Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Hợp tác xã nông nghiệp ở việt nam thực trạng, vấn đề và giải pháp luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

ĐỖ THỊ TÌNH

HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội-Năm 2009


MỤC LỤC
Trang
BÌA
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC MÔ HÌNH, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

i
ii
iii
1
6

1.1


1.1.1

Cơ sở lý luận về HTXNN
Khái niệm HTX và phân loại HTX

1.1.2

Khái niệm HTXNN và các loại hình HTXNN

10

1.1.3

Đặc trưng của HTXNN

11

1.1.4

Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng HTXNN

13

1.1.5

Vai trò của HTXNN

14

1.1.6


Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển HTXNN

16

1.2

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chính sách của
Nhà nƣớc về HTX và HTXNN

20

1.2.1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX và HTXNN

20

1.2.2

Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển
HTX và HTXNN

22

1.2.2.1 Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của HTX và HTXNN
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

22


1.2.2.2 Chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển HTX và HTXNN
của Nhà nước

23

1.3

Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới về phát triển
Hợp tác xã nông nghiệp và những vấn đề rút ra có thể tham
khảo đối với Việt Nam

24

1.3.1

Kinh nghiệm phát triển Hợp tác xã nông nghiệp ở một số nước
trên thế giới

24

1.3.1.1 Kinh nghiệm phát triển HTXNN của Nhật Bản

6
6

24


1.3.1.2 Kinh nghiệm phát triển HTXNN ở Hàn Quốc


28

1.3.1.3 Kinh nghiệm phát triển HTXNN ở Thái Lan

30

1.3.2

Những bài học kinh nghiệm rút ra từ lý luận và sự phát triển
của phong trào HTXNN ở các nước

30

1.3.3

Mô hình hoá hoạt động của HTXNN và các nhân tố có liên
quan

37

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

44

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM TỪ KHI CÓ LUẬT HTX ĐẾN NAY
(TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY)

46


2.1

Khái quát tình hình HTXNN trƣớc khi có Luật HTX (trƣớc
năm 1996)

46

2.2

Thực trạng HTXNN từ khi có Luật HTX (từ sau năm 1996)

49

2.2.1

Thực trạng HTXNN từ năm 1996 đến năm 2003

49

2.2.2

Thực trạng HTXNN từ khi có Luật HTX năm 2003 đến nay

59

2.2.2.1 Kết quả thể chế hoá và thực hiện các chính sách liên quan đến
triển khai Luật HTX ở các địa phương

59


2.2.2.2 Tình hình tổ chức, quản lý và hoạt động của các HTXNN

63

2.3

Đánh giá kết quả hoạt động của các HTXNN từ sau khi có
Luật HTX năm 1996 đến nay

73

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

83

CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
HTXNN PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

84

3.1

Bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nƣớc tác động đến các
HTXNN

84

3.1.1

Bối cảnh kinh tế quốc tế


84

3.1.2

Bối cảnh kinh tế trong nước và tình hình kinh tế nông nghiệp ở
nước ta

85

3.2

Định hƣớng phát triển HTXNN trong điều kiện mới

86


3.2.1

Quan điểm tiếp tục phát triển kinh tế HTX nói chung và
HTXNN nói riêng trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp và
nông thôn

86

3.2.2

Mục tiêu phát triển

88


3.2.3

Định hướng phát triển HTXNN ở các vùng trong cả nước

88

3.2.4

Phương hướng phát triển các loại hình HTXNN

89

3.2

Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy HTXNN phát triển

92

3.2.1

Giải pháp về nhận thức

92

3.2.2

Thúc đẩy phát triển kinh tế nông hộ sản xuất hàng hóa làm cơ
sở phát triển HTXNN


94

3.2.3

Hoàn thiện mô hình và phương thức quản lý HTXNN

97

3.2.4

Hoàn thiện hệ thống các chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát
triển HTXNN

102

3.2.5

Đẩy mạnh liên kết giữa HTXNN với nhau và với các loại hình
kinh tế khác, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước

110

3.2.6

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTXNN

112

3.2.7


Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
nhằm hỗ trợ HTXNN phát triển

115

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

118

KẾT LUẬN

119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

121


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kinh tế hợp tác nói chung và hợp tác xã nói riêng là những hình thức tổ chức
kinh tế-xã hội ra đời một cách khách quan trong quá trình phát triển của xã hội hiện
đại.
Từ những năm cuối của thế kỷ XVIII, khi các nước Tây Âu, tiêu biểu là
nước Anh và Pháp chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh và tập
trung mọi nỗ lực để thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp, tư tưởng về HTX đã
được khởi nguồn và một số mô hình thí điểm đầu tiên đã xuất hiện ở khu vực này.
Về sau, song hành với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, hình thức
HTX tiếp tục được nhân rộng, trở thành một trào lưu quốc tế và cho đến nay đã có
lịch sử trên 100 năm. Theo đánh giá mới đây (năm 2003) của Liên hợp quốc, ngày

nay “Hợp tác xã là trào lưu có tổ chức lớn nhất của xã hội văn minh”.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
các HTXNN có vai trò không thể phủ nhận đối với đời sống kinh tế-xã hội và đã
từng là một trong những điểm tựa quan trọng của cuộc chiến tranh cách mạng giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì lý
luận, đường lối, chính sách liên quan đến HTX nói chung và HTXNN nói riêng
cũng được đổi mới. Mô hình HTXNN kiểu kế hoạch hoá tập trung không còn thích
hợp và được chuyển sang những hình thức mới. HTX được xem là bộ phận quan
trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể, trong đó HTXNN có “sứ mệnh” giúp các
hộ nông dân cá thể sản xuất nhỏ lẻ có thể hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển
được trong cơ chế kinh tế thị trường. Ngoài “sứ mệnh” kinh tế, các HTXNN còn có
vai trò chính trị, xã hội theo hướng tạo mọi cơ hội bình đẳng trong kinh doanh cho
những người có ít vốn, đồng thời góp phần xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn.
Nhận thức được vai trò quan trọng của HTX nói chung và HTXNN nói riêng,
từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát triển HTX. Khi
mô hình HTX kiểu cũ (trước khi có Luật HTX năm 1996) lâm vào tình trạng trì trệ,
không còn phù hợp với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có

1


chủ trương đổi mới HTX bằng việc ban hành Luật HTX năm 1996, tạo cơ sở pháp
lý cho sự ra đời của mô hình HTX kiểu mới, một mô hình phù hợp với sự đổi mới,
phát triển của đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế,
các HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động làm
cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX
theo Luật HTX năm 1996, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3/2002) đã ra Nghị
quyết về: Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, trong đó
nhấn mạnh Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho HTXNN phát triển. Trên cơ

sở Nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, tại kỳ họp thứ 4,
Quốc hội khóa XI (ngày 26/11/2003) đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX năm
2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004). Từ khi triển khai Luật HTX năm
1996 và năm 2003 đến nay, các HTXNN đã có bước phát triển mới, đáp ứng được
một phần nhu cầu của nông dân, của hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, đóng góp
quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi ở nông thôn, thúc
đẩy sản xuất nông sản hàng hóa phát triển và góp phần vào quá trình CNH-HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, HTXNN ở nước ta cũng còn tồn tại một số yếu
kém như: một số HTXNN chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại của
HTXNN còn hạn chế, các HTXNN thụ động và không nhanh nhạy nắm bắt tín hiệu
và cơ hội của thị trường, số HTXNN làm ăn có hiệu quả còn ít, các nội dung hoạt
động nghèo nàn, lợi ích đem lại cho xã viên chưa nhiều vậy. HTXNN phát triển
chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò kinh tế-xã hội vốn có của nó.
Những hạn chế yếu kém của HTXNN có nhiều nguyên nhân, gồm cả các
nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân HTXNN và từ sự quản lý của nhà nước.
Để HTXNN đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của kinh tế hộ nông dân và phát
triển ổn định, bền vững trong nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế, cần
phải khắc phục những nguyên nhân và tồn tại yếu kém của HTXNN.
Với những lý do nêu trên, “Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam: Thực
trạng, vấn đề và giải pháp” được tác giả chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế
chính trị.

2


2. Tình hình nghiên cứu:
Trong hơn 10 năm đổi mới và phát triển HTXNN theo Luật HTX ở nước ta,
vấn đề HTXNN là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu xem
xét dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình
tiêu biểu như:

- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, Đổi mới tổ chức và quản lý HTX trong
nông nghiệp nông thôn, Nxb Nông nghiệp, 1999. Các tác giả đã khái quát toàn bộ
quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các HTX trong nông nghiệp
nông thôn Việt Nam từ trước khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực
trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở
đó phác họa một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ
chức có hiệu quả cho các loại hình HTX.
- GS.TS Nguyễn Kế Tuấn, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006. Tác giả đề cập đến vai trò của các HTX trong quá trình CNH-HĐH ở khu vực
kinh tế nông nghiệp nông thôn.
- PGS.TS Nguyễn Văn Bích, TS.Chu Tiến Quang, GS.TS Lưu Văn Sùng,
Kinh tế hợp tác và HTX ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển, Nxb
Nông nghiệp, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các
loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và
tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước.
- PGS.TS Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp Việt Nam, Nxb Trẻ, TPHCM, 2004, phân tích tương đối sâu và khá hệ thống
về mối quan hệ giữa kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác.
- TS. Chử Văn Lâm, Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 12,
2005. Tác giả tập trung nghiên cứu về quan hệ sở hữu trong các loại hình kinh tế
hợp tác và HTX của thành phần kinh tế tập thể.

3


- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Kinh nghiệm hoạt động của
một số HTX sau sáu năm thực hiện Luật HTX ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,

năm 2003. Nội dung đề cập đến một số HTX đổi mới theo Luật HTX năm 1996 làm
ăn có hiệu quả.
Ngoài ra, còn có các diễn đàn thảo luận về đổi mới, phát triển các HTXNN
trên các trang web.
Nhìn chung, các công trình và tài liệu nói trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh
của HTXNN, trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào
làm rõ những yếu kém của mô hình HTXNN kiểu cũ, luận giải sự cần thiết phải đổi
mới HTXNN theo Luật HTX năm 1996. Các công trình nghiên cứu sau năm 2001,
nghiêng về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ IX hoặc nghiên cứu về HTXNN hoạt động theo luật HTX
nhưng chỉ trong phạm vi một tỉnh, một huyện hoạc một vùng địa lý. Cho đến nay
chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện HTXNN trên cả nước để đưa ra
một mô hình tổng thể, khái quát nhưng đầy đủ, logic và khoa học về mô hình hoạt
động HTXNN theo đúng nghĩa là một “HTX thực sự”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là vận dụng lý luận HTXNN để khảo sát, đánh giá
hoạt động của HTXNN kiểu mới trên cả nước từ năm 1996 đến nay và đề xuất một
số phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển HTXNN trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những nguyên tắc và bản chất của loại hình kinh tế HTX nói chung
và HTXNN nói riêng.
- Luận chứng về sự cần thiết khách quan phải phát triển HTXNN ở Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN ở Việt Nam từ khi có
Luật HTX năm 1996 đến nay.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển HTXNN trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu về các HTXNN ở Việt Nam.

4



- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng các HTXNN ở Việt Nam từ
năm 1996 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê và xử lý
các tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Luận kế thừa có chọn
lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần với đề tài.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn:
- Phân tích cơ sở lý thuyết của mô hình HTXNN hoạt động theo Luật HTX và từ
thực tiễn phong trào HTXNN ở các nước trên thế giới để xây dựng mô hình tổng
quát về hoạt động của HTXNN và các nhân tố có liên quan đến HTXNN một cách
chính xác, logic và dễ hiểu nhất.
- Đánh giá những thành công và bất cập tồn tại trong quá trình phát triển
HTXNN theo Luật HTX từ năm 1996 đến.
- Đưa ra định hướng và các giải pháp góp phần thúc đẩy HTXNN phát triển
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn: Luận văn gồm 03 chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về Hợp tác xã nông nghiệp
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt nam từ khi có
luật HTX đến nay (từ năm 1996 đến nay)
Chƣơng 3: Định hướng và các giải pháp thúc đẩy HTXNN phát triển trong giai
đoạn tới

5


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
1.1 Cơ sở lý luận về HTXNN
1.1.1 Khái niệm HTX và phân loại HTX
* Khái niệm HTX ở một số nước trên thế giới:
HTX là một loại hình kinh tế hợp tác, một tổ chức kinh tế có đặc thù riêng. Ở
nhiều nước trên thế giới, HTX đã hình thành và phát triển hơn 100 năm. Liên minh
HTX quốc tế (International Cooperative Alliance- ICA) được thành lập vào năm
1895 nhằm thực hiện sứ mệnh liên kết, đại diện và hỗ trợ phong trào HTX trên toàn
thế giới, đã định nghĩa về HTX như sau:
“HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp
ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông
qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ.”
Định nghĩa này được ICA hoàn thiện vào năm 1995 thông qua tuyên bố như
sau: “ HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công
bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX, các xã viên
HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội
và quan tâm chăm sóc người khác”.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “HTX là sự liên kết của những
người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau
lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển
giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung vfa giải quyết những khó khăn đó
chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng
trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung”.
Luật HTX của Cộng hoà Liên bang Đức định nghĩa: “HTX đăng ký là những
viên tập thể với đa số thành viên không hạn chế nhằm khuyến khích việc sản xuất,
kinh doanh chung”.

6



Luật HTX của INĐÔNÊXIA định nghĩa: “HTX là tổ chức kinh tế của nhân
dân mang tính xã hội, gồm những người hoặc những tổ chức ở địa phương và thành
viên lập nên một hệ thống kinh tế như là nỗ lực chung đặt trên cơ sở nguyên tắc của
tình anh em”.
Luật HTX của PHILIPPIN định nghĩa: “HTX là sự hiểu biết của những
người có cam kết chung và tập hợp nhau lại một cách tự nguyện để đạt được mục
đích xã hội hoặc kinh tế chung, có sự đóng góp công bằng vào vốn và chấp nhận
phần đóng góp hợp lý vào các công việc và phần lợi ích của việc kinh doanh theo
nguyên tắc HTX đã được chấp nhận chung”.
Như vậy, từ các định nghĩa về HTX được nêu ở trên cho thấy, các định nghĩa
về HTX ở các nước tuy có khác nhau về chi tiết nhưng tất cả đều thể hiện rõ những
tiêu chí chung của HTX, đó là:
- HTX là sự liên kết của những người tham gia, cùng góp vốn. Trong HTX
nhấn mạnh yếu tố con người chứ không phải số vốn mà họ góp.
- HTX là một tổ chức kinh tế đặc thù chứ không phải là một công ty cổ phần
hoặc một tổ chức từ thiện. Đặc trưng của HTX là thông qua hoạt động kinh doanh
để liên kết các thành viên với nhau. Những thành viên hay những người góp vốn
vào HTX có lợi ích chung và nhu cầu chung mà họ muốn được thoả mãn.
- HTX là doanh nghiệp được quản lý theo nguyên tắc dân chủ. Mỗi xã viên
chỉ có một và chỉ một phiếu biểu quyết không phân biệt vốn góp nhiều hay ít.
- Khẩu hiệu của HTX là phục vụ cho xã viên hơn là kiếm lời. Tuy lợi nhuận
luôn gắn với HTX, nhưng mục đích chính của HTX vẫn là phục vụ các xã viên và
phục vụ tối đa là nhiệm vụ hàng đầu của HTX.
- Phương châm chủ đạo của HTX là giúp đỡ lẫn nhau và tự giúp mình.
- Một trong những nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng và
cùng có lợi. Lợi nhuận được phân phối không chỉ căn cứ vào vốn góp mà còn căn
cứ vào mức độ sử dụng dịch vụ của các xã viên.
- HTX còn có một nhiệm vụ quan trọng là phục vụ cộng đồng.
* Khái niệm HTX ở Việt Nam:
Trong Điều 1 của Luật Hợp tác xã của Việt Nam năm 1996 định nghĩa:


7


“HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát
huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả
hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần
phát triển kinh tế xã hội của đất nước”.
Theo định nghĩa này, HTX là một tổ chức kinh tế có tổ chức chặt chẽ, có tư
cách pháp nhân, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Vì vậy, mục
tiêu của HTX trước hết phải là kinh doanh có hiệu quả, trên cơ sở đó để thực hiện
mục tiêu tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên và mục tiêu xã hội. HTX
cũng là phương tiện để kết hợp sức mạnh của từng xã viên với sức mạnh của cả tập
thể, thông qua kết quả kinh doanh của HTX mà cải thiện đời sống của xã viên, góp
phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Để phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá IX và thực tiễn hoạt động của các HTX, năm 2003, Quốc hội đã ban
hành Luật HTX năm 2003 thay thế cho Luật HTX năm 1996. Luật HTX năm 2003
đã mở rộng hơn định nghĩa về HTX, đó là:
“ HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau
đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh
doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước.
HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”.
Theo khái niệm này, ngoài những tính chất và đặc thù do Luật HTX (năm

1996) qui định, HTX kiểu mới do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp
nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức hoặc góp vốn xây
dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và
quản lý dân chủ. HTX được thừa nhận hoạt động theo điều chỉnh của Luật Doanh

8


nghiệp trong cơ chế thị trường như các thành phần kinh tế khác; được khẳng định
quyền “tự chủ” trong sản xuất kinh doanh; được huy động “các nguồn vốn khác
theo qui định của pháp luật” như các loại hình doanh nghiệp khác. Trước đây, luật
không qui định điều này.
Theo định nghĩa này, HTX được vay vốn bình đẳng như đối với doanh nghiệp
của các thành phần kinh tế khác, các HTX được thế chấp bằng tài sản hình thành từ
vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả, các HTX được tham gia các chương trình dự án quốc
gia của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Ngân hàng Nhà nước phải có
hướng dẫn chỉ đạo chặt chẽ đối với các hoạt động tín dụng trong nội bộ HTX;
khuyến kích phát triển quỹ tín dụng nhân dân một cách vững chắc.
Đây là tư tưởng đối mới của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện và giúp đỡ
kinh tế hợp tác và HTX phát triển.
* Phân loại HTX:
Từ các tiêu thức phân loại khác nhau đã hình thành nhiều loại hình HTX với
những đặc điểm và nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức, vai trò tác dụng và tên gọi
khác nhau tương ứng với những điều kiện cụ thể của từng loại hình HTX.
Ở nhiều nước, người ta thường phân loại HTX theo mục đích, chức năng hoạt
động, theo đặc điểm về qui mô, tính chất và hình thức pháp lý. Có một số nước việc
xác định các loại hình HTX được nêu ngay trong Luật HTX như: Luật HTX của
Philippin, Inđônêxia, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Đức.…
Thông thường, có các loại hình HTX: HTX tín dụng; ngân hàng; HTX sản

xuất; HTX mua- bán; HTX đa chức năng; HTX dịch vụ; HTX sản xuất tập trung;
HTX cấp I; cấp II; cấp III; HTX trách nhiệm hữu hạn; HTX trách nhiệm vô hạn
v.v…
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, để phân loại HTX, thường căn cứ vào
chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hóa, qui mô và đặc điểm hình thành
HTX.

9


- HTX dịch vụ: bao gồm 3 loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ tổng
hợp đa chức năng và HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX dịch vụ “chuyên
ngành”.
+ HTX dịch vụ từng khâu còn gọi là HTX chuyên khâu có nội dung hoạt
động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công việc
trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất.
+ HTX dịch vụ tổng hợp- đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng, gồm
nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm (đầu
ra), dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu,v.v…
+ Hợp tác xã dịch vụ “đơn mục đích” hay hợp tác xã dịch vụ “chuyên
ngành”. Hợp tác xã loại này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng
sản xuất kinh doanh một loại hàng hóa tập trung hoặc cùng làm một nghề giống
nhau (HTX trồng rừng, HTX trồng mía, HTX trồng chè.v.v…). Hợp tác xã thực
hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi
hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành
viên quan hệ với cơ sở chế biến, ngân hàng.v.v…
- Hợp tác xã sản xuất kết hợp dịch vụ.
Hợp tác xã loại này có đặc điểm: nội dung hoạt động sản xuất là chủ yếu,
dịch vụ là kết hợp.
- Hợp tác xã sản xuất-kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện.

Đặc điểm cơ bản của mô hình hợp tác xã lọai này là: cơ cấu tổ chức, nội
dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán, kiểm kê, kiểm soát, phân phối
theo nguyên tắc của Hợp tác xã kiểu mới và tương tự một “ doanh nghiệp” tập thể.
1.1.2 Khái niệm HTXNN và các loại hình HTXNN
* Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp
HTXNN là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân, những người lao động ở nông
thôn và các pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia
đình các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản và
các ngành-nghề khác; cải thiện đời sống xã viên; góp phần phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước.

10


Ngoài những đặc điểm chung của HTX như:
Xã viên liên kết với nhau vì ít nhất một lợi ích chung và theo đuổi mục tiêu
cải thiện điều kiện kinh tế- xã hội của mình. Xã viên có cùng mục đích của HTX là
sử dụng có hiệu quả vốn quỹ, phục vụ hoạt động kinh tế của xã viên. Lợi nhuận
không phải là mục tiêu duy nhất của HTX.
HTXNN còn có những đặc điểm:
Là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân, những người thường
thiếu vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ dân trí thấp. Mặt khác, đối tượng sản
xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi cho nên quá trình hoạt động của
HTXNN không những bị chi phối bởi các quy luật kinh tế mà còn bị ảnh hưởng bởi
điều kiện tự nhiên.
Đây là những đặc điểm có ảnh hưởng nhất định đến kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của HTXNN mà cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm để có biện
pháp giúp đỡ, hỗ trợ HTX nông nghiệp phát triển.

* Các loại hình HTXNN:
Theo cách phân loại đã nêu trên, có thể chia HTXNN thành 3 loại hình:
- Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
- Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ đơn khâu hoặc đa khâu.
- Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ và kinh doanh tổng hợp.
1.1.3 Đặc trƣng của HTXNN
HTXNN là một loại hình tổ chức kinh tế HTX nên nó cũng có đặc trưng của
kinh tế HTX, ngoài ra, do đặc thù hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên
HTXNN còn có những đặc trưng riêng. Vậy HTXNN có những đặc trưng chủ yếu
sau:
- Về tính chất: HTXNN là tổ chức kinh tế tự chủ của nông dân và những
người lao động khác ở nông thôn nhằm trước hết thực hiện các hoạt động dịch vụ
hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên, ngoài ra HTX có thể tổ chức dịch vụ cho các
đối tượng khác. HTX là một tổ chức kinh tế độc lập, tự chủ có đầy đủ tư cách pháp
nhân trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế thuộc

11


mọi thành phần kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa
vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX,
không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong
việc quản lý đối với HTX được thực hiện qua việc ban hành các chính sách hỗ trợ
và khuyến khích phát triển HTX.
- Về quan hệ sở hữu:. Trong HTXNN, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của
các thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các
nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động

của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng và tài sản do Nhà
nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ làm tài sản không chia
và các quỹ không chia. Sở hữu cá nhân trong HTXNN chính là phần vốn góp của
mỗi xã viên. Các thành viên khi tham gia HTX không phải góp tư liệu sản xuất mà
điều kiện tiên quyết là góp vốn theo quy định của Điều lệ HTX (gọi là vốn điều lệ).
Vốn góp của xã viên được chia lãi hằng năm và được rút khi thành viên ra khỏi
HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng ngoại tệ, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu trí tuệ và các loại giấy tờ có giá khác. Những xã viên của HTXNN vẫn là
những chủ thể độc lập, có kinh tế riêng. Vị trí, vai trò cũng như quyền tự chủ của kinh tế
xã viên không bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTXNN để phát triển.
- Về quan hệ quản lý: Trong HTXNN, quan hệ giữa HTX và các xã viên là
quan hệ bình đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản
xuất kinh doanh. HTXNN tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của hộ xã
viên, chỉ quản lý hoạt động dịch vụ và sản xuất, kinh doanh do HTX tổ chức. Đặc
trưng chung của HTXNN là hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX không bao
trùm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các xã viên mà chỉ diễn ra ở từng
khâu công việc, công đoạn, nhằm hỗ trợ, phát huy thế mạnh của từng hộ xã viên và
do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của các hộ xã viên. Các xã viên
tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi Điều lệ
HTX, tổ chức lại HTX, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý HTX, xác định phương
án sản xuất kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong HTX… Nguyên tắc
bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu,

12


không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ chức gọn nhẹ, hiệu
quả. Chức năng, nhiệm vụ của Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng Ban quản trị,
Chủ nhiệm HTX được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm HTX được giao quyền
chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những quyết định của

mình.
- Về quan hệ phân phối: HTXNN phân phối lãi và thu nhập cho xã viên
trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và
mức độ tham gia dịch vụ. Đa dạng các loại hình phân phối thu nhập là động lực
khuyến khích xã viên HTX hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình
phân phối, các HTX còn tạo ra các quỹ không chia từ phần lợi nhuận được để lại
nhằm một mặt để mở rộng sản xuất kinh doanh, mặt khác tạo nên phúc lợi công
cộng cho mọi thành viên trong HTX được hưởng chung; kết hợp chặt chẽ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
- Về nội dung hoạt động: HTXNN có hoạt động chính là một hoặc nhiều
dịch vụ cho kinh tế hộ và sản xuất nông nghiệp, cụ thể:
+ Làm đất;
+ Tưới, tiêu nước;
+ Cung ứng vật tư, kỹ thuật (phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, vật
nuôi, thú y, máy móc thiết bị…);
+ Phòng trừ sâu bệnh đối với cây trồng và dịch bệnh đối với gia súc;
+ Cung cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm và một số dịch vụ khác phục
vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đời sống của xã viên;
+ Sản xuất và chế biến nông, lâm sản;
+ Tiêu thụ nông, lâm sản do xã viên làm ra;
+ Hoạt động vận tải, xây dựng, thương mại theo các quy định của pháp luật
về kinh doanh trong các lĩnh vực này.
+ Các hoạt động khác mà pháp luật không cấm.
1.1.4 Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng HTXNN
HTXNN tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau:

13


- Tự nguyện gia nhập và ra HTX; tất cả nông dân và người lao động có điều

kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTXNN đều có thể trở thành
xã viên HTXNN; xã viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ từng
HTXNN.
- Quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên HTXNN có quyền tham
gia quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của HTX và có quyền ngang nhau
trong biểu quyết; thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài
chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ HTXNN.
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu
nhập, bảo đảm HTX và xã viên cùng có lợi.
Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của
HTX; lãi được trích một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và
công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng
dịch vụ của HTX.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây
dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; HTX giữa các
HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
1.1.5 Vai trò của HTXNN
Kinh tế hợp tác trong lịch sử được phát triển nhiều hình thức từ thấp đến cao:
từ tổ vần công, đổi công đến tổ đoàn kết sản xuất, chuyển sang các hình thức HTX
dịch vụ, các HTX sản xuất hoặc các HTX vừa sản xuất vừa làm dịch vụ. Kinh tế
hợp tác, HTX nói chung và HTXNN nói riêng có vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế- xã hội.
HTXNN thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. HTXNN làm được những
việc mà từng người, từng hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. HTXNN
thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại liên kết,
hợp tác, thành lập HTX. HTXNN góp phần nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm
được nhiều khoản chi phí trong đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; huy động được
nhiều vốn, nhiều nhân lực, chế ngự được thiên tai, địch hoạ, đáp ứng kịp thời yêu
cầu sản xuất, kinh doanh; cung cấp sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh


14


tế, góp phần vào tăng thu ngân sách nhà nước. HTXNN khai thác được tiềm năng
trong dân cư để mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất
khẩu, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế -xã hội.
HTXNN hỗ trợ người nghèo, giúp đỡ họ cùng phát triển. Bởi lẽ HTXNN
không chỉ gắn bó các thành viên về kinh tế mà còn được hình thành và phát triển
trên cơ sở tình làng nghĩa xóm, góp phần thực hiện các chính sách xã hội trên địa
bàn như cung ứng các mặt hàng chính sách cho vùng miền núi, dân tộc, vùng thiên
tai bão lụt, tham gia xoá đói, giảm nghèo, khắc phục bần cùng hoá; phòng chống
các tệ nạn xã hội. Kinh tế hợp tác và HTXNN còn tạo điều kiện cho những người
lao động, những người sản xuất nhỏ phát triển hoạt động marketing sản phẩm, nhờ
đó mở rộng được thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, giúp kinh tế hộ
phát triển.
HTXNN là mô hình tổ chức kinh tế có tính chất xã hội. Trước hết, đó là các
đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vệ tinh của các doanh nghiệp nhà nước; là đơn
vị liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác và có thể là đơn vị xuất nhập
khẩu. Tính xã hội của HTXNN được thể hiện rõ nhất ở đặc điểm HTXNN là một tổ
chức kinh tế của những người lao động nghèo ở nông thôn, tập hợp được đông đảo
mọi người tham gia nhằm giúp đỡ lẫn nhau, tăng thêm sức mạnh trong sản xuất
kinh doanh, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đáng cho người dân
nghèo nông thôn. Trong mọi hoạt động của mình, HTX còn có nghĩa vụ giáo dục
tinh thần hợp tác cho xã viên, khuyến khích sự hợp tác không chỉ trong nội bộ xã
viên của HTX mà còn giữa các HTX. Ngoài chăm lo về mặt kinh tế, HTX còn chăm
lo cả về mặt tinh thần cho xã viên thông qua các hoạt động chung của HTX. Tuy
nhiên tất cả những hoạt động xã hội phải được tiến hành trên cơ sở hoạt động kinh
tế có hiệu quả. Những hoạt động này sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí của cộng
đồng, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh

quốc phòng.
Ngoài ra, HTXNN còn có vai trò tạo điều kiện thuận lợi đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật, quản lý, công nghệ mới vào sản xuất. Tiến hành chuyên môn hoá, tập
trung hoá, phát triển hợp lý các vùng sản xuất nông nghiệp, đồng thời thực hiện
thâm canh trong sản xuất nông nghiệp một cách khoa học, hiệu quả. Khai thác tiềm
năng về vốn, lao động và công nghệ, đảm bảo môi trường sinh thái, có khả năng đào

15


tạo và bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh phù
hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
1.1.6 Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự phát triển HTXNN
HTXNN là một tổ chức kinh tế có tính đặc thù cả về tổ chức và đối tượng
sản xuất. Các thành viên của HTXNN là những người yếu thế nhất về trình độ dân
trí, vốn, cơ sở vật chất-kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Đối tượng
sản xuất kinh doanh của HTXNN chủ yếu là cây trồng và vật nuôi. Chính vì vậy sự
phát triển của các HTXNN chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố, cả chủ quan và
khách quan. Dưới đây là một số yếu tố cơ bản tác động tới sự phát triển HTXNN và
mô hình của nó, cụ thể là:
- Yếu tố pháp lý: Đó là Luật HTX, các chính sách, văn bản liên quan và điều
lệ HTX. Luật HTX là văn kiện có tính chất cơ bản và quan trọng của Nhà nước
nhằm tạo điều kiện pháp lý để HTX hình thành, hoạt động và phát triển. Nội dung
cơ bản của Luật HTX và các chính sách và văn bản liên quan đến HTX đều hướng
vào mục đích hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý HTX hoạt động có hiệu quả. Luật, các
chính sách, văn bản liên quan đến HTX phải luôn được bổ sung, hoàn thiện để phù
hợp với sự phát triển của kinh tế-xã hội nói chung và của HTX nói riêng.
- Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế bao gồm: trình độ phát triển, năng lực... của
kinh tế hộ, trình độ phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, cơ chế vận hành
của nền kinh tế, trình độ phát triển kinh tế của quốc gia và thế giới, khủng hoảng

kinh tế, cơ hội kinh tế, thuế, giá cả, tỷ giá, cạnh tranh trong kinh tế, lợi thế kinh
doanh, đối thủ và đối tác trong kinh doanh... Tất cả những nhân tố cụ thể đó đều tác
động rõ rệt đến hoạt động của HTX. Điều quan trọng là từng HTXNN cần kịp thời
nắm bắt thông tin, dự báo tình hình cung cầu nông sản, lựa chọn sản phẩm thị
trường cần, kinh doanh các ngành hàng được ưu đãi về thuế, linh hoạt tránh né
những nhân tố bất lợi để kinh doanh có hiệu quả và nâng cao thu nhập cho xã viên.
Thông thường những nhân tố kinh tế nằm ngoài tầm tay quản lý của HTX
nên đòi hỏi phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ và điều tiết kịp thời ở tầm vĩ mô của Nhà
nước.

16


- Yếu tố hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn: Đây là nhân tố
rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và cho
các HTXNN nói riêng. Hệ thống này bao gồm hệ thống đường sá, cầu cống, hệ
thống điện, trường học, trạm y tế, hệ thống nước sạch…, trong đó hệ thống đường
giao thông liên thôn, liên xã và đường giao thông nội đồng đến chân ruộng là nhân
tố rất cần thiết để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Kinh nghiệm phát triển
nông nghiệp của các nước cho thấy, nếu nhà nước đầu tư cho hệ thống giao thông
nông thôn tốt thì sản xuất nông nghiệp của nông dân sẽ tự khắc phát triển “bám
đường” vì khi đó giao thông thuận tiện sẽ giảm chi phí sản xuất nông nghiệp và
giảm giá thành nông sản phẩm, đồng thời khuyến khích được người nông dân mở
rộng sản xuất.
- Yếu tố KH-CN: Đây là nhân tố và cũng là điều kiện quyết định trình độ về
năng lực quản lý và sản xuất, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường. Bản thân HTXNN cần chú trọng đầu tư về khoa học kỹ thuật nông
nghiệp, quản lý kinh doanh và công nghệ sinh học. Đồng thời, Nhà nước luôn có vai
trò rất lớn trong việc hướng dẫn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng tay nghề xã viên, áp
dụng KH-CN tiên tiến thông qua các hoạt động của các cơ quan chức năng với

nhiều hình thức phù hợp.
- Yếu tố văn hoá: Trình độ văn hoá thấp của xã viên HTXNN luôn là cản
lớn đối với mọi yêu cầu hoạt động của nông hộ và tập thể. Điều kiện văn hoá là cơ
sở để nhận thức và vận dụng các nhân tố khác tác động đến hoạt động của HTX và
cuộc sống của xã viên. Tuy nhiên, nhân tố văn hóa không dừng lại ở cách hiểu thông
thường, mà còn là hiểu biết về bản chất và yêu cầu đối với người thành lập, tham gia
loại hình tổ chức HTX, nghĩa là khả năng của những xã viên trong việc hợp tác cùng
nhau để phát triển HTX của họ, có thể coi đó là văn hóa HTX, thiếu nhân tố này thì cho
dù trình độ văn hóa thông thường có cao bao nhiêu đi nữa cũng khó mà phát triển được
HTX. Văn hóa HTX là văn hóa cộng đồng, văn hóa cùng chia sẻ lợi ích và trách nhiệm
một cách tự nguyện, bình đẳng, là văn hóa không thủ tiêu lẫn nhau... Để có được văn
hóa này cần có một quá trình giáo dục công phu, thường xuyên và lâu dài.
- Yếu tố tâm lý - xã hội: Nhân tố tâm lý - xã hội thể hiện ở các khía cạnh:
tâm tư, tình cảm, nguyện vọng...; dân tộc; giai cấp; tầng lớp; thế hệ, họ hàng; quan

17


hệ đồng nghiệp, bạn bè, làng bản, cộng đồng; an ninh xã hội; nghèo đói, việc làm...
Các nhân tố về mặt tâm lý - xã hội luôn ảnh hưởng đến thái độ, cách làm, kết quả,
chất lượng và hiệu quả hoạt động của HTXNN cũng như tính chất, đặc trưng của
mô hình HTXNN.
- Yếu tố chính trị: Chính trị ở đây thường thể hiện rõ 2 yếu tố: chế độ chính
trị và thái độ của nhà cầm quyền. Đổi mới hay bảo thủ; quan tâm hay thờ ơ; thực sự
đầu tư, hỗ trợ hay chỉ nói mà không làm; năng động, sáng tạo, sâu sát thực tế hay trì
trệ, quan liêu... Mọi thái cực và hiện tượng đó đều tuỳ thuộc vào 2 yếu tố về chính
trị đã nêu hoặc tác động tích cực hay tiêu cực đến HTXNN, mô hình HTXNN cũng
như đối với đối tượng khác trong xã hội.
- Yếu tố môi trường quốc tế: Trong thời đại hội nhập và phát triển, sự tác
động của môi trường quốc tế đối với hoạt động của HTXNN là rất nhanh nhạy và to

lớn. Đó là sự tác động về kinh tế-xã hội, KH-CN, môi trường sinh thái... Ngày nay,
sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và trên thế giới ngày càng
gia tăng và thêm phức tạp như khủng hoảng tiền tệ, giá cả, chiến tranh, khủng bố,
biến đổi bất thường về thời tiết, khí hậu, dịch bệnh... đã và đang gây ra nhiều nguy
cơ mới đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và với các HTXNN nói riêng.
- Yếu tố môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái luôn ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất và hiệu quả kinh doanh của HTXNN. Vì vậy, việc bảo vệ môi sinh
cũng như phòng tránh những yếu tố tự nhiên bất lợi là nhiệm vụ tất yếu, quan trọng
và thường xuyên đối với HTXNN.
Trong thời đại kinh tế phát triển, xu hướng tăng trưởng, cạnh tranh và phát
triển kinh tế bền vững đều không thể không tính đến giải pháp bảo vệ môi sinh. Cho
nên môi trường sinh thái vừa là nhân tố điều kiện, vừa là mục tiêu của mọi hoạt
động trong xã hội nói chung và của HTXNN nói riêng.
- Yếu tố năng lực nội tại của HTXNN: Năng lực nội tại thường bao gồm các
điều kiện về lao động, vốn, đất đai và tài nguyên, cơ sở vật chất - kỹ thuật từ sự đóng
góp của xã viên và tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của HTXNN.
+ Lao động (sức lao động) của xã viên vừa là chủ thể, vừa là yếu tố "đầu
vào" quyết định đến mọi hoạt động và sự phát triển của HTXNN. Trình độ của
người lao động ở HTXNN vốn có điểm xuất phát rất thấp, nên phải bằng mọi cách

18


nâng cao chất lượng lao động về học thức, kỹ năng và sức khoẻ. Đối với cán bộ
HTX và các chủ hộ nông nghiệp còn cần thiết phải chú ý về khoa học quản lý. Hiện
nay, quản lý được xem là một yếu tố "đầu vào" hết sức quan trọng của quá trình sản
xuất kinh doanh. Hiệu quả của quản lý phụ thuộc vào năng lực và phẩm chất của
cán bộ và các xã viên cốt cán ở HTX. Thực tế ở nuớc ta đã chứng minh điều đó,
nhiều HTXNN kinh doanh giỏi, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao thu nhập của
xã viên và cộng đồng chủ yếu là do cán bộ chủ chốt ở đó luôn năng động, sáng tạo

trong công tác quản lý. Chính vì vậy, vấn đề cán bộ và xã viên nòng cốt là điều kiện
có tính quyết định đối với HTX.
+ Vốn của HTXNN quyết định đến đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất và tái
sản xuất, nhất là đối với thâm canh, áp dụng kỹ thuật tiên tiến và ứng dụng công
nghệ mới.
Thường nguồn vốn đóng góp ban đầu của xã viên không nhiều, nên Nhà
nước phải ưu tiên đầu tư hỗ trợ qua hệ thống ngân hàng và HTXNN phải huy động
thêm từ nhiều nguồn khác bằng nhiều hình thức hợp pháp.
Để đảm bảo việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, một mặt HTXNN
phải có chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường, mặt khác phải chú ý nâng
cao chất lượng đội ngũ nghiệp vụ kế toán.
+ Đất đai và tài nguyên của HTX là của xã viên, ngoài ra còn có trường hợp
HTX đi thuê. Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và đặc trưng của HTXNN. Đất đai
và tài nguyên thể hiện lợi thế so sánh trong sản xuất của HTXNN. Năng suất đất đai
và giá trị sản xuất/ha phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, kỹ thuật, quản lý,
khoa học công nghệ.
Để thoát khỏi tình trạng sản xuất thuần nông, tự cung tự cấp, manh mún, hiệu
quả thấp, chưa khai thác tốt tiềm năng đất đai, HTXNN nhất thiết phải có giải pháp
nâng cao năng lực của kinh tế hộ, năng lực quản lý, kinh doanh của mình, tập trung
đất đai và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá với
quy mô lớn.
+ Cơ sở vật chất - kỹ thuật thể hiện trình độ của công cụ sản xuất, dịch vụ,
kết cấu hạ tầng và là điều kiện quan trọng để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm,
hợp tác, cạnh tranh của HTX. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTXNN ở nước ta vốn

19


còn lạc hậu, nên cần được gia tăng đầu tư, hợp tác, liên kết và gắn với quy hoạch
phát triển nông thôn. Hiệu quả của việc sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật phụ thuộc

vào kỹ năng, ý thức của xã viên cũng như quy chế về trang bị, sử dụng, quản lý của
tập thể và cộng đồng.
Năng lực nội tại của HTXNN, nhất là năng lực sản xuất của hộ nông dân một
khi đã vượt qua khỏi vạch tự cung tự cấp để đủ sức sản xuất hàng hoá theo kinh tế
thị trường cùng với sự đầu tư hỗ trợ và quản lý có hiệu lực của Nhà nước là những
điều kiện chủ yếu cho sự phát triển vững chắc HTXNN.
1.2 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nƣớc về HTX và HTXNN
1.2.1 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về HTX và HTXNN
Hồ Chí Minh, trong tác phẩm "Đường cách mệnh" viết năm 1927 đã để một
chuyên mục viết về HTX, nội dung có thể tóm tắt như sau:
- Mục đích của HTX: Tuy cách làm có khác nhau, nhưng mục đích thì nước
nào cũng giống nhau. Mục đích ấy thì trong lời tuyên ngôn của HTX ở nước Anh đã
nói: cốt làm cho người vô sản giai cấp hóa anh em. Anh em thì làm giùm nhau, nhờ
lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn
ăn trái thì giùm vào trồng cây. Hồi bấy giờ, Tư bản đế quốc bóc lột dân chúng đến
cùng cực cho nên HTX trước là có ích cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi Tư
bản và đế quốc chủ nghĩa.
- Lý luận về HTX: Hồ Chí Minh đã đưa ra lý luận về HTX thật đơn giản khi
Người nêu ra các câu tục ngữ Việt Nam: "nhóm lại thành giàu, chia nhau thành
khó", "một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao". Lý luận
HTX đều nằm trong các điều ấy.
- Hình thức HTX: có 4 loại hay 4 cách, đó là: HTX tiền bạc; HTX mua;
HTX bán và HTX sinh sản nhằm mục đích giúp nhau, nhờ lẫn nhau. Trước khi nói
rõ những HTX ấy là như thế nào, chúng ta phải hiểu:
+ HTX khác với hội buôn vì hội buôn là lợi riêng còn HTX là lợi chung.
+ HTX tuy là để giúp đỡ lẫn nhau nhưng không giống những hội từ thiện vì
các hội ấy có tiêu đi mà không làm ra và giúp đỡ bất kỳ ai nhưng có ý bố thí. HTX

20



có tiêu đi, có làm ra và chỉ giúp đỡ những người trong hội, nhưng giúp một cách
bình đẳng, một cách “cách mệnh”, ai cũng giúp mà ai cũng bị giúp.
- Cách thức tổ chức, điều hành HTX: Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh cách
tổ chức HTX đảm bảo tính đa dạng, tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lập HTX, không rập
khuôn, nên tạo sự liên kết các HTX với nhau, đảm bảo các thành viên được hưởng
lợi và bình đẳng.
Khi lãnh đạo nhân dân xây dựng CHXH ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm đến việc xây dựng củng cố HTXNN. Theo Người, muốn nâng cao
đời sống thì chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức nông
dân vào HTXNN. Cần phải nêu cao tính chất hơn hẳn của HTX bằng chính những
kết quả thiết thực làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên
sau khi vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn khi còn ở ngoài. Như thế thì xã viên sẽ
phấn khởi, sẽ gắn bó chặt chẽ với HTX của mình. Đó là phương pháp tuyên truyền
thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nông dân vào HTX. Phải cần kiệm xây dựng
HTX vì HTX là lực lượng chính ở nông thôn. Mục đích tổ chức HTX là để tăng gia
sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là của nông dân. Thế là vừa lợi
riêng cho nông dân và lợi chung cho Nhà nước, hai cái lợi đó đi đôi với nhau. Vì
vậy phải củng cố HTX. Về mặt vật chất phải quản lý cho tốt; về mặt tinh thần, phải
giáo dục cho nông dân hiểu vì sao phải củng cố HTX.
Qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX và HTXNN cho chúng ta
thấy, những vấn đề lý luận về kinh tế HTX không quá phức tạp và đều bắt nguồn từ
thực tế cuộc sống. Trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta từ xa xưa đã có sự hợp tác
nào đó như đổi công, vần công, hợp tác trong chăn trả trâu bò, trong tưới tiêu
nước... do các hộ nông dân tự nguyện liên kết với nhau. Sự hình thành các hình thức
tổ chức hợp tác đó mang tính tự phát nhưng lại dựa trên tính tự giác của từng người
nông dân. Chỉ từ khi có Đảng lãnh đạo thì sự hợp tác mới thực sự là tự giác, có
đường lối hợp tác hóa và sự chỉ đạo thành lập các hình thức hợp tác từ thấp đến cao,
tác động vào ý thức tự giác của người nông dân đi vào con đường hợp tác hóa. Tất

nhiên, không phải mọi sự chủ động, có tổ chức tiến hành một công việc nào đó dưới
một sự chỉ đạo chung nào đó đều được coi là một sự tự giác mà phải thấy rằng tự
giác phải là sự thể hiện tính chủ quan trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng các

21


×