Giải pháp tăng cường hỗ trợ các DNVVN tiếp cận vốn vay
ngân hàng
3.1. Quan điểm phát triển DNVVN ở Việt Nam tới năm 2010
Phát triển DNVVN là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường nên các doanh nghiệp, các nhà đầu tư còn chưa có nhiều kinh
nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, chưa chú ý nhiều đến chiến lược
kinh doanh lâu dài, làm ăn theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ. Trước tình hình đó,
phát triển DNVVN sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ các nhà kinh doanh Việt
Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người cho các giai đoạn phát triển tiếp
theo. Phát triển DNVVN sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay trên
thị trường trong nước làm cho nền kinh tế năng động hơn. Điều đó đòi hỏi các
doanh nghiệp phải vươn lên không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả. Nhờ
đó nền kinh tế sẽ có cơ hội phát triển sức cạnh tranh của mình trên thị trường
thế giới.
DNVVN có ưu thế là tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nền kinh tế. Điều
này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao
động đồng thời lại là một gánh nặng xã hội như nước ta. Phát triển DNVVN
vừa góp phần thu hút thêm lao động, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống
cho người lao động vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có nhất của
nền kinh tế, là lao động tạo tiền đề tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau.
Hơn nữa phát triển DNVVN sẽ làm tăng tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế để đạt
được các mục tiêu tăng trưởng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến
năm 2010.
DNVVN cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một
số ngành có lựa chọn.
Đó là các ngành:
- Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất
khẩu có khả năng cạnh tranh.
- Các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn cũng như trong các lĩnh vực
phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn (mạng lưới phân phối,
gia công bán thành phẩm).
- Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn bao gồm các sản phẩm
truyền thống thuộc về các làng nghề.
Ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn, cả trong công nghiệp và các
ngành dịch vụ; coi DNVVN là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược
CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Hiện nay nước ta có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn. Quá trình
phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói
riêng và trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tình trạng
nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển
kinh tế đã và đang dẫn đến sức ép di cư từ nông thôn vào các trung tâm công
nghiệp và đô thị lớn gây nên những biến động xã hội khó lường. Kinh nghiệm
các nước châu Á cho thấy chiến lược phát triển đất nước đi từ nông nghiệp và
nông thôn là sự lựa chọn khôn ngoan hiệu quả do:
- Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư
sống ở nông thôn, góp phần giảm thiểu nhu cầu di cư vào các thành phố và
trung tâm công nghiệp, ổn định xã hội, tránh cho các thành phố rơi vào tình
trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt.
- Thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng
lên. Đây là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà
còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều này sẽ làm tăng mối liên kết kinh tế giữa
thành thị và nông thôn, góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa
thành thị và nông thôn.
- Phát triển các DNVVN trong lĩnh vực lưu thông, phân phối hàng hoá ở nông
thôn là góp phần thúc đẩy thị trường ở nông thôn phát triển, thu hút được số
lượng lớn lao động nhàn rỗi. Phát triển mạng lưới phân phối nhiều cấp rộng
khắp ở nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ hàng hoá công nghiệp tốt hơn.
- Nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phong phú cho phát triển các
sản phẩm công nghiệp tiêu dùng nhất là cho các ngành công nghiệp chế biến
lương thực, thực phẩm; các ngành thủ công mỹ nghệ và hơn nữa lại có một lực
lượng lao động dồi dào.
DNVVN được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định
mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia.
Nguyên lý chung là sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản
xuất nhỏ xét về mặt kinh tế. Tuy nhiên nếu xét về hiệu quả kinh tế xã hội và
hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung thì không hoàn toàn như vậy. Thị
trường có nhiều phân đoạn: phân đoạn dành cho các sản phẩm có số lượng
tiêu thụ lớn và phân đoạn dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng nhu cầu
hết sức riêng của một nhóm người hay một hộ tiêu thụ nào đó. Chính DNVVN
thích hợp với loại thị trường thứ hai này. Thông thường nếu không có sự can
thiệp của Nhà nước thì doanh nghiệp lớn thường có xu hướng tìm cách chiếm
lĩnh mọi thị trường. Vì vậy cần có khuôn khổ luật pháp rõ ràng quy định loại
sản phẩm nào, ngành sản xuất nào với tỷ trọng bao nhiêu được ưu tiên dành
cho DNVVN đảm nhận.
Phát triển DNVVN trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn.
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, xuất phát từ
định hướng phát triển kinh tế xã hội chung đã đặt ra những chương trình phát
triển quy mô lớn, theo đó định hướng phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ tạo ra mối liên kết hỗ trợ lẫn nhau thông qua cơ chế chính sách của Nhà
nước, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp lớn và các DNVVN hình
thành mối liên kết chặt chẽ cùng phát triển.
Mối liên kết chặt chẽ thể hiện ở:
- Phân công chuyên môn hoá giữa DNVVN và doanh nghiệp lớn sao cho hiệu
quả. DNVVN vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp
lớn.
- Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho DNVVN về đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin,
chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
- Giao thầu lại cho DNVVN những phần việc trong các hợp đồng lớn mà doanh
nghiệp lớn ký với nhà nước.
- Hỗ trợ tài chính lẫn nhau trong quá trình phát triển.
Nghiên cứu thành lập một số khu công nghiệp tập trung ở các thành
phố lớn dành riêng cho DNVVN.
Kinh nghiệm các nước cho thấy sự ra đời các khu công nghiệp tập trung
dành cho DNVVN có một số tác dụng sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN về cơ sở hạ tầng: điện, nước, thông
tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho
DNVVN với chi phí thấp hơn các khu công nghiệp tập trung hiện có mà chỉ có
các doanh nghiệp lớn mới có khả năng.
- Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho các DNVVN
nằm trong khu công nghiệp.
3.2. Một số giải pháp tăng cường hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn
vay ngân hàng
3.2.1. Giải pháp vĩ mô
3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt
động tín dụng giữa DNVVN và ngân hàng
Để có một giải pháp hoàn thiện cho việc tiếp cận vốn ngân hàng hiệu quả
hơn của DNVVN thì không thể tách rời những chính sách điều hành vĩ mô của
nhà nước đối với nhóm doanh nghiệp này. Có những vấn đề nếu doanh nghiệp
và ngân hàng cùng cố gắng thì có thể vượt qua được. Song, cũng có những vấn
đề đụng chạm đến những qui định mang tính pháp lý hoặc còn chưa rõ ràng
làm cho cả ngân hàng và doanh nghiệp đều lúng túng khi thực hiện. Do dó nhà
nước cần ban hành, hướng dẫn và sửa đổi các văn bản pháp lý sao cho phù
hợp, đặc biệt là những văn bản qui định về tài sản thế chấp cầm cố. Đó là:
- Các ngân hàng cần được quyền chủ động trong việc xử lý, phát mại tài sản
thế chấp cầm cố để việc thu hồi nợ được kịp thời, giảm những chi phí không
cần thiết trong quá trình phát mại.
- Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế dân sự trong quan hệ vay vốn giữa
ngân hàng với doanh nghiệp. Thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp các con
nợ cố tình lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngân hàng thì ngân hàng lại phải chịu
trách nhiệm hình sự. Các ngân hàng vì thế không muốn mở rộng cho vay đối
với các DNVVN do rủi ro cao.
- Đổi mới trách nhiệm giải trình trước cơ quan pháp luật của ngân hàng. Các
ngân hàng khi có món vay liên quan đến vụ án hình sự dù đúng hay sai cũng
phải mất khá nhiều thời gian, công sức để giải trình trước cơ quan pháp luật.
Bất kỳ lúc nào cơ quan pháp luật cũng có quyền yêu cầu Tổng giám đốc, giám
đốc trực tiếp giải trình mà không cho người khác đại diện ảnh hưởng đến việc
điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là chưa kể đến trong thời
gian chờ kết luận xử lý chính thức các cán bộ ngân hàng luôn lo lắng bị xử lý
hình sự gây tâm lý bất ổn. Vì vậy Nhà nước cần đổi mới theo hướng mọi việc
đều được thực hiện thông qua đại diện của đương sự là luật sư.
- Các quy định về giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất
cần được nhanh chóng sửa đổi cho thống nhất giúp người đi vay hoàn thiện
những thủ tục cần thiết. Đơn giản hoá công chứng nhà nước.
3.2.1.2. Đẩy mạnh nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của
Quỹ hỗ trợ phát triển cũng như sự hình thành và phát triển
của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ở địa phương
Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển là một
hình thức hỗ trợ thiết thực cho các DNVVN vay vốn ngân hàng. Khi không có
đủ tài sản để thế chấp cầm cố song có phương án sản xuất kinh doanh khả thi,
Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp này để doanh
nghiệp có thể vay được vốn ngân hàng. Thực tế hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh
tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển chưa được mở rộng do các điều kiện
để được bảo lãnh còn chặt chẽ và phí bảo lãnh cao. Vì thế trước mắt Nhà nước
nên đẩy mạnh nghiệp vụ này, tiến hành bảo lãnh nhiều hơn cho các doanh
nghiệp, các dự án đầu tư mang lại lợi ích cho xã hội.
Thông tư 42/02/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 22/5/2002 hướng dẫn thi
hành quyết định số 193/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy
chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN,
trong đó Thủ tướng Chính phủ cho phép các địa phương được thành lập Quỹ
bảo lãnh tín dụng để cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN của địa phương đó.
Đây là một giải pháp rất hữu hiệu cho các DNVVN tiếp cận vốn vay.
Trong thời gian qua ở nước ta mới chỉ có hai Quỹ bảo lãnh tín dụng là
Quỹ bảo lãnh tín dụng thí điểm ở Bắc Giang và Quỹ bảo lãnh tín dụng từ
chương trình tín dụng Việt Đức của NHCT. Vì vậy với việc cho phép hình thành
các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở địa phương, các DNVVN sẽ tiếp cận được với
nguồn vốn vay ngân hàng dễ dàng hơn. Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN địa
phương có ưu điểm là sát với điều kiện thực tế ở địa phương, gắn với các yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, với yêu cầu cụ thể của doanh
nghiệp trên địa bàn. Điều này càng có ý nghĩa và thuận lợi khi mà đối tượng
của Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương không phải là các DNNN, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp quy mô lớn mà chính là các
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ- loại hình doanh nghiệp chủ yếu ở địa
phương.
Giai đoạn đầu hình thành và phát triển chắc chắn còn nhiều khó khăn và
hạn chế do đó Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh hoạt động
của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ở địa phương.
3.2.1.3. Nhà nước khuyến khích các NHTM cho DNVVN vay
thông qua các chính sách, các hình thức hỗ trợ cụ thể
Các NHTM vẫn có tâm lý dè chừng, đề phòng rủi ro khi cho vay đối với
DNVVN. Để cải thiện tình hình này, Nhà nước cần hỗ trợ cho ngân hàng bằng
cách tăng vốn điều lệ cho ngân hàng, hỗ trợ một phần lãi suất, đẩy mạnh hoạt
động của công ty mua bán tài sản tồn đọng trực thuộc Chính phủ (AMC) cũng
như một hệ thống đăng ký tập trung về tài sản qua mạng máy tính. Nguồn vốn
điều lệ của ngân hàng càng lớn thì khả năng cho vay doanh nghiệp của ngân
hàng càng tăng lên tương ứng. Vì thế Nhà nước muốn các NHTM cho vay
DNVVN nhiều hơn nữa thì cần cấp thêm vốn cho ngân hàng từ ngân sách Nhà
nưóc hoặc cũng có thể hỗ trợ lãi suất cho các ngân hàng bằng cách quy định
một mức lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường đối với các
DNVVN. Phần chênh lệch Nhà nước sẽ bù lỗ cho ngân hàng.
Hiện nay các ngân hàng đang gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế
chấp. Nhiều DNVVN dùng một tài sản đem thế chấp ở nhiều ngân hàng, cố tình
lừa đảo ngân hàng cam kết là tài sản không có tranh chấp. Các ngân hàng
không có thông tin chính xác để xác định những trường hợp này. Và một hệ
thống đăng ký tập trung về tài sản qua mạng máy tính là rất cần thiết cho
ngân hàng. Việc xử lý tài sản thế chấp cũng là một vướng mắc mà ngân hàng
cần được Nhà nước hỗ trợ. Bằng việc đẩy mạnh hoạt động của công ty mua
bán tài sản tồn đọng AMC, Nhà nước đã giúp ngân hàng xử lý tài sản thế chấp
một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất tránh tình trạng đọng vốn trong ngân
hàng. Ngân hàng ra quyết định cho vay nhanh hơn, mạnh dạn hơn. Đồng thời
Nhà nước còn hỗ trợ về tài chính cho ngân hàng trong việc cơ cấu lại nợ, xử lý
dứt điểm các khoản nợ khó đòi, nợ khoanh do các DNVVN gây ra giúp ngân
hàng hoạt động bình thường trở lại.