình hoạt động của nó là hoàn toàn cần thiết.


Với tư cách là một chủ thể pháp lý độc lập, các chủ thể kinh doanh các
doanh nghiệp truyền thông không chỉ tham gia vào các quan hệ xã hội khác do các
ngành luật khác nhau điều chỉnh. Do vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của chúng
trong các quan hệ pháp luật khác nhau là khác nhau.
Chủ thể có quyền thực hiện hoặc không thực hiện, không có giá trị bắt buộc.
Từ đây “quyền” của chủ thể kinh doanh có thể được hiểu theo hai nghĩa: Theo
nghĩa rộng: quyền của chủ thể kinh doanh trong hoạt động kinh doanh là các quyền
về tự do kinh doanh, quyền được Nhà nước bảo hộ về sở hữu tài sản, quyền bình
đẳng trước pháp luật giữa các loại hình kinh doanh… Trong số các quyền này thì
quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa quan trọng. Quyền tự do kinh doanh dưới góc
độ pháp lý, là quyền của các chủ thể kinh doanh trong việc lựa chọn các lĩnh vực
ngành nghề để đầu tư vốn, sức lao động, máy móc thiết bị, cách thức quản lý…
nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh.
Lợi ích của các chủ thể kinh doanh là tất cả những điều, những cái phát sinh
từ quyền do pháp luật quy định. Lợi ích của chủ thể kinh doanh có thể là lợi ích vật
chất hoặc lợi ích tinh thần.
Theo nghĩa hẹp: lợi ích của chủ thể kinh doanh đơn thuần chỉ là thu nhập, lợi

nhuận mà các chủ thể này có được trong quá trình thực hiện hành vi kinh doanh
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, có một điều cần đề cập rõ hơn là: dù hiểu theo nghĩa rộng hay
nghĩa hẹp thì quyền và lợi ích của chủ thể kinh doanh phải xuất phát từ những quy
định của pháp luật và phải phù hợp với những quy định của pháp luật. Đây gọi là
những quyền và lợi ích hợp pháp. Đối lập lại là những quyền và lợi ích bất hợp
pháp, chúng không được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Tóm lại:
Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh báo chí truyền thông
là khả năng chủ thể kinh doanh được tự do lựa chọn hành động nhằm thoả mãn
những nhu cầu vật chất hoặc tinh thần trong quá trình hoạt động kinh doanh, phù
hợp với quy định của pháp luật được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.


Số lượng chủ thể kinh doanh của các doanh nghiệp truyền thông cũng tăng
lên đáng kể, cơ chế thị trường đã hoạt động với quy mô và cường độ lớn hơn, mức
độ mở cửa của nền kinh tế nước ta với bên ngoài cũng đã tăng lên rất nhiều so với
trước.
Với một số lượng rất lớn chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh truyền
thông trên thị trường như vậy thì không thể nào tránh khỏi những nghiệt ngã của
thương trường, kéo theo nhiều vấn đề phát sinh. Dưới đây sẽ đề cập đến một số
khía cạnh:
- Đối với các chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp truyền thông của nhà
nước nói chung, đây là lực lượng đóng góp rất lớn cho quốc gia về nguồn thu thuế
và lệ phí của ngân sách nhà nước, Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất nhiều doanh
nghiệp truyền thông nhà nước choáng ngợp với cơ chế thị trường kinh doanh lúng
túng, kém hiệu quả, thua lỗ liên tục, bộc lộ nhiều hạn chế về quy mô, công nghệ,
khả năng quản lý điều hành…
- Đối với chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp truyền thông tư nhân, các
đơn vị này có đóng góp hàng năm thuế cho nhà nước, giải quyết nhiều việc làm

cho lực lượng lao động. Riêng ở các công ty và doanh nghiệp truyền thông tư nhân
nổi lên tình trạng trốn thuế, lừa đảo. Nguyên nhân chính là do Nhà nước buông
lỏng quản lý hoặc có nhưng không chặt chẽ khâu sau thành lập đối với các doanh
nghiệp này nói chung.
+ Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, biểu hiện của tình trạng này là các
hành vi: đầu cơ để lũng đoạn thị trường, bán phá giá, nâng- ép giá, xâm phạm về
quyền nhãn hiệu hàng hoá… Những biểu hiện có xu hướng tăng lên một cách đáng
lo ngại. Pháp luật của chúng ta về vấn đề này cũng đã có điều chỉnh nhưng cũng
còn thiếu, rải rác và chưa hệ thống.
+ Nhiều chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán đối
với các khoản nợ đến hạn, kéo theo những khiếu kiện dông dài hoặc những cách
đòi nợ theo kiểu “luật rừng”, “cá lớn nuốt cá bé”… làm mất trật tự và an toàn xã
hội, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng.


+ Các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt
động gia tăng đáng kể, nhất là các tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Mặt khác, tình
trạng nhiều chủ thể kinh doanh cố tình vi phạm hợp đồng, lừa đảo, chiếm dụng vốn
của các đối tác diễn ra phổ biến.
II. Đặc thù về hàng hóa/ Dịch vụ
Ngành dịch vụ truyền thông và giải trí đang là ngành phát triển mạnh mẽ tại
hầu khắp các quốc gia. Khác với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp truyền
thông là ngành dịch vụ có đặc thù, nhất là về hàng hoá, sản phẩm mà các doanh
nghiệp sản xuất ra. Đây là loại hàng hoá đặc biệt, khác với những loại hàng hoá
thông thường khác như: giày dép, đồ ăn, nước uống bởi đó là hàng hoá của công
chúng. Thứ hàng hoá này không bao giờ lặp lại, nội dung luôn thay đổi, các phiên
bản được cập nhật theo thời gian, có tính định kỳ và ảnh hưởng đến công chúng.
Chủng loại hàng hóa của truyền thông Việt Nam hiện nay không hề khác biệt,
thua kém với bất kỳ một quốc gia nào, một thị trường nào trên thế giới, từ những
sản phẩm cổ điển như sách truyện, báo chí, chương trình phát thanh truyền hình,

các sản phẩm nghe nhìn… cho đến những loại hình sản phẩm truyền thông hiện đại
nhất như: truyền hình di động, các sản phẩm truyền thông điện tử, bản quyền
truyền thông, các dịch vụ Internet… Tuy nhiên, xét về bản chất hoạt động, các
công ty truyền thông chỉ gói gọn trong ba chức năng chính:
- Sáng tạo chương trình (tìm kiếm hoặc xây dựng các format chương trình)
- Sản xuất chương trình, sản phẩm nghe nhìn, tổ chức sự kiện
- Khai thác quảng cáo và tài trợ.
Tùy mức độ mạnh yếu hay chuyên sâu của mình mà các công ty truyền thông
thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trên.
Các công ty truyền thông thường hoạt động đa lĩnh vực như: truyền hình, báo,
tạp chí (làm đại lý khai thác quảng cáo), sách, các ấn phẩm quảng cáo (brochure,
catalogue, quà lưu niệm, poster, bảng hiệu…), quay phim - video - VCD, tổ chức
sự kiện, hội nghị, hội thảo… Hầu hết các công ty truyền thông hiện nay, ngoại trừ
một số công ty lớn đã có khách hàng sẵn hoặc khách hàng tự tìm đến đặt hàng, thì


còn lại phần lớn phải đi tìm kiếm khách hàng về với mình. Nhất là trong lĩnh vực
báo chí, đặc biệt là các tạp chí và các ấn phẩm hiện nay phải sống nhờ vào quảng
cáo, nên cần có đội ngũ đi mời, đi “bán” quảng cáo, ít khi có khách hàng tự tìm
đến. Tùy theo nội dung của tạp chí hay ấn phẩm mà nhân viên kinh doanh truyền
thông bám vào đó để khai thác quảng cáo. Ví dụ, nếu tạp chí hay ấn phẩm về phụ
nữ thì nội dung chủ yếu tập trung vào các sản phẩm, dịch vụ làm đẹp, mỹ phẩm,
mua sắm, du lịch, giải trí, nuôi dạy con cái... Nhân viên kinh doanh truyền thông sẽ
dựa vào những nội dung này mà mời chào khách hàng. Khi đã hẹn được cuộc gặp
rồi, nhân viên sẽ đến doanh nghiệp trao đổi, thu thập thông tin, nếu doanh nghiệp
có nhu cầu quảng bá sản phẩm của mình cho khách hàng biết thì sẽ đồng ý ký hợp
đồng quảng cáo. Khi doanh nghiệp cung cấp thông tin, hình ảnh (nếu chưa có hình
ảnh thì công ty truyền thông sẽ cử người đến chụp), người kinh doanh truyền thông
sẽ mang về, chuyển cho bộ phận thiết kế dàn trang, sau đó in (hoặc chuyển email)
maquette cho khách hàng duyệt, tiếp tục về chỉnh sửa và đưa file đi in. Khi ấn

phẩm/tạp chí xuất bản mang đến cho khách hàng và thu tiền.
III. Đặc thù về nhu cầu và phương thức tiếp cận sản phẩm.
1. Đặc thù về nhu cầu:
Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền thông
tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến hành động
và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng được lặp đi lặp lại
sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn mực của xã hội. Nhờ
đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp nhận và lan truyền nhanh
trong công chúng.
Truyền thông có tác động lớn đến các nhóm đối tượng lớn như sau:


- Đối với chính quyền nhà nước:
+ Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính sách
kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công chúng thay
đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngoài ra chính phủ cũng nhờ truyền
thông để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành các văn bản pháp lý.
Nhờ truyền thông mà nhà nước điều chính các chính sách quản lý của mình và tạo
ra sự đồng thuận cao trong dân chúng.
+ Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật được
trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối tượng dân
chúng trong xã hội.
- Đối với công chúng:
+ Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn hóa xã hội, pháp luật
trong và ngoài nước. Giúp người dân giải trí và học tập về phong cách sống những
người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài trừ cái xấu. Truyền thông
đóng vai trò trong việc tạo ra các xu hướng về lối sống, văn hóa, thời trang…
Ngoài ra truyền thông còn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng nói của
mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
- Đối với nền kinh tế:

+ Nhờ có truyền thông mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và dịch
vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Truyền thông
cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các công ty tạo ra công ăn
việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn 90% ngân sách marketing
của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện truyền thông để quảng cáo sản phẩm
và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ
của họ.
+ Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một quốc
gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế.


+ Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về chất
lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất.
2. Phương thức tiếp nhận sản phẩm
Ngành truyền thông cung cấp kiến thức, kỹ năng tổng hợp, đưa đến vị trí
công việc đa dạng và nhiều thú vị.
- Các đài phát thanh, truyền hình;
- Công ty truyền thông quảng cáo;
- Báo chí, in ấn, phát hành các ấn phẩm thị giác;
- Nhà xuất bản;
- Công ty sản xuất phim, video; Xưởng phim hoạt hình;
- Công ty sản xuất trò chơi;
- Công ty sản xuất phần mềm, thiết kế website;
- Thiết kế giao diện, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm cho các công ty sản
xuất, dịch vụ…
* Nghành truyền thông giải trí là ngành hot nhất:
Ví dụ:
Ngành dịch vụ truyền thông giải trí đang là ngành phát triển mạnh mẽ tại
hầu khắp các quốc gia. Ngành truyền thông là ngành dịch vụ có một số đặc điểm
quan trọng, có liên quan với sự thay đổi trong chính sách quản lý ngành của chính

phủ các nước để tạo ra nhu cầu cho các chiến lược toàn cầu mới.
Trước hết, đây là ngành dịch vụ có chi phí cố định lớn, hầu hết các chi phí
phát sinh trong quá trình sản xuất các chương trình và trong quá trình phân phối
các chương trình đó đến người xem truyền hình, ví dụ như hệ thống đường phát
sóng như qua vệ tinh, cáp quang, hay qua các trạm thu phát sóng.
Ngành dịch vụ truyền thông cũng tuân theo những chu kỳ kinh doanh nhất
định, ví như ngành truyền thông tại Mỹ có rất nhiều sự khác biệt trong doanh thu
khi có nhưng bộ phim ăn khách, các chương trình ti vi, các sách và tạp chí. Bởi
vậy, mà có thể khẳng định, ngành truyền thông là ngành có độ rủi ro rất lớn và đòi
hỏi phải có vốn lớn để có thể tồn tại trong thời kỳ khó khăn. Thị trường dịch vụ


truyền thông của Mỹ đang bước vào giai đoạn chín muồi, do đó mà tăng trưởng
chậm và xuất hiện rất nhiều nhà cung cấp so với châu âu, Nhật Bản và các nước
phương đông, nơi mà các kênh truyền hình vẫn còn ít do sự tập trung đầu tư cho
ngành còn thấp. Những công ty dịch vụ truyền thông nào sở hữu cả các kênh
truyền hình lại phối hợp sản xuất phim thì những công ty đó sẽ thu được lợi nhuận
cao, rủi ro ít hơn, và tốc độ tăng trưởng cao hơn.
Ở Mỹ, dịch vụ giải trí luôn luôn là một trong những ngành có kim ngạch
xuất khẩu lớn nhất. Năm 1988, nước Mỹ thu được 5,5 tỷ đô la từ ngành dịch vụ
giải trí, ngành giữ vị trí thứ hai là ngành vũ trụ. Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu
dịch vụ giải trí của Mỹ tăng lên đến 9 tỷ đô la. Hệ thống các công ty tư nhân của
Mỹ nắm vị trí cai quản các kênh truyền hình trên khắp nước Mỹ, đầu tiên là các
trạm thu phát truyền hình, sau đó là truyền hình cáp và hiện nay đã phát triển thành
các kênh truyền hình phát qua các vệ tinh nhân tạo. Mỗi kênh truyền hình đều thu
hút được lượng lớn khán giả và họ thường phải trả phí xem truyền hình rất cao.
Điều này có nghĩa là việc phát sóng các chương trình truyền hình thu hút được
khách hàng nhiều nhất. Dần dần, các công ty Mỹ đã rất thành thạo trong việc sản
xuất các chương trình thu hút lượng lớn người xem. Một trong những kênh truyền
hình được toàn thế giới đón nhận đó là kênh CNN. Hiện nay đây là một lợi thế so

sánh trên thị trường thế giới. Chính phủ Mỹ dành rất nhiều ưu đãi để phát triển
ngành dịch vụ truyền hình, dân số Mỹ càng lớn bao nhiêu thì số lượng các kênh
truyền hình tăng lên bấy nhiêu. Chính vì thế mà ngày càng có nhiều các công ty
đầu tư vào việc sản xuất các chương trình truyền hình. Những nguồn đầu tư này
cũng tạo nên lợi thế so sánh cho ngành dịch vụ truyền hình của Mỹ so với các thị
trường khác.
Ngược lại với Mỹ, ngành truyền hình ở châu Âu chịu sự giám sát rất chặt
chẽ của chính phủ các nước này. Về cơ bản, ngành truyền hình của châu Âu thuộc
sở hữu nhà nước, có nghĩa là ngành phi thương mại ngoại trừ một số trường hợp
đặc biệt. ở Đông Đức, quảng cáo trên truyền hình chỉ giới hạn trong 40 phút một
ngày, ở Thuỵ Sỹ là 20 phút một ngày. Việc giảm sự can thiệp của chính phủ đối với


ngành truyền hình ở châu Âu đã tạo ra sự thay đổi trong môi trường cạnh tranh.
Việc áp dụng những công nghệ mới như: vệ tinh truyền hình, truyền hình cáp, các
trạm phát sóng truyền hình đã làm tăng đáng kể số lượng các kênh truyền hình. Ví
dụ, ở Nhật kể từ năm 1990, khi sử dụng công nghệ mới, truyền hình vệ tinh đã tăng
số lượng kênh truyền hình từ 7 kênh đến 12 hoặc 13 kênh.
Hiện nay, có rất nhiều trạm phát sóng truyền hình trên khắp châu Âu và Nhật
Bản. Chính phủ hạn chế can thiệp vào ngành truyền hình cũng góp phần làm tăng
tính chất thương mại của ngành. Điều này sẽ dẫn tới việc sẽ có nhiều các công ty
quảng cáo ra đời. Thị trường xuất khẩu dịch vụ của các nhà sản xuất phim và các
chương trình truyền hình của Mỹ sẽ tăng lên và đổi lại chính phủ châu Âu sẽ cho
phép các công ty truyền hình của châu Âu sáp nhập với nhau để tăng tính chất
thương mại trong ngành.
IV. Đặc thù về môi trường sản xuất kinh doanh
Môi trường sản xuất kinh doanh là các yếu tố, bao gồm cả bên ngoài lẫn bên
trong, ảnh hưởng đến sự hoạt động, thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của thông tinvà cạnh tranh truyền thông, ngày nay
công chúng không còn xa lạ với các khái niệm “tổ chức họp báo”, “tổ chức sự

kiện”, “game shows”, các cuộcvận động, cuộc thi khác nhau, từ các vấn đề thời sự
chính trị, kinh tế, xãhội cho đến lĩnh vực văn hóa, vui chơi, giải trí... Chưa kể các
loại hình quảng cáo, tiếp thị, hội chợ, các chương trình bán hàng, khuyến mại được
các doanh nghiệp luôn đổi mới và ồ ạt tung ra thị trường.
Khi truyền thông trở thành hoạt động kinh tế rộng lớn có sự tham gia, cạnh
tranh trên phạm vi toàn cầu thì giới truyền thông Việt Nam cũng cần thấy những
tác động của toàn cầu hóa đang tạo nên một thị trường truyền thông mở. Ở thị
trường chung này sự liên kết, hình thành của các tập đoàn, sự phân tách của các
công ty, lĩnh vực hoạt động, sự phá sản của các mô hình, hay quá trình hợp tác, ăn
theo, mua bán, tranh chấp bản quyền, thương hiệu, những cuộc đấu tranh vô hình
và hữu hình trong các lĩnh vực thông tin, sự kiện diễn ra theo tính chất hàng ngày,
hàng giờ.


Thực tế cho thấy trong sự tác động của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu
hoá hiện nay, truyền thông đại chúng nói riêng và truyền thông Việt Nam hàng
ngày, hàng giờ vô hình chung đã tham gia vào quá trình vận hành của nền kinh tế
này khi các hoạt động cung ứng và tiếp nhận thông tin đã được xác định trong mối
quan hệ hàng hoá, từ quá trình đầu tư, sản xuất, công nghệ, cho đến mua bán, trao
đổi, tiếp thị, lưu thông các sản phẩm qua các hoạt động của thị trường của thị
trường truyền thông.
Các doanh nghiệp truyền thông ngay từ những năm sau đổi mới và phát triển
nhanh trong thời gian gần đây khi Việt Nam chính thức tham gia sân chơi toàn cầu
hoá. Phần lớn các doanh nghiệp truyền thông đều có sự đổi mới mạnh mẽ, xu
hướng thương mại hoá, cải tiến công nghệ, dịch vụ, quy trình cung cấp các sản
phẩm truyền thông ngày càng phổ biến, hướng đến thị trường công chúng và coi
thị trường này là thước đo cho thương hiệu, chất lượng và sự sáng tạo trong loại
hình kinh doanh này.
Có thể thấy với hầu hết các doanh nghiệp truyền thông đều đang hoạt động
theo mô hình tự chủ có thu. Các sản phẩm truyền thông cũng được bán trực tiếp và

gián tiếp qua nhiều phương thức khác nhau trong đó doanh thu từ các hoạt động
quảng cáo, PR là khá lớn.
Trong các cơ quan truyền thông đại chúng hiện nay ngoài đội ngũ phóng viên,
biên tập viên, cán bộ làm kỹ thuật đã xuất hiện thêm các bộ phận làm chuyên trách
các công việc quảng cáo, PR, nghiên cứu thị trường, nghiên cứu công chúng. Sự
xâu chuỗi giữa hàng loạt các bộ phận này trong một tờ báo, cơ quan truyền thông
đã tạo ra xu hướng thống nhất trong việc xây dựng chiến lược cho các hoạt động
hướng đến cạnh tranh và chiếm lĩnh các thị trường thông tin khác nhau.
Từ sau những năm 2000, nhiều công ty truyền thông tư nhân đã hoạt động
mạnh trong các lĩnh vực xúc tiến thương mại, mua bán thông tin, sản phẩm truyền
thông, công nghệ, tổ chức mạng lưới phát hành, quảng cáo, quan hệ công chúng...
Qua khảo sát cho thấy ngay cả các cơ quan truyền thông đại chúng lớn như
Truyền hình Việt Nam, đa phần các bản quyền về chương trình, các sản phẩm


truyền thông mua được từ các tập đoàn truyền thông quốc tế cũng phải thông qua
các kênh giao dịch trong và ngoài nước. Ngay cả trong lĩnh vực sản xuất, những
năm gần đây nhiều công ty cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp tìm ra cơ chế để xâm
nhập, tham gia trong việc tổ chức, thực hiện sản xuất, mua bán các sản phẩm
truyền thông theo ý muốn của họ, đặc biệt như trong lĩnh vực giải trí như điện ảnh,
thời trang, ca nhạc...
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, hiện nay, với vị trí
và vai trò của mình, các doanh nghiệp truyền thông ngày càng có quan hệ chặt chẽ
với các ngành kinh tế khác trong những sự tương tác vô hình và hữu hình. Phải
thừa nhận thực tế rằng, có không ít cơ quan truyền thông ở Việt Nam đã bắt đầu
phải phụ thuộc vào các giới doanh nghiệp khi các khoản tiền tài trợ, quảng cáo là
một trong những nguồn tài chính để duy trì hoạt động ổn định và tăng trưởng của
cơ quan, doanh nghiệp truyền thông. Đặc biệt với những cơ quan truyền thông hoạt
động kém hiệu quả thì dường như nhiều hợp đồng quảng cáo họ nhận được lại dựa
trên“quan hệ” và những“cam kết ngầm” nhiều hơn là các nguyên tắc phổ biến.

Tình trạng giao dịch thị trường có thể dẫn đến hiện tượng làm sai lệch thông tin
cũng là những biểu hiện tiêu cực, mặt trái trong mối quan hệ cung cầu giữa doanh
nghiệp và truyền thông khi một bên là những tổ chức cần thông tin, có nguồn lực
tài chính mạnh, trong khi bên kia là tổ chức nắm giữ thông tin và có nhu cầu về tài
chính. Nhiều tập đoàn kinh tế của Việt Nam đã trực tiếp thành lập các công ty
truyền thông riêng để tiện lợi cho hoạt động quảng cáo, PR, làm thị trường, giao
dịch thông tin... Đây cũng khẳng định xu hướng thực tế mà các tập đoàn kinh tế
ngày nay đang có chiến lược cho những có tham vọng chinh phục thị trường thông
tin, áp đặt tiếng nói của mình với các nhóm công chúng tương lai.
V. Đặc thù về phương thức đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm và dịch
Phương thức đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ của các doanh
nghiệp truyền thông bị chi phối bởi:
Khi chọn lựa một nhãn hiệu, khách hàng đặt vào đó niềm tin của cá nhân và
giá trị của bản thân. Do đó, nếu biết cách thường xuyên cải thiện và tăng cường


quảng bá hình ảnh thương hiệu, doanh nghiệp sẽ giúp giới tiêu dùng có một cách
nhìn khác hơn về những sản phẩm (hoặc dịch vụ) đang cung cấp để mời gọi họ đến
với mình thường xuyên hơn và có cơ sở nâng doanh thu cao hơn.
Khách hàng thường thích kết nối với những cá nhân hay thương hiệu nào có
thể khơi dậy một nguồn cảm xúc cho họ. Những bộ phim nhiều kịch tính thường
được nhắc đến thường xuyên chỉ vì chúng gây ra xúc cảm mạnh cho người xem.
Với thương hiệu cũng tương tự. Doanh nghiệp truyền thông sẽ gắn kết với những
giá trị cảm xúc của khách hàng theo hướng lành mạnh và tích cực nhất khi chủ
động chia sẻ những rắc rối của khách hàng và giúp họ tìm ra hướng giải quyết.
Không chỉ vậy, trong môi trường kinh doanh hiện nay, Doanh nghiệp đã chú
ý hơn đến “sự phát triển bền vững”. Bên cạnh sự tăng trưởng về kết quả hoạt động
kinh doanh, các chỉ tiêu tài chính, việc quản trị các mối quan hệ với khách hàng,
thực hiện các trách nhiệm xã hội... của Doanh nghiệp cũng là những thông tin mà
nhà đầu tư luôn tìm kiếm, quan tâm.



CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG QUẢN TRỊ
KINH DOANH BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG TẠI VIỆT NAM
Dưới ánh sáng của Nghị quyết và các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, hoạt động báo chí nước ta cần tiếp tục quán triệt các quan điểm chỉ đạo
nêu trong Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị khoá VIII, chống các tiêu cực, lệch lạc, đặc
biệt là chống thương mại hoá báo chí.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động báo chí, tạo cơ sở thực tiễn để chống thương mại hoá báo chí, trong bối cảnh
hiện nay, chúng ta cần phải chú ý những vấn đề sau đây:
- Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước theo phương châm
phát triển đi đôi với quản lý tốt. Phát triển toàn diện báo chí mà trọng tâm là nâng
cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hoá, khoa học. Đổi mới nghiệp vụ thông tin,
hình thức trình bày, in ấn theo hướng từng bước hiện đại hoá, quan tâm hàng đầu
tới chất lượng và hiệu quả.
- Nâng cao tính tư tưởng, tính chân thật, tính chiến đấu của các sản phẩm
báo chí, hướng nội dung thông tin vào nhiệm vụ trung tâm là phục vụ sự nghiệp
bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoạt động báo chí, xuất bản
phải gắn liền với thực tiễn sản xuất và đời sống, phản ánh sinh động phong trào
cách mạng, phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất
nước. Những người làm báo phải là đội quân tư tưởng, văn hoá đáng tin cậy của
Đảng.
- Quy hoạch và xây dựng hệ thống thông tin đại chúng cân đối, đồng bộ, hợp
lý. Vấn đề này thực hiện còn chậm do tư tưởng cục bộ, bản vị, thiếu kiên quyết của
một số địa phương và ngành chủ quản, thiếu một cơ chế thống nhất để giải quyết


hàng loạt vấn đề tiếp theo khi đình bản một tờ báo, ngừng phát sóng một đài phát

thanh truyền hình v.v... Điều này còn có nguyên nhân do tư tưởng hữu khuynh ở
một số cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý.
Trên thực tế, các doanh nghiệp trong nước đã quan tâm nhiều hơn đến hình
ảnh DN khi xuất hiện trên truyền thông. Doanh nghiệp cũng đã phần nào biết quản
lý những ảnh hưởng, tác động của truyền thông đối với Doanh nghiệp, xem đây
như là cách quản trị rủi ro về mặt hình ảnh thương hiệu. Doanh nghiệp cũng nhận
thức rất rõ tầm quan trọng của truyền thông cùng những ảnh hưởng tiêu cực từ
truyền thông có thể mang đến rủi ro về danh tiếng cho Doanh nghiệp.

KẾT LUẬN
Thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá. Qua giao lưu quốc tế, báo chí
truyền thông ngày càng hoàn thiện, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất
nước và sự nghiệp hoà bình, hợp tác và phát triển của thế giới. Ở trong nước đang
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tiếp tục đổi mới, phấn đấu đến
năm 2010 đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 cơ
bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh được xác định rõ và đang nỗ lực thực thi.
Kinh tế - xã hội tuy có lúc khó khăn nhưng tổng thể phát triển khá, đời sống người
dân được cải thiện. Theo đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa
phương hoá, tháng 11/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đánh dấu bước
hội nhập sâu, rộng và đầy đủ của Việt Nam vào đời sống quốc tế, mở ra cơ hội và
cả thách thức mới cho đất nước. Trên cơ sở đó, báo chí truyền thông Việt Nam
cũng tự đổi mới và phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế, bước đầu thu nhiều thành
tựu đáng kể.
Từ hoạt động quản lý, nhân sự, chính sách, công tác xã hội cho đến chiến
lược kinh doanh, kết quả hoạt động... trong quản trị kinh doanh báo chí truyền


thông tại Việt Nam đã cho thấy các đơn vị báo chí truyền thông đã quản trị tốt hoạt
động kinh doanh của mình và chú hơn đến “sự phát triển bền vững”.




×