Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.07 KB, 41 trang )

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ
VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA NHTW
I-/ CÁC LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ
Tỷ giá từ trước tới nay là một vấn đề khó, khó trong cả cách xác định và
trong cả cách can thiệp, điều chỉnh. Chẳng thế mà nhà kinh tế tiền tệ nổi tiếng
Milton Fridman phải nói rằng: chúng ta đang dong buồm trên hải trình chưa
được lập hải đồ và cần phải có thời gian để nhận biết tuyến đường an toàn. Từ
trước tới nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu vấn đè này trên nhiều
góc độ khác nhau và đưa ra cáclý thuyết về tỷ giá với các quan điểm khác
nhau. Mỗi người đều gắng tìm cho được một mô hình, kết luận "đứng ngoài
thời gian" nhưng chưa ai thành công cả. Chính vì vậy, các kết luận của các nhà
kinh tế này vẫn còn được tiếp tục hoàn thiện phát triển cho đến ngày nay tạo
lên sự duyên dáng và hấp dẫn cho " tỷ giá".
1-/ Các lý thuyết về tỷ giá:
Tỷ giá được đề cập đến sớm nhất bởi David Ricardo vào đầu thế kỷ 19 với
lý thuyết thông số sức mua dưạ vào đồng tiền được được đảm bảo bằng vàng.
Sau đó được Karl Marx chuyển sang một hướng tiếp cận khác từ góc độ giá trị
lao động. Sang thế kỷ 20, tỷ giá được các nhà kinh tế hiện đại tiếp xúc ở các
góc độ rất khác nhau đưa ra những kết luận có khi đối lập. Để có thể tiếp nhận
được những nội dung cơ bản các các lý thuyết về tỷ giá, xin được chia thành
hai quan điểm lớn như sau:
1.1-/ Quan điểm của Karl Marx và các nhà Marxist
Dựa trên học thuyết về giá trị lao động và lý thuyết tiền tệ thế giới- tiền tệ
có chức năng thước đo giá trị, Marx cho rằng tỷ giá là tương quan sức mua
giữa hai đồng tiền của hai quốc gia, do đó phản ánh tỷ lệ thước đo giá trị lao
động giữa hai quốc gia. K.Marx đưa ra một kết luận hết sức biện chứng là chỉ
cái quan trọng không phải là cung- cầu tiền tệ mà là các nhân tố đứng đằng
sau tác động lên cung cầu nghĩa là tỷ giá quyết định bởi tương quan sức mua
giữa đồng nội tệ, ngoại tệ và hàng loạt các nhân tố khác, về bản chất. Đây là
một kết luận quan trọng mở ra một hướng nghiên cứu mở về sau, phù hợp với
từng thờikỳ. Do vậy, trong quá trình ngiên cứu các nhà Marxist đã kết luận


rằng" Tỷ giá là một pham trù kinh tế lịch sử gắn với các giai đoạn phát triển
sản xuất của xã hội, tính chấp, cường độ tác động của các yếu tố phụ thuộc vào
trình độ phát triển của thị trường, các giai đoạn cụ thể trong lưu thông tiền tệ
của thế giới”.
Quan điểm của các nhà Marxist là một hướng phát triển tất yếu dựa trên
học thuyết giá trị và tư tưởng biện chứng. Mặc dù quan điểm này không đưa
ra nhiều cái tác động cụ thể của các nhân tố lên tỷ giá nhưng nó đã chỉ ra bản
chất của tỷ giá và một hướng tiếp cận hết sức biện chứng và rộng mở.
1.2-/ Các quan điểm của các nhà kinh tế thị trường:
Các nhà kinh tế thị trường nghiên cứu tỷ giá dựa trên những cơ sở khác
nhau hướng tới việc đưa ra các cách giải thích khác nhau cho diễn biến tỷ giá
từng thời kỳ.
* Lý thuyết thông số sức mua: Được David Ricardo đề cập đến đầu thế kỷ
19, được phát triển bởi J. Keynes, Paul Sammulson và nhiều nhà kinh tế tiền tệ
khác. Lý thuyết này có cách tiếp cận gần giống các nhà Marxist, nó chỉ ra rằng
tỷ giá được xác định bằng tương quan sức mua giữa hai đồng tiền và tương
quan sức mua được xác định bởi số lượng tiền tệ trong lưu thông của các nước
tương ứng (Ricardo), yếu tố tâm lý, luân chuyển vốn (J. Keynes), can thiệp của
chính phủ...Lý thuyết này cho rằng tỷ giá linh hoạt và tự điều chỉnh thông qua
mua đi bán lại để đạt tới trạng thái cân bằng sức mua. Nó là cơ sở cho rất
nhiều lý thuyết khác về tỷ giá.
* Lý thuyết ngoại tệ được điều chỉnh: Được đề xuất bởi J. Keynes, S.Fisher
và một số nhà kinh tế tiền tệ khác sau thời kỳ khủng hoảng 1929-1933. Lý
thuyết này dựa trên những luận thuyết của J.Keynes về vai trò điều chỉnh của
nhà nước để đưa ra những phương pháp tiếp cận và điều chỉnh tỷ giá đạt
trạng thái "cân bằng". Lúc đầu S. Fisher tiếp cận dựa trên chế độ bản vị vàng
và cho rằng có thể điều chỉnh tỷ giá thông qua điều chỉnh hàm lượng vàng của
tiền tệ. Sau đó, cùng với sự phát triển của tiền giấy, tiền tín dụng chuyển đổi rồi
không có khả năng chuyển đổi (vàng không còn là phương tiện lưu thông chủ
yếu), J.Keynes cho rằng có thể giảm giá trị đồng nội tệ để tác động lên giá cả, xuất

khẩu, cạnh tranh với bên ngoài. ở lý thuyết này, J.Keynes đã đưa ra hàngloạt các
quan hệ giữa tỷ giá- việc làm, giá cả, xuất nhập khẩu và cạnh tranh một cách xác
thực.
* Lý thuyết tỷ giá cân bằng: Lý thuyết này không đề cập đến tỷ giá như là
tương quan giữa sức mua của hai đồng tiền mà họ cho rằng nó là một cái gì đó
khác ngoài tương quan sức mua mà nó đem lại sự cân bằng của nền kinh tế
(của các yếu tố kinh tế vĩ mô cơ bản). Đây là một lý thuyết hết sức có ý nghĩa
cho việc can thiệp của các chính phủ nhằm đem lại một trạng thái kinh tế lý
tưởng, nhưng nó rất khó xác định thế nào là cân bằng, có thể đồng thời cân
bằng tất cả các cân bằng cơ bản mâu thuẫn nhau hay không?
* Lý thuyết các ngoại tệ chủ chốt: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự
phát triển của kỹ thuật quân sự, Mỹ tiến hành thao túng nền kinh tế tư bản.
Thông qua kế họach Marshall, Mỹ ra sưc bành trướng và củng cố sức mạnh
đồng USD lý thuyết các ngoại tệ mạnh ra đời chỉ ra sự cầnthiết phải có một/
một số ngoại tệ mạnh làm cơ sở dự trữ và thanh toán quốc tế, USD trở thành
đồng tiền có sức mạnh độc tôn cùng với một số đồng tiền của một số nước tư
bản mạnh khác (về sau này) như: GBP, JPY, FRF, DEM. Lý thuyết này được áp
dụng cho sau này khi với sự ra đời của đồng SDR (Special Drawing Right).
Trong lý thuyết này, tỷ giá bị can thiệp bởi yêú tố chính trị, quân sự và phản
ánh sự tương quan sức mạnh kinh tế chứ không phản ánh một mối quan hệ
cung cầu cụ thể.
* Lý thuyết tỷ giá linh hoạt: Chế độ tỷ giá hối đoái cố định của Bretton
Wood sụp đổ đòi hỏi cần phải có chế độ tỷ giá phù hợp với điều kiện mới.
Milton Friedman cùng một số nhà kinh tế đại học Chicago đưa ra học thuyết
tiền tệ (thuyết trọng tiền) trong đó đề xuất một chế độ tỷ giá linh hoạt (thả
nổi) chế độ này dựa trên việc tỷ giá phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường
và không có sự can thiệp của chính phủ. Học thuyết này cho rằng, tỷ giá có mối
liên hệ trực tiếp bởi mức cung tiền, giá cả, việc làm. Chính phủ thực hti các
chính sách tiền tệ thường không hiệu quả và bóp méo giá cả (thông tin của thị
trường). Do vậy, Chính phủ không nên can thiệp nhiều vào tiền tệ, tỷ giá. Lý

thuyết này được Reggan áp dụng cho Mỹ và đã khá thành công. Tuy nhiên, các
kiểm định thực tế đã cho thấy tính "giới hạn" của lý thuyết này.
Tóm lại, qua các lý thuyết ta thấy các quan điểm về tỷ giá rất khác nhau
và có tính lịch sử của nó. Từ bản chất khởi thuỷ là tương quan sức mua hai
đồng tiền, đến nay tỷ giá đã phát triển qua nhiều hình thức khiến cho tỷ giá trở
nên " duyên dáng" và " bí ẩn". Tuy nhiên, về hình thức ta có thể thấy tỷ giá là
giá của một đơn vị tiền tệ của quốc gia này được đo bằng các đơn vị tiền tệ của
quốc gia khác. Nó là một con số tỷ lệ để trao đổi đồng tiền này lấy đồng tiền
khác. Về bản chất, tỷ giá phản ánh trạng thái cân bằng của cung-cầu các đồng
tiền xuất phát từ nhu cầu luân chuyển trao đổi hàng hoá, dịch vụ quốc tế, sự
luân chuyển tài chính quốc tế và các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội của các
chủ thể ( kinh tế , chính trị, xã hội.) quốc tế.
2-/ Các mô hình xác định tỷ giá:
Cùng với các lý thuyết về tỷ giá, hàng loạt các mô hình xác định tỷ giá
được nêu ra. Nếu các lý thuyết tỷ giá đưa ra các phân tích định tính cho ta xác
định / thấy được bản chất của tỷ giá thì các mô hình thiên về việc phân tích
định lượng, qua đó cho ta một cơ chế tác động cụ thể của các nhân tố lên tỷ
giá. Hiện tại có thể phân loại thành các mô hình tiếp cận tỷ giá cơ bản là:
Các hướng tiếp cận truyền thống, tiếp cận thị trường hàng hoá tới việc
xác định tỷ giá thực, gồm các mô hình: mô hình ngang giá sức mua/ quy luật
một giá (David Ricardo),mô hình lý thuyết đàn hồi (Robison-1947, Alexander-
1952, Johnson- 1958, Krugman-1989,1991)
Các hướng tiếp cận hiện đại, hướng tới xác định tỷ giá danh nghĩa thông
qua việc tiếp cận từ các thị trường tiền tệ và thị trường tài sản. Qua thị trường
tiền tệ, ta có các mô hình: mô hình giá cả linh hoạt (Flexible Price Monetary
Model)( Frenkel-1976, Bilson-1979), mô hình giá cố định (Sticky Price Model)
(Dornbush-1976), mô hình chênh lệch lãi suất (Interest Rate Differentical
Model) ( Frenkel-1979). Qua cách tiếp cận từ thị trường tài sản có mô hinh
trong đó đáng lưu ý là mô hình áp dụng cho các quốc gia nhỏ của Kouri&
Macedo (1978), Dooley&Isard (1979)

Sau đây chúng ta lần lượt xem các nội dung cơ bản của một số mô hình
chủ yếu:
2.1-/ Mô hình ngang giá sức mua: (Purchasing Power Parity- PPP)
Lý thuyết này do David Ricardo đề xướng, nó tiếp cận tỷ giá thông qua thị
trường hàng hoá và định nghĩa tỷ giá là tương quan sức mua ( tương quan giá
cả của hàng hoá) giữa hai đồng tiền của hai quốc gia. Mô hình này dựa trên
điều kiện thương mại quốc tế cạnh tranh hoàn hảo ( thị trướng tự do mua đi
bán lại, chi phí vận chuyển bằng không, không có bảo hộ mậu dịch).Khi đưa
vào điều kiện này, mô hình đưa ra một quy luật dó là quy luật một giá (Law of
one price): với điều kiện cạnh tranh thương mại quốc tế hoàn hảo, giá của
cùng một loại hàng hoá bán được bán ở các thị trường khác nhau là như nhau
nếu tính bằng một loại tiền tệ
Quy luật này được thể hiện ở hai hình thức: tương đối vàtuyệt đối như sau:
2.1.1-/ Hình thức PPP tuyệt đối
Hình thức này được thể hiện qua công thứcthính tỷ giá là
S = P/ P* (1)
Trong đó: S: Tỷ giá số đồng nội tệ cần thiết để đổi một đồng ngoại tệ
P: Mức giá trong nước
P*: Mức giá nước ngoài.
Mô hình này cho ta thấy sự tăng mức giá chung trong nước sẽ ngay lập
tức tạo ra sự giảm giá của đồng nội tệ và ngược lại. Tỷ giá ở đây là linh hoạt
hoàn toàn để phản ánh sức mua của các đồng tiền( tình trạng giá cả hàng hoá
của hai quốc gia).
2.1.2. Hình thức PPP tương đối.
Hình thức này phát triển hình thức trên thông qua việc xem xét ảnh
hưởng của tỷ lệ lạm phát lên giá cả ( sức mua tiền tệ) và đưa ra phương trình:
d(∆ S) = d(∆P) - d(∆ P*) (2)
Trong đó:
d(∆ S): Tỷ lệ giảm giá đồng nội tệ
d(∆P): Tỷ lệ lạm phát nội địa

d(∆ P*): Tỷ lệ lạm phát nước ngoài
Qua phương trình (2) ta thấy, nếu tỷ lệ lạm phát trong nước tăng lên x%
thì đồng nội địa chắc chắn sẽ giảm giá x% và ngược lại. Các mô hình tuyệt đối
và tương đối được phát triển bởi Cassell bằng cách xem xét hàng hoá một cách
chi tiết hơn. Ôngcho rằng hàng hoá có thể là hàng hoá mậu dịch hoặc phi mậu
dịch (chỉ tiêu dùng trong nước) chỉ hàng hoá mậu dịch (Traded Goods) mới bị
ảnh hưởng bởi cạnh tranh quốc tế mà chỉ số mưc giá chung phản ánh giá cả
của cả hàng hoá mậu dịch và phi mậu dịch, cho nên cần thiết phải tính mức giá
riêng cho hàng hoá mậu dịch (PT) và hàng hoá phi mậu dịch (PN)
Ta có:
PT = S x P T * ( điều kiện cạnh tranh quốc tế)
PI = α.PT + (1- α ) PN
PI* = β.PT + (1-β ). PN
Trong đó:
PI: chỉ số giá chung nội điạ
α: tỷ trọng hàng mậu dịch trong nước
PI*: chỉ số giá dùng nước ngoài
β: tỷ trọng hàng hàng mậu dịch nước ngoài
Ta có:
( thay PT =S.PT* và rút gọn cho PT)
**
*
)1(
)1(
/
NT
NT
ii
PP
PP

PP
ββ
αα
−+
−+
=








−+
−+
=
**
*
/)1(
/)1(
./
TN
TN
ii
PP
PP
SPP
ββ
αα

Hay :
TN
TN
ii
PP
PP
PPS
/)1(
/)1(
/
**
*
αα
ββ
−+
−+
==
(4)
Công thức (4) là công thức chung cho PPP đã được điều chỉnh cho cả hàng
hoá mậu dịch và phi mậu dịch. Qua đây ta thấy, rõ ràng rằng PPP chỉ áp dụng
cho hàng hoá mậu dịch song hàng hoá phi mậu dịch cũng có ảnh hưởng tới tỷ
giá. Sự tăng giá hàng phi mậu dịch trong nước sẽ dẫn tới sự lên giá của đồng
tiền trong nước.
Mô hình này tiếp tục được Samuelson bổ sung những tư tưởng chủ đạo
vẫn được giữ nguyên.
Mặc dù mô hình PPP không đúng trong thực tế bởi các hàng rào thương
mại, chi phí vận chuyển, tính không thay thế của một số hàng hoá nhưng nó
cho ta một cái nhìn khá bản chất của tỷ giá trên thị trường hàng hoá, làm cơ
sở cho nhiều mô hình khác. Hạn chế lớn nhất của mô hình nàylà chưa đề cập
đến thị trường vốn ( các chu chuyển về tài sản)

2.2-/ Mô hình lý thuyết đàn hồi:
Mô hình này do Robinson đề xướng năm 1947 nhằm giải quyết mối quan
hệ giữa tỷ giá-độ nhạy của hoạt động xuất nhập khẩu với giá cả.
Robinson cho rằng: Sự điều hoà trên thị trường sản phẩm quốc tế về cung
đàn hồi là không hoàn thiện. Khi có sự thặng dư trong cán cân thương mại
(Balance of Trade BOT), tỷ giá thực sẽ điều chỉnh cho đến khi BOT là cân bằng.
Sự biến động của tỷ giá thực cànglớn/ nhiều nếu cung-cầu hàng hoá càng ít co
giãn theo giá cả.
Alexander (1952), Johnson (1958) hoàn chỉnh lý thuyết này và nhấn mạnh
tính đàn hồi của xuất nhập khẩu với thu nhập, nghĩa là các biến đổi của thu
nhập tác động đến xuất nhập khẩu và những biến đổi của xuất nhập khẩu
mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào trạng thái thu nhập.
Năm 1989, 1991, Krugman bổ sung và chỉ ra rằng: Giá xuất khẩu là kém
nhạy cảm so với giá nội điạ; có tính không thể đảo ngược của đầu tư thương
mại cần thiết cho sản xuất ( ví dụ như các nước đang phát triển phải nhập
khẩu với mọi mức giá để hiện đại hoá công nghệ). Do hai đặc tính này nên sự
co giãn giữa giá cung và giá cầu sẽ giảm nhẹ. Điều đó giải trình tại sao lại có
sự biến động lớn của tỷ giá thực khi hệ thống Bretton Wood sụp đổ. Krugman
cũng chỉ ra rằng hoạt động ngoại thương đàn hồi còn phụ thuộc cả vào tốc độ
tăng trưởng.
Tóm lai, mô hình lý thuyết đàn hồi chỉ tập trung vào thị trường hàng hoá
thông qua cân bằng thương mại và đã khá thành công khi giaỉ quyết mối quan
hệ tỷ giá- độ co giãn xuất nhập khẩu theo giá.
2.3-/ Các mô hình từ cách tiếp cận tiền tệ:
Các mô hình từ góc độ tiếp cận tiền tệ tập trung xem xét mối quan hệ giữa
tỷ giá và mức cung tiền của các đồng tiền. Nó được phát triển dựa trên ba giả
thiết cơ bản như sau:
1. Vốn được tự do luân chuyển ở cả phạm vi trong, ngoài quốc gia do vậy
nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển từ tài sản này sang tài sản khác được định
danh bằng các đồng tiền khác nhau sao cho có lợi nhất

2. Sự biến động của việc định giá của giá hiện tại của tài sản chủ yếu bị
tác động bởi tỷ suất lợi tức mong đợi vì mức độ rủi ro giữa các tài sản lựa
chọn là như nhau (bỏ qua yếu tố chênh lệch rủi ro)
Ví dụ: Có hai tài sản A và B có độ rủi ro như nhau. Tỷ lệ lợi tức mong đợi
cho cả hai tài sản là 20%/năm. Giá hiện tại của A là 100, giá của B là 200.
Vậy, giá mong đợi của A, B sau một năm là
PA= 100 x (1+20%)=120
PB= 200 x (1+20%)=240
Nếu nhà đầu tư cho rằng sau một năm, giá của A là 132 chứ không phải là
100, khi đó tỷ lệ lợi tức mong đợi của A là (132-100)/100=32% thì nhu cầu A
tăng lên và giá hiện tại của A sẽ tăng dần lên đến khi tỷ lệ lợi tức mong đợi chỉ
lớn 20%, mức giá khoảng 120 ((132-110)/110 = 20%)
3. Điều kiện ngang bằng lãi suất dù tình giữa các đồng tiền (Uncovered
Interest Parity- UIP) thể hiện qua công thức sau:
d( ∆S) = i - i*
Trong đó: d( ∆S): tỷ lệ giảm giá đồng nội tệ so với ngoại tệ.
i, i*: lãi suất đồng nội tệ, ngoại tệ.
Nghĩa là, tỷ lệ phá giá dự kiến của đồng nội tệ, ngoại tệ ngang bằng với
chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại tệ (i- i*). Tỷ giá sẽ biến động sao
cho tỷ lệ lợi tức mong đợi tài sản bằng đồng nội tệ và ngoại tệ là ngang bằng
nhau.
Ví dụ: một nhà đầu tư đầu tư vào tài sản A định giá bằng GBP trị giá GBP
1000, lãi suất mong đợi là 10%/năm. Tức là sau một năm giá trị của A là
1000(1+10%)= 1100GBP. Tỷ giá hiện tại giữa USD và GBP là S GBP/USD = 0,5 (
cần 0,5 GBP để đổi lấy 1 USD). Như vậy, nhà đầu tư có thể đầu tư một tài sản B
bằng USD là 4%/ năm (ít hơn 6% so với lãi suất GBP) thì sau một năm, tài sản
B có giá trị 2000(1+4%)= 2080 USD. Theo lý thuyết ngang bằng lợi tức mong
đợi thì tỷ giá GBP/USD sẽ ở mức sao cho trị giá 2080 USD ngang giá với 1100
GBP, tức là S GBP/USD = 1100/2080 =0,53. Như vậy, đồng GBP giảm giá: 0,53
-0,5)/0,5 =6% ngang bằng chênh lệch lãi suất 10%-4%=6%.

Dựa trên ba giả thiết trên, hướng tiép cận tiền tệ đưa ra ba mô hình xác
định tỷ giá như sau:
2.3.1. Mô hình giá cả linh hoạt
Vì giá cả là linh hoạt nên ta thấy quy luật PPP được duy trì liên tục tức là
S = P/P*⇔ Log S =logP - log P* ⇔ s = p - p* (6)
Mô hình này sử dụng hàm cầu tiền nội địa thông thường như sau:
m - p = αy- βi (7)
Trong đó:
m: log (cơ số tiền nội địa)
p: log(mức giá chung nội đia)
y: log(thu nhập thực tế trong nước)
i: lãi suất danh nghĩa trong nước.
Tương tự, ta có hàm cầu tiền ngoại tệ như sau:
m* - p* = αy* - βi* (8)
Trong đó:
m*: log(cơ số tiền nước ngoài)
p*: log(mức giá chung ngoại tệ)
y*: log(thu nhập thực tế nước ngoài)
i*: lãi suất danh nghĩa ngoại tệ.
Từ (7)-(8) ta có:
p -p* = (m-m*)- α (y -y*)+β (i- i*) (9)
Theo (5) ta có S= p- p*, nên (9) thành:
.s = (m-m*)-α (y -y*) + β (i-i*) (10)
Như vậy, theo phương trình này: ba nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá là:
tương quan mức tiền cơ sở (m-m*), tương quan thu nhập thực tế (y- y*),
tương quan lãi suất (i-i*).
Với các điều kiện khác không đổi thì: sự tăng lên của lãi suất danh nghĩa
đồng nội tệ sẽ dẫn tới sự giảm giá đồng nội tệ; sự tăng lên của thu nhập thực
tế nội địa sẽ dẫn tới sự lên giá của đồng nội tệ; sự tăng lượng tiền cơ sở (tăng
cung tiền)sẽ dẫn tới giảm giá đồng nội tệ.

Mặt khác ta cũng có:
s = p- p* (PPP được duy trì liên tục)
nên ∆s = ∆p -∆p*⇔ d(∆s) =d(∆p) -d(∆p*) (11)
Công thức (11) nói rằng, sự giảm giá của đồng nội tệ ngang bằng với
chênh lệch lạm phát giữa đồng nội tê, ngoại tệ (d(∆p) -d(∆p*))
Trong điều kiện UIP ta cũng có:
d(∆s) = i- i* (12)
Từ (11) và (12) ta có: (i- i*) =( d(∆p) -d(∆p*) (13)
Thay vào (10) ta có:
s= (m-m*)-α (y -y*) + β (d(∆p) -d(∆p*)) (14)
Công thức (14) chỉ rõ ảnh hưởng của lạm phát đối với tỷ giá. Khi tỷ lệ
lạm phát của đồng nội tệ tăng, đồng nội tệ sẽ bị mất giá.
2.3.2. Mô hình giá cả cố định.
Mô hình này cho rằng, trong ngắn hạn giá cả và tiền lương là tương đối
ổn định, nhưng tỷ giá thì vẫn linh hoạt. Do vậy, khi có sự tăng mức cung tiền, tỷ
giá sẽ đột ngột tănglên vượt qua mức cân bằng PPP và sau đó giảm dần xuống
do sự điều chỉnh dần dần của giá cả, đưa tỷ giá về trạng thái cân bằng PPP
mới. Như vậy, Dombusa không cho rằng PPP được đảm bảo trong ngắn hạn
nhưng được duy trì trong dài hạn. Do vậy, trong dài hạn ta có:
s
l
= p- p*, trong đó s
l
=log(tỷ giá dài hạn) (15)
Trong dài hạn, sự lên xuống tỷ giá triệt tiêu lẫn nhau, do đó:
d(∆s) =0, tức là i -i* =0. Do vậy, tỷ giá dài hạn chỉ phụ thuộc mức cung tiền
và sản lượng, không phụ thuộc lãi suất, tức là:
s
l
= (m-m*)-α (y -y*) (16)

Trong ngắn hạn, sự thay đổi của tỷ giá tuỳ thuộc vào tốc độ điều chỉnh
S2
S*
t1
t
S
S1
i
( a, a>0) của tỷ giá trở về trạng thái cân bằng PPP. Do đó, ta có:
d(∆S) = i -i* ( trong ngắn hạn) nên:
i -i* = -a (s - s
l
) ⇔ s = s
l
-1/a (i -i*) (17)
Thay (16) vào ta có:
s = (m-m*)-α (y -y*) - 1/a (i -i*)
Như vậy, theo mô hình này, sự tăng lãi suất trong ngắn hạn, dẫn đến sự
tăng giá đồng nội tệ, ngược lại so với mô hình giá cả linh hoạt.
Mô hình Dornburch còn có thể được mô tả đơn giản qua sơ đồ như sau:
(Biểu đỏ ở trang sau)
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy như sau:
- Tại thời điểm trước t1, các yếu tố cân bằng nhau: S1 tương ứng với M1,
i1, P1. Tại thời điểm t1, khi có sự tăng cung tiền ( M1→ M2) thì:
- Trongngắn hạn, do giá cả cố định nên nhà đầu tư có xu hướng muốn giữ
tiền( đầu cơ), làm lãi suất giảm từ i1→i2 dẫn đến tỷ giá tăng mạnh từ S1→S2.
- Trong dài hạn, do lãi suất thấp, nhà đầu tư đầu cơ, nhu cầu hàng hoá
tăng dẫn tới giá tăng dần dần lên đến P2. ở thị trường tiền tệ, do giá ở thị
trường hàng hoá tăng dẫn tới lãi suất tăng dần và tỷ giá cũng giảm dần đến S*
là mức cần bằng dàihạn mới:

s* =( m2-m)-α (y -y*)
i1
0
t1
M
0
P (møc gi¸)
A
M
M
G
G
S (tû gi¸)
PPP
45o
Qua mô hình Dornbush, cho phép ta tìm đến được một sự cân bằng ở trên
cả thị trường hàng hoá, tiền tệ trong dài hạn (xem biểu đồ)
Trongđó:
* PPP là đường tỷ giá cân bằng dàihạn, nó nói lên rằng khi giá tăng lên x
% thì về dài hạn, tỷ giá cũng tăng lên x%
* MM là đường cân bằng thị trường tiền tệ. Các điểm thuộc MM diễn tả sự
cân bằng trên thị trường tiền tệ ứng với P và S nhất định. Phương trình cảu
MM được thiết lập như sau:
Ta có: m - p =α y -β i
( Khi đó cân bằng tiền tệ ta có MS =MD), hay:
i = 1/ β( p- m - αy)
Mà s = s
l
- 1/a.(i -i*), nên:
. s = s

l
- 1/a β .(-m+p- αy-βi*)
. s =- 1/a β .P + s
l
- 1/a β .(m - αy-βi*) (20)
0
P
M2
M2
G2
G2
PPP
45o
M1
A
M1
G1
G1
P2
C
P1
S1 S*2 S'2
S
* GG là đường diễn trả sự cân bằng thị trường hàng hoá ứng với mức giá
và tỷ giá khác nhau. Đường này được lập lên từ giả thiết:
Tỷ lệ lạm phát = c(d - y), trong đó d= log(tổng cầu), y= log( tổng cung), c
là cơ số tỷ lệ. Đường GG cho rằng: sự giảm giá của đồng nội tệ (tỷ giá tăng)
dẫn tới sự tăng cầu xuất khẩu và sự tăng lên này sẽ dẫn tới sự tăng giá. Nhưng
sự tăng giá hàng hoá lại dẫn tới tăng lãi suất, trong dài hạn, sự tăng lãi suất
lại làm giảm cầu và làm giảm bớt sự tăng giá hàng hoá. Do đó, giá tăng ít hơn

so với tỷ giá. ở bên trên đường GG sẽ là những điểm dư cung, dưới GG là điểm
dư cầu.
Trên đồ thị ta thấy, A là điểm giao của PPP,GG,MM, nó là điểm cân bằng
thị trường hàng hoá, tiền tệ về dài hạn. Qua biểu đồ này ta có thể diễn tả quá
trình tác động của việc mở rộng cơ số tiền tệ như sau:
- Khi tăng cơ số tiền tệ, M1M1→ M2M2.Do giá cố định nên tỷ giá dịch từ
S1→S2. Sau đó, do sự tăng giảm giá đồng nội tệ dẫn đến tăng giá hàng hoá
G1G1→G2G2 cho đến khi đạt đến trạng thái cân bằng C. (điểm cân bằng A→C)
2.3.3. Mô hình chênh lệch lãi suất thực
Mô hình này bắt đầu tư phương trình:
m- m* = (p -p*) + α(y- y*) -β ( i- i*) (21)
Trong điều kiện UIP ta có:
d( ∆s) = i- i* (22)
Mô hình giả rằng, tỷ lệ giảm giá (d( ∆s)) là một hàm số của chênh lệch tỷ
giá hiện tại với tỷ giá trung bình dài hạn và chênh lệch lạm phát của hai đồng
tiền. Tức là:
d( ∆s) = -a( S- SL) +(r -r*)
Trong đó: SL: log(tỷ giá trung bình dài hạn)
a: tốc độ điều chỉnh
r, r*: tỷ lệ lạm phát của đồng nội, ngoại tệ.
Kết hợp (22), (23) ta có:
i- i*= -a( s- s
l
) +(r -r*)
s- s
l
= -1/a.[ (i- r) -(i*-r*)]
s= s
l
-1/a.[ (i- r) -(i*-r*)] (24)

Trong dài hạn ta có:
s
l
= (m- m*) - α (y-y*) +β( r-r*) (25)
Vì i- i* =r- r* ( các biến động lãi suất thực triệt tiêu)
Thay (25) vào (24) ta có:
.s =(m- m*) - α (y-y*) +β( r-r*)-1/a.[ (i- r) -(i*-r*)] (26)
Công thức (26) cho thấy tỷ giá bị ảnh hưởng bởi chênh lệch lãi suất thực
giữa hai đồng tiền. .[ (i- r) -(i*-r*)]; sự tăng lên của lãi suất thực đồng nội tệ sẽ
dẫn đến sự lên giá của đồng nội tệ trong ngắn hạn.
Tóm lại, trong cách tiếp cận tiền tệ, ta có một số nhận xét như sau:
- Các mô hình tập trung giải quyết mối quan hệ cung cầu tiền nội, ngoại
tệ- tỷ giá. Rõ ràng rằng, tỷ giá là giá của tiền nên nó chịu sự tác động của khối
lượng tièn tệ, tỷ giá là một hiện tượng tiền tệ.
- Các mô hình tiền tệ đều dựa trên PPP về dài hạn.
- Qua các mô hình cũng có thể thấy được tác động của các nhân tố như
thu nhập quốc dân, lạm phát, lãi suất thực, danh nghĩa lên tỷ giá nhưng
thôngqua việc nó liên hệ trực tiếp tới khối lượng tiền tệ:
(m = p +α y -β i)
- Mô hình tiền tệ đã bỏ qua sự lựa chọn tài sản khác nhau do tính rủi ro
của mỗi loại khác nhau ( điều kiện 2: No premium risk). Nó cũng chưa giải
thích tình trạng tài khoản vãng lai tác động như thế nào lên tỷ giá.
2.4-/ Các mô hình tiếp cận từ thị trường tài sản:
Mô hình tiền tệ đã bỏ qua sự khác nhau giữa độ rủi ro của các tài sản, do
đó đã không cho thêm tỷ lệ lợi tức yêu cầu phụ trội trong tỷlệ lợi tức mong đợi.
Trong cácmô hình tài sản, vấn đề này được đề cập đến qua công thức:
i -i* = d(∆ s) + PR (27)
Trong đó:
i, i* là lãi suất danh nghĩa ( tỷ lệ lợi tức mong đợi) của đồng nội, ngoại tệ.
d(∆ s) : tỷ lệ giảm giá đồng nội tệ

PR: tỷ lệ lợi tức yêu cầu thêm do chênh lệch rủi ro giữa tài sản định giá
bằng đồng nội tệ và ngoại tệ.
Có nghĩa là:
- Độ rủi ro của tài sản nội tệ và ngoại tệ phả được nhận thức và định mức
độ, có sự khác nhau giữa hai mức độ rủi ro này.
- Nhà đầu tư không thích rủi ro và luôn đòi hỏi phần lợi bù đắp cho rủi ro
đó. Họ luôn muốn tối thiểu hoá rủi ro.
Trong mô hình này, tác giả quan niệm rủi ro gồm có rủi ro do đồng tiền
(lạm phát thay đổi, tỷ giá thay đổi) và rủi ro do quốc gia ( rủi ro chính trị, can
thiệp chính phủ..)
Mô hình tiền tệ cũng bỏ qua sự biến động củ tài khoản vãng lai tác động
lên tỷ giá. Ở đây, chúng ta sẽ cần nhắc đến vấn đề này thông qua việc tìmhiểu
xem các hoạt động can thiệpcủa chính phủ lên tỷ giá có tác động nhưthế nào.
Các hoạt động can thiệp chủ yếu được đề cậpở đây gồm: OMO (Open Market
Operation): nghiệp vụ thị trường mở, SFXO( Sterilised Foreign Exchange
Operation): nghiệp vụ can thiệp ổn định và FXO. OMO là nghiệp vụ mà Chính
phủ mua bán các tráiphiếu định giá bằng nội tệ, nó làm biến động lượng tiền
cơ sở (M).
FXO là nghiệp vụ mà Chính phủ mua, bán các trái phiếu được định giá
bằng ngoại tệ, làm thay đổi lượng tiền cơ sở và số lượng tài sản bằng ngoại tệ
Sự biến động tổng tài sản
Lãi suất/ tỷ giá thay đổi Sự biến động tổng tài s¶n
Đầu ra thay đổi
Thay đổi về tài sản bằng ngoại tệTài khoản vãng lai thay đổi
trong nước. SFXO là nghiệp vụ kết hợp OMO và FXO bằng cách đồng thời thực
hiện hai nghiệp vụ OMO, FXO đối nghịch, ví dụ như: bán trái phiếu nội tệ thì sẽ
mua trái phiếu ngoại tệ. Do đó lượng tiền cơ sở không thay đổi, chỉ thay đổi
cấu trúc tài sản giữa đồng nội tệ và ngoại tệ.
Mô hình tiếp cận từ góc độ tài sản được phát triển bởi nhiều nhà kinh tế
tiền tệ. Các mô hình dựa trên cơ chế tác động như sau:

Sơ đồ 1:
Trong số các mô hình đưa ra, có một mô hình đáng được chủ ý là mô hình
áp dụng cho các quốc gia nhỏ. Mô hình này dựa trên giả thuyết là quốc gia
đang xét nhỏ đến mức mà sự thay đổi tièn tệ của nó không dẫn đến phản ứng
của các quốc gia khác. Mô hình này được tiến hành lần lượt như sau:
Thị trường có thể chia thành hai bộ phận là chính phủ và các cá nhân. Mỗi
bên có thể giữ : tiền mặt (M), trái phiếu bằng nội tệ(B) và trái phiếu bằng
ngoại tệ(F). Chính phủ không qun tâm tới sự lỗ lãi của hoạt động can thiệp mà
chỉ thực thi các can thiệp chức năng. Ta quan tâm hơn tới giới tư nhân và
tỏng của từngloại tài sản. ở đây ta có: B =Bp +Ba
B: Tổng số trái phiếu bằng nội tệ hiện có
Bp: Số trái phiếu nội tệ tư nhân giữ.
Ba: Số trái phiế nội tệ do Chính phủ giữ
F =Fp + Fa
F: Tổng số trái phiếu ngoại tệ hiện có
Fp: Số trái phiế ngoại tệ tư nhân giữ

×