Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NỢ TẠI NGÂN HÀNG No và PTNT VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.78 KB, 30 trang )

TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NỢ TẠI NGÂN HÀNG No và PTNT
VĨNH PHÚC
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nợ tại Ngân hàng No & PTNT
Vĩnh phúc
Quản lý nợ là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa những con
người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung, do
đó, để đạt được chất lượng cần có sự quản lý. Nó bao gồm việc theo dõi, tìm
hiểu và loại trừ những nguyên nhân gây ra những trục trặc trong hoạt động kinh
doanh để mọi yêu cầu của khách hàng liên tục được đáp ứng. Đảm bảo chất
lượng là việc ngăn ngừa những trục trặc về mặt chất lượng bằng các hoạt động
có kế hoạch và có hệ thống, bao gồm việc thiết lập một hệ thống quản lý chất
lượng thích hợp, có khả năng kiểm tra, kiểm soát và đánh giá hoạt động của cả
hệ thống.
Để có chất lượng trong hoạt động kinh doanh cao, cần phải quản lý chất
lượng đồng bộ, đây là cách quản lý mới, nó không chỉ nhằm đảm bảo chất
lượng tín dụng mà còn nhằm cải tiến tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ
sở kinh doanh nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu của khách hàng ở mọi
công đoạn, bên trong cũng như bên ngoài. Để làm được điều đó mỗi thành viên
trong một tổ chức ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất
lượng.
Về mặt lượng, hoạt động kinh doanh được đo bằng các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ
quá hạn so với tổng dư nợ; tỷ lệ nợ trong hạn nhưng có khả năng khó thu; tỷ lệ
nợ khó đòi trong nợ quá hạn; tỷ lệ lãi tồn đọng so với lãi phải thu...những chỉ
tiêu này càng thấp thì chất lượng quản lý nợ càng cao và ngược lại.
Hiểu đúng bản chất trong việc quản lý nợ, phân tích và đánh giá đúng chất
lượng nợ hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn
tại về chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được biện pháp quản lý phù hợp để
phát triển.
Chúng ta biết rằng chất lượng hoạt động tín dụng có ý nghĩa rất lớn đối với
sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng thương mại và của toàn xã hội . Đề
quản lý nợ có chất lượng tín dụng đồng bộ, đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của các


yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nợ trong hoạt động kinh doanh tín dụng, có thể
chia các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng quản lý làm hai loại: các yếu tố bên
ngoài ( yêú tố khách quan) và các yêú tố bên trong(yếu tố chủ quan) tuỳ thuộc
vào điều kiện , hoàn cảnh cụ thể của từng Ngân hàng thương mại mà hai loại
yếu tố này có ảnh hưởng khác nhau tới quản lý nợ trong hoạt động kinh doanh,
ta có thể thấy điều này qua nghiên cứu cụ thể từng loại yêú tố ảnh hưởng.
1.1. Các yếu tố bên ngoài
* Yếu tố kinh tế
Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tín dụng, nền kinh tế ổn định làm cho quá trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố lạm pháp, khủng hoảng làm cho khă năng tín dụng và khả năng trả
nợ không biến động lớn, trong trường hợp này thì chất lượng tín dụng thuộc chủ
yếu vào khả năng quản lý nợ của bản thân các Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, để xã hội tồn tại và phát triển, đòi hỏi nền kinh tế phải có sự
tăng trưởng liên tục ổn định , vững chắc. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, một
số nước đã sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng, kích thích
đầu tư. Giới hạn cửa mở rộng quy mô tín dụng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng
quản lý nợ trong kinh doanh: Nếu mở rộng quá giới hạn cho phép sẽ làm cho
giá cả tăng quá mức, xảy ra lạm phát ở mức độ cao, các Ngân hàng thương mại
sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất lượng quản lý nợ bị giảm thấp.
Ngoài ra, chính sách và luật lệ điều tiết về ưu tiên, ưu đãi hay hạn chế sự phát
triển của một ngành, lĩnh vực ... để hạn chế tác động tiêu cực như ô nhiễm môi
trường , đảm bảo sự phát triển cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến
quản lý nợ trong kinh doanh.
Vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng đến chất lượng quản lý. Do tình trạng
thiếu vốn để phát triển kinh tế, các nước kém phát triển phải tìm mọi cách huy
động vốn nước ngoài để đầu tư . Việc đầu tư sẽ làm tăng trưởng cầu trong nền
kinh tế trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không theo kịp làm mất cân
đối giữa tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế gây nguy cơ lạm phát. Mặt

khác, do hệ thống Ngân hàng chưa phát triển, tình trạng" đo la hoá" chưa kiểm
soát được , luồng tiền từ nước ngoài chảy vào trong nước cũng trở thành các
phương tiện thanh toán làm cho khối lượng tiền lưu thông trong nước tăng, gây
sức ép lạm phát. Như vậy huy động và sử dụng vốn nước ngoài nếu không có sự
tính toán kỹ lưỡng và không có sự quản lý nợ một cách chặt chẽ sẽ gây nguy cơ
lạm phát và tác động xấu đến hoạt động quản lý nợ trong nước.
Bản chất của hoạt động kinh doanh tiền tệ là" vay để cho vay", do đó hiệu
quả tín dụng còn phụ thuộc vào khả năng huy động vốn, hay nói cách khác là
phụ thuộc vào hiệu quả trong đầu tư dự án. Tín dụng là cầu nối giữa hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng với hoạt động của lĩnh vực sản xuất vật chất và kinh
doanh dịch vụ trong nền kinh tế. Do đó, mỗi biểu hiện không tốt của khách hàng
sẽ có những ảnh hưởng tương ứng tới hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác
động của những mối quan hệ tín dụng: Với khách hàng sản xuất kinh doanh có
lãi, có xu thế phát triển , có khả năng chiếm lĩnh thị trường và có quan hệ tín
dụng tốt (vay trả nợ sòng phẳng) thì cầu nối giữa đi vay - cho vay sẽ thông suốt
và ngày càng mở rộng. Bởi vậy, bằng cơ chế chính sách tín dụng phù hợp,
phương pháp phân tích kinh tế , tài chính doanh nghiệp được xây dựng phù hợp
với đặc điểm hoạt động tín dụng Ngân hàng, các Ngân hàng thương mại sẽ tìm
kiếm được khách hàng tốt để vay và cho vay, tạo sự tương thích hợp lý giữa
nguồn vốn huy động được với việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động quản lý nợ.
Trong thời kỳ kinh tế đình trệ sản xuất- kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín
dụng gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu tín dụng giảm trong thời kỳ
này và vốn tín dụng đã được thực hiện cũng không phát huy hiệu quả việc trả nợ
đến hạn đã thoả thuận cho Ngân hàng thường bị vi phạm, ngược lại, thời kỳ
hưng thịnh, sản xuất, kinh doanh được mở rộng nhu cầu vốn tín dụng tăng, rủi
ro tín dụng ở mức độ thấp, tuy nhiên trên thực tế cũng có nhiều trường hợp do
chạy đua trong sản suất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ, làm cho nhu cầu vốn
tín dụng lên quá cao và có quá nhiều khoản tín dụng được thực hiện, những
khoản này cũng khó có thể được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh

không có kế hoạch dẫn đến suy thoái và khủng hoảng kinh tế, ảnh hưởng xấu
trong quản lý.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, theo Mác: "lợi tức chỉ là một phần của
lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp phải trả cho nhà tư bản kinh doanh tiền tệ
mà giới hạn tối đa của lợi tức là bản thân lợi nhuận. {TB 9.3 , tập 2 NXB sự
thật-1962} như vậy lợi tức của ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới
hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay ngân
hàng. Vì vậy với mức lãi suất cao hơn mức độ lợi nhuận các doanh nghiệp thu
được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ không có khả năng
trả nợ ngân hàng, ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng
của doanh nghiệp nói riêng và tình hình phát triển của nền kinh tế nói chung,
hoạt động tín dụng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển
và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng.
* Yếu tố chính trị xã hội
Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quản lý nợ trong hoạt động kinh doanh là
các tác nhân trực tham gia quan hệ tín dụng, đó là người gửi tiền, ngân hàng và
người vay tiền tín dụng có nghĩa là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở tín nhiệm,
lòng tin, điều đó cũng có nghĩa là quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa 3 yếu tố:
nhu cầu của khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau giữa
ngân hàng và khách hàng: sự quản lý của các Ngân hàng càng cao, thu hút
khách hàng càng lớn.
Khách hàng: Là chủ thể đại diện cho bên cung về vốn tín dụng, đồng thời
cũng đại diện cho bên cầu về vốn vay. Với tư cách là người cung vốn tín dụng,
họ mong muốn nhận được từ Ngân hàng một khoản lãi tiền gửi hay những dịch
vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với Ngân hàng sẽ
làm tăng thêm tính ổn định vững chắc của nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu
cầu của người vay. Đối với người vay, họ đến với Ngân hàng với mong muốn
nhu cầu vay của mình được đáp ứng, để có được một khoản tín dịng sử dụng

cho mục đích sản xuất kinh doanh với sự xác định rõ ràng về số lưọng tiền vay,
thời hạn vay và lãi xuất - giá cả của việc sử dụng vốn vay có thể chấp nhận
được. Nếu nhu cầu của khách hàng được chấp nhận với thái độ ân cần, niềm nở
và thủ tục đơn giản thuận tiện sễ thu hút được nhiều khách hàng tốt, tạo điều
kiện cho hoạt động tín dụng thuận lợi, quản lý nợ sẽ được đảm bảo hơn.
Ngân hàng: Là chủ thể đại diện cho bên cầu về vốn huy động để cho vay,
đồng thời cũng cung cấp về tín dụng. Quy mô và phạm vi hoạt động của tín
dụng phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của ngân hàng, khả năng huy động vốn
(về quy mô và thời hạn) cũng như uy tín và trình độ quản lý của Ngân hàng,
ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật, màng lưới, phương tiện hoạt
động..., khả năng tạo tiền của bản thân Ngân hàng thương mại và việc sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng TW.
Ngoài những yếu tố kể trên, còn có những yếu tố ảnh hướng đến chất
lượng quản lý nợ như: đạo đức xã hội có liên quan tới quản lý nợ xấu trong
hoạt động kinh doanh tín dụng như trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa
đảo, hoặc do trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn tới chưa hiểu đúng bản
chất hoạt động Ngân hàng nói chúng cũng như hoạt động tín dụng nói riêng,
họat động kém hiệu quả, không phát huy tốt chức năng của quản lý nợ trong
kinh doanh.
Bên cạnh đó sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nước
ngoài cũng ảnh hưởng tới chất lượng quản lý trong điều kiện hiện nay, các quan
hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, theo đó các loại hình doanh nghiệp
đa quốc gia càng ngày càng gia tăng cả về số lượng và quy mô hoạt động, các
trào lưu văn hoá- xã hội càng ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Vì vậy, mọi sự
biến động về kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ngoài đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh hưởng tới
chất lượng quản lý, chẳng hạn: Sự kiện Đông Âu làm cho hàng loạt hợp đồng
tiên thụ của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu bị phá vỡ hay do hàng
nội địa không cạnh tranh với hàng nhập lậu về giá cả, chất lượng và chủng loại
dẫn tới hàng sản xuất ra không tiêu thụ được, gây khó khăn cho việc trả nợ.

Hoặc do cuộc khủng hoảng tiền tệ của các nước Đông nam á mà bắt đầu từ Thái
lan đã làm cho một loại các doanh nghiệp của Nhật bản, Hàn quốc mất khă năng
thanh toán, và theo nó là hàng loạt các Ngân hàng của những nước này bị tuyên
bố phá sản hoặc sáp nhập. Do các khoản đầu tư tín dụng không còn khả năng
thu hồi... Ngoài ra, chất lượng quản lý nợ trong kinh doanh còn phụ thuộc vào
nhiều các yếu tố môi trường tự nhiên như tính hình thời tiết, dịch bệnh... cũng
như các biện pháp tích cực trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
* Yếu tố pháp lý
Yếu tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ,
thống nhất các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành
pháp luật và trình độ dân trí.
Thực tiễn kinh tế thị trường qua nhiều thập kỷ đã có đủ cơ sở kết luận
rằng:
Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Không có Pháp luật hoặc không có pháp
luật phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường thì mọi
hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy được. Với vai trò
đảm bảo cho việc chuyển một nền kinh tế thị trường từ tự phát kém tổ chức
sang một nền kinh tế thị trường văn minh, hoàn hảo, pháp luật có nhiệm vụ tạo
lập một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành
thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao; là cơ sở giải quyết các vấn đề khiếu nại
khi có tranh chấp xẩy ra. Vì vậy, yếu tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối
với hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác quản lý chất lượng nợ nói
riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuôn thủ
pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho
cả hai phía và chất lượng quản lý nợ trong hoạt động kinh doanh mới được đảm
bảo.
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng quản lý nợ nhằm
- Hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi nhuận từ hoạt
động Ngân hàng.

- Xã hội hoá hoạt động Ngân hàng, biến Ngân hàng thương mại trở thành
chỗ dựa về vốn đầu tư cuả mọi tổ chức, cá nhân, đơn vị trong nền kinh tế- xã
hội, tạo điều kiện cho Ngân hàng thương mại có thế mạnh riêng của mình để
tăng cường ưu thế cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác trên thị
trường.
- Hợp pháp hoá hoạt động Ngân hàng, đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động
theo pháp luật và thông lệ quốc tế; tạo môi trường pháp lý lành mạnh và ổn
định để hoạt động quản lý nợ được an toàn, có hiệu quả.
1.2. Các yếu tố bên trong.
Các yêú tố bên trong thường liên quan tới sự phấn đấu của bản thân Ngân
hàng trên tất cả các mặt có liên quan tới chất lượng quản lý nợ và ảnh hưởng
trực tiếp tới các khía cạnh khác nhau của chất lượng quản lý. Các yêú tố bên
trong có thể khái quát thành 7 yêú tố chính ( về cơ chế qui chế; công tác tổ
chức; chất lượng nguồn nhân lực, quy trình nghiệp vu; thông tin; kiểm tra kiểm
soát và trang thiết bị quản lý nợ) ảnh hưởng của nó tới chất lượng quản lý được
thể hiện qua nội dung tứng yêú tố như sau:
Thứ nhất, Về cơ chế , qui chế tín dụng
Chính sách cơ chế qui chế là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho hoạt động
tín dụng đi đúng quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất
bại của một Ngân hàng thương mại. Một cơ chế qui chế tín dụng đúng đắn sẽ có
tác dụng thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt
động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp, đường lối chính
sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chất
lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng cơ chế qui chế của Ngân hàng
thương mại có đúng đắn hay không. Bất cứ Ngân hàng thương mại nào muốn có
chất lượng quản lý tốt đều phải có cơ chế qui chế tín dụng rõ ràng thích hợp
cho Ngân hàng mình.
Thứ hai, Công tác tổ chức của Ngân hàng
Tổ chức của Ngân hàng được xắp xếp một cách có khoa học, đảm bảo sự
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng Ngân hàng, trong

toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa Ngân hàng với các cơ quan khác
như, tài chính, thuế, pháp lý... sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của
khách hàng; theo dõi quản lý sát sao các khoản vốn huy động cũng như các
khoản cho vay, đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và
quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng. Tổ chức Ngân hàng theo nguyên
tắc tập trung có phân cấp chính là một khâu trong quá trình quản lý chất lượng
tín dụng đồng bộ, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước trong từng
thời kỳ.
Thứ ba, Chất lượng nguồn nhân lực
Con người là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh
của xã hội. Trong hoạt động Ngân hàng con người là yếu tố quyết định đến sự
thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như các hoạt động khác của Ngân
hàng. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng quản lý nhân sự ngày càng
cao để có thể đối phó kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của
hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, giỏi về
chuyển môn, am hiểu sâu lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, kiến thức ngoại ngành
( có năng lực phân tích và sử lý nhu cầu xin vay của khách hàng, đánh giá tài
sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cấp tiền cho vay tới khi thu
hồi được nợ hoạt sử lý song món nợ theo quy chế cho vay của Ngân hàng...) sẽ
giúp cho Ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xẩy ra khi
thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng được cấp.
Thứ tư, Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định về trình tự công việc cần phải
thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảo bảo an toàn vốn tín dụng, nó
được bắt đầu tư khi chuẩn bị cho vay ( tiếp nhận đơn, thẩm định các điều kiện
của khách hàng vay), phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu
hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc
thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phổi hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa
các bước trong quy trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng bước chuẩn bị cho vay ( khách hàng gửi đơn đề

nghị kèm phương án hoặc dự án tới ngân hàng, Ngân hàng căn cứ vào đó để tiến
hành thẩm định để quyết định cho vay hay không cho vay) rất quan trọng, là cơ
sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này, chất lượng tín
dụng tùy thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng
như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng Ngân hàng
thương mại. Kiểm tra tôt qui trình cho vay sẽ góp phần cho Ngân hàng nắm
được nguyên nhân, diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp để có những biện
pháp điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, sớm phát hiện ngăn ngừa những
rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm
tra thiếp lập được một hệ thống phòng ngừa giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
tín dụng, góp phần cải thiện chấp lượng quản lý nợ.
Thu nợ và thanh lý nợ là khâu quan trọng có tính quyết định đến sự tồn tại
của Ngân hàng do đó Ngân hàng phải chú động, tích cực trong công tác thu nợ,
sự nhậy bén của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều kiện bất lợi
xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ
giảm các khoản nợ quá hạn vì điều đó sẽ tác động tích cực đối với chất lượng
quản lý nợ vay.
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quá trình tín dụng sẽ tạo điều
kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã
định, nhờ đó đảm bảo qui trình quản lý.
Thứ năm, Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng nợ. Nhờ
có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có
liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín
dụng có thể thu được từ các nguồn có sẵn ở Ngân hàng( hồ sơ vay vốn, thông
tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích đánh giá...) từ phía khách hàng ( theo
chế độ báo cáo, hoặc làm việc trao đổi trực tiếp) từ các nguồn thông tin khác
( các cơ quan thông tấn, báo trí, các khách hàng khác, các trung tâm phong ngừa
rủi ro...). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhập được có liên quan đến
mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định khách hàng, thị trường... để

đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng nhanh nhạy, đầy đủ, chính
xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng
lớn, chất lượng quản lý nợ càng cao.
Thứ sáu, Kiểm soát nội bộ
Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo Ngân hàng có được các thông tin
về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh
đang được xúc tiến, phù hợp với các chính sách, thực hiện được các mục tiêu đã
định.
Trong lĩnh vực tín dụng hoạt động Kiểm soát bao gồm:
- Kiểm soát việc thực hiện cơ chế qui chế, chính sách tín dụng và các thủ
tục có liên quan đến các khoản vay.
- Kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường
hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán và các
nghiệp vụ có liên quan đến cho vay .
- Kiểm tra đột suất việc sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp của khách hàng
để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và các khoản đảm bảo vốn vay.
Chất lượng quản lý nợ tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời các tồn tại
thiếu sót và nguyên nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một
khoản tín dụng, do công tác kiểm soát nội bộ phát hiện để có biện pháp khắc
phục kịp thời.
Để công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ có hiệu quả, Ngân hàng cần có cơ
cấu tổ chức hợp lý, cán bộ kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ chuyên môn, trung thực
và có đạo đức nghề nghiệp, có chính sách thưởng phạt vật chất nghiêm minh.
Thứ bảy, Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động quản lý nợ trong hoạt động
kinh doanh
Để có thể quản lý và theo dõi có hiệu quả hoạt động tín dụng, song song
với việc nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức
quản lý Ngân hàng, công tác nhân sự, quản lý quá trình cho vay, công tác thông
tin kiểm soát nội bộ, cần phải chú ý các phương tiện cần thiết phục vụ cho quá
trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khă năng

tài chính và phạm vi, quy mô hoạt động của Ngân hàng sẽ giúp cho quản lý
được tốt hơn. Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động quản lý nợ là những cơ sở
vật chất, hệ thống nhà làm việc, kho tiền, quầy giao dịch, hệ thống thiết bị mạng
vi tính, phương tiện làm việc trong Ngân hàng. Hệ thống trang thiết bị này sẽ:
- Phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ phục
vụ
( nhận tiền gửi, cho vay, thu nợ, thanh toán...) với chi phí mà cả hai bên
cùng chấp nhận được và thời gian ngắn nhất.
- Giúp cho các cấp quản lý của Ngân hàng thương mại kịp thời nắm bắt
tình hình hoạt động tín dụng để điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tính hình
thực tế nhằm thoả mãn ngày càng cao yêu cầu của khách hàng.
- Tạo ra uy tín cho Ngân hàng trong cạnh tranh, thu hút khách hàng tốt
chiếm lĩnh thị trường và mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường quốc tế.
Như vậy, trang thiết bị cũng là một trong các yếu tố không thể thiếu được
để không ngừng cải tiến chất lượng quản lý.
Tóm lại: Qua nghiên cứu nội dung các loại yếu tố ảnh hưởng tới chất
lượng quản lý nợ ta thấy: Tuỳ theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội và sự
hoàn thiện môi trường pháp lý của từng nước, cũng như khả năng quản lý, cơ sở
vật chất kỹ thuật và trình độ cán bộ của từng Ngân hàng thương mại mà các yếu
này ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau tới chất lượng quản lý nợ. Vấn đề đặt ra
là chúng ta phải biết rõ các yêú tố ảnh hưởng tới quản lý nợ và biết vận dụng
sáng tạo, linh hoạt sự ảnh hưởng của các yêú tố này trong điều kiện và hoàn
cảnh thực tế sẽ có tác dụng giúp cho sự thành công của hoạt động tín dụng nói
riêng cùng như hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung.
1.3. Ảnh hưởng của các yếu tố đến hoạt động của Ngân hàng No &
PTNT Vĩnh Phúc trong những năm vừa qua
Do nhận biết được những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nợ của
một Ngân hàng thương mại, nhất là Ngân hàng No hoạt động kinh doanh chủ
yếu trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Thị trường cho vay là nông nghiệp,
đối tượng cho vay chủ yếu là các hộ nông dân, vì vậy trong những năm vừa qua

Ngân hàng No & PTNT Vĩnh phúc đã chủ động định hướng chiến lược đúng
dắn cho hoạt động tín dụng của mình với phương châm phát triển phải an toàn
và an toàn để phát triển, tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nợ đều được
Ngân hàng No & PTNT Vĩnh Phúc xem xét, phân tích và có biện pháp phòng
ngừa. Hàng năm đều có đề án phát triển và nâng cao chất lượng tín dụng thông
qua hội nghị đại biểu cán bộ viên chức, xác lập rõ định hướng đầu tư, đối tượng
đầu tư, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nợ xấu trong tầm kiểm soát. Có thể khẳng
định công tác quản lý nợ, quản lý rủi ro trong công tác tín dụng ở Ngân hàng No
&PTNT Vĩnh Phúc thực hiện có hiệu quả. Tỷ lệ nợ xấu dưới 1%, chất lượng tín
dụng tốt, kinh doanh có hiệu quả cao.
Tuy nhiên qua nghiên cứu cũng thấy các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
quản lý nợ nêu trên cũng có ảnh hưởng đến chất lượng quản lý nợ ở Ngân hàng
No & PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc.

×