Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số vi rút ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.58 KB, 9 trang )

Nghiên cứu một số chỉ số vi rút ở bệnh nhân
Bệnhviêm
việngan
Trung
vi rút
ương
B mạn
Huế

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ VI RÚT
Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN
Nguyễn Thị Huyền Trang1, Tôn Thất Ngọc1,
Phan Bá Thành , Trần Quang Trung1, Trần Thị Phương Anh1
1

DOI: 10.38103/jcmhch.2019.58.16

TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm chung và kết quả chỉ số vi rút ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, 52 bệnh nhân mắc bệnh viêm gan vi rút B mạn
điều trị tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ 5/2018 đến 5/2019.
Kết quả: Viêm gan B thường gặp ở độ tuổi từ 15-40(46,2%); Nam giới 44,2%, nữ giới 55,8%; tỷ lệ cao
nhất gặp ở nhóm lao động chân tay (46,2%); thời gian phát hiện bệnh chủ yếu sau > 2-5 năm (53,8%); không
có bệnh nhân nào mất HBsAg trong thời gian điều trị 3 tháng, 6 tháng; tất cả bệnh nhân được xét nghiệm định
lượng DNA đều có HBV DNA trong huyết thanh, có sự thay đổi về lượng HBV DNA qua hai lần xét nghiệm.
Kết luận: Viêm gan vi rút B là một nhóm bệnh truyền nhiễm rất phổ biến và nguy hiểm, nếu bệnh được
phát hiện kịp thời và được điều trị theo phác đồ thì có thể khỏi khi thực hiện theo hướng dẫn của bác sỹ
chuyên khoa.
Từ khoá: Viêm gan vi rút B.

ABSTRACT


RESEARCH VIRUS INDEXS IN PATIENTS WITH CHRONIC HEPATITIS B

Nguyen Thi Huyen Trang1, Ton That Ngoc1,
Phan Ba Thanh , Tran Quang Trung1, Tran Thi Phuong Anh1
1

Objectives: Describes the general characteristics and results of the virus index in patients with chronic
hepatitis B.
Subjects and methods: Research describing the study, 52 patients with hepatitis B treatment in the Hue
University Hospital of Medicine and Pharmacy, from May 2018 to May 2019.
Result: Hepatitis B is frequent at the age from 15 to 40 years old (46.2%); males 44.2%, females 55.8%; the
highest incidence is in the manual labor group (46.2%); the duration of the disease detection is mainly after 2-5
years (53.8%); no patients lose HBsAg during treatment 3 months, 6 months; all patients with DNA quantitative
tests have HBV DNA in the serum, with a change in HBV DNA intake through two tests.
Conclusion: Viral hepatitis B is a very common and dangerous group of infectious diseases, if the disease
is detected promptly and is treated according to the regimen, it may be recovered from the instruction of the
speciality doctor.
Keywords: viral hepatitis B.
1. Bệnh viện TW Huế

104

- Ngày nhận bài (Received): 05/11/2019; Ngày phản biện (Revised): 19/11/2019
- Ngày đăng bài (Accepted): 10/12/2019
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Thị Huyền Trang
- Email: ; ĐT: 0905 818 609

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019



Bệnh viện Trung ương Huế
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm gan vi rút B (VGVR B) là bệnh truyền nhiễm
quan trọng, phổ biến toàn cầu, do vi rút viêm gan
B (HBV) gây ra. HBV có thể gây viêm gan tối cấp,
viêm gan cấp và viêm gan mạn, tiến triển thành xơ
gan, ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Số ca nhiễm
mới mỗi năm là khá cao, khoảng 10 triệu người, số
người bệnh nhiễm trùng mạn tính hiện nay cũng vào
khoảng 300 triệu người, và số tử vong mỗi năm ước
tính khoảng 600.000 người [9]. Thuốc để ức chế sự
nhân lên của vi rút có sẵn nhưng việc điều trị ít khi
đạt được kết quả mong muốn [10]. Các xét nghiệm
trong chẩn đoán và theo dõi điều trị VGVR B giữ
vai trò quan trọng trong chẩn đoán nguyên nhân và
giúp ích trong chỉ định điều trị. Theo AASLD, một
số định nghĩa trong đáp ứng điều trị về sinh hóa, về
vi rút học thì giảm nồng độ HBV DNA huyết thanh
đến mức không xác định được bằng phương pháp
PCR và mất HBeAg và đáp ứng hoàn toàn khi có
đầy đủ các tiêu chuẩn về sinh hóa, đáp ứng vi rút
và mất HBsAg [4]. Do đó, việc phát hiện và theo
dõi các chỉ số vi rút và nồng độ enzym gan, đặc biệt
trong VGVR B mạn là rất cần thiết, vì vậy chúng tôi
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số chỉ số vi rút
và enzym gan ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn”
với những mục tiêu: Mô tả đặc điểm chung và khảo
sát kết quả xét nghiệm các chỉ số vi rút ở bệnh nhân
viêm gan vi rút B mạn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 52 bệnh nhân được
chẩn đoán VGVR B mạn đến khám, xét nghiệm và
theo dõi điều trị ở Bv Trường ĐH Y Dược Huế từ
tháng 05/2018- 05/2019.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
- HBsAg (+) 2 lần cách nhau tối thiểu 6 tháng.
- Hoạt độ ALT tăng trên 2 lần giới hạn bình
thường
- HBV DNA > 105 copies/mL đối với bệnh nhân
viêm gan B mạn HBeAg dương tính

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019

HBV DNA > 104 copies/mL đối với bệnh nhân
viêm gan B mạn HBeAg âm tính
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Anti HCV (+) hoặc IgM anti HAV (+)
- Nghiện rượu mạn không cai được, Xơ gan
- Có dùng thuốc hại cho gan trong vòng 6 tháng
trước đó
2.1.3. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả
tiến cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thu thập số liệu
- Khai thác thông tin hành chính, lý do vào viện,
quá trình bệnh lý, tiền sử bệnh, gia đình.
- Ghi nhận các triệu chứng lâm sàng dựa trên
chẩn đoán bệnh của bác sĩ điều trị.
- Lấy máu làm xét nghiệm: Định lượng HBV

DNA, AST, ALT và các xét nghiệm theo dõi kháng
nguyên vi rút gồm HBsAg, HBeAg.
- Mẫu máu được lấy vào các lần theo dõi định kỳ
của bệnh nhân.
2.2.2. Xét nghiệm
- HBsAg và HBeAg: kỹ thuật miễn dịch điện
hóa phát quang ECLIA, thực hiện trên máy Cobas
6000, tại Trường Đại học Y Dược Huế.
- Định lượng HBV DNA: sử dụng kỹ thuật
PCR. Bộ kit chiết tách theo phương pháp PhenolChloroform.
Các xét nghiệm này được thực hiện theo dõi định
kỳ của bệnh nhân: 3, 6 tháng.
2.3. Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phần
mềm SPSS 20.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân VGVR
B mạn
3.1.1. Phân bố theo tuổi và giới: Trong nhóm
bệnh nhân nghiên cứu, có 23 nam (44,2%), 29
nữ (55,8%). Có 24 bệnh nhân trong nhóm 15-40
tuổi (46,2%), 18 bệnh nhân trong nhóm > 40-55
tuổi (34,6%), 10 bệnh nhân trong nhóm > 55 tuổi
(19,2%). Tuổi trung bình là 41,7 ± 15,1 (năm).

105


Nghiên cứu một số chỉ số vi rút ở bệnh nhân
Bệnhviêm
việngan

Trung
vi rút
ương
B mạn
Huế
3.1.2. Đặc điểm về nghề nghiệp
Bảng 3.1. Đặc điểm về nghề nghiệp
Nghề nghiệp

Số lượng

%

Lao động chân tay

24

46,2

Buôn bán

10

19,2

Cán bộ viên chức

8

15,4


Sinh viên, học sinh

5

9,6

Khác

5

9,6

Tổng số

52

100,0

Nhận xét: Những bệnh nhân lao động chân tay chiếm tỷ lệ cao nhất (46,2%) với 24 bệnh nhân trong số
52 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu.
3.1.3. Đặc điểm về thời gian phát hiện bệnh
Bảng 3.2. Đặc điểm về thời gian phát hiện bệnh
Thời gian phát hiện

Số lượng

%

6 tháng-1 năm


6

11,5

>1-2 năm

8

15,5

> 2-5 năm

28

53,8

> 5 năm

10

19,2

Tổng số

52

100,0

Nhận xét: Nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện cách thời gian khảo sát > 2-5 năm chiếm tỷ lệ cao

nhất (53,8%).
3.1.4. Lý do phát hiện bệnh
Bảng 3.3. Lý do phát hiện bệnh
Lý do phát hiện

Số lượng

%

Kiểm tra sức khỏe

38

73,1

Kiểm tra máu để tiêm chủng
HBV

9

17,3

Bị viêm gan

4

7,7

Sốt nên đi khám


1

1,9

Tổng số

52

100,0

Nhận xét: Lý do chiếm tỷ lệ cao nhất 73,1% (38 bệnh nhân) là lúc bệnh nhân đi kiểm tra sức khỏe, và tỷ
lệ thấp nhất là 1,9% (1 bệnh nhân) bệnh nhân bị sốt nên đi khám.

106

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019


Bệnh viện Trung ương Huế
3.1.5. Đặc điểm về các yếu tố liên quan đến nhiễm vi rút viêm gan B

Biểu đồ 3.1. Các yếu tố liên quan đến nhiễm vi rút viêm gan B
Hầu hết bệnh nhân VGVR B mạn đều không rõ về những yếu tố liên quan dẫn đến nhiễm vi rút viêm
gan B.
3.1.6. Đặc điểm về tiền sử gia đình
Bảng 3.4. Đặc điểm về tiền sử gia đình
Có người thân trong gia đình

Số lượng


%

Bị nhiễm vi rút viêm gan B

15

28,8

Không bị nhiễm vi rút viêm gan B

37

71,2

Tổng số

52

100,0

Tỷ lệ bệnh nhân có người thân trong gia đình không bị VGVR B là 71,2% (37) cao hơn số bệnh nhân có
người thân trong gia đình bị VGVR B là 28,8% (15 bệnh nhân).
3.1.7. Đặc điểm về triệu chứng lâm sàng

Biểu đồ 3.2. Đặc điểm về triệu chứng lâm sàng
Mệt mỏi là triệu chứng phổ biến nhất trong VGVR B mạn (54%).

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019

107



Nghiên cứu một số chỉ số vi rút ở bệnh nhân
Bệnhviêm
việngan
Trung
vi rút
ương
B mạn
Huế
3.2. Đặc điểm về các chỉ số vi rút ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn
3.2.1. Các dấu ấn nhiễm HBV của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.5. Các dấu ấn nhiễm HBV của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Lần
Lần 1
Lần 2
xét nghiệm
HBsAg
HBeAg
HBV DNA
HBsAg
HBeAg
Dấu ấn
(+)
(+)
(+)
(+)
(+)
Bệnh nhân


HBV DNA
(+)

N

52

35

52

52

34

29

%

100,0

67,3

100

100,0

65,4

55,7


Tất cả 52 bệnh nhân nhiễm HBV có HBsAg (+) ở cả hai lần xét nghiệm thì ở lần xét nghiệm thứ nhất
đều có DNA dương tính (100%) và chỉ có 67,3% có HBeAg (+), ở lần xét nghiệm thứ 2 chỉ có 55,7% HBV
DNA dương tính và 65,4% HBeAg (+).
3.2.2. Đặc điểm chỉ số HBeAg qua hai lần xét nghiệm
Bảng 3.6. Đặc điểm chỉ số HBeAg qua hai lần xét nghiệm
Lần 1

Chỉ số HBeAg

Lần 2

Số lượng

%

Số lượng

%

HBeAg dương tính

35

67,3

34

65,4


HBeAg âm tính

17

32,7

18

34,6

Tổng

52

100,0

52

100,0

Ở lần xét nghiệm thứ nhất tỷ lệ HBeAg (+) là 67,3% (35 bệnh nhân), HBeAg âm tính là 32,7% (17 bệnh
nhân), ở lần xét nghiệm thứ hai tỷ lệ HBeAg (-) giảm còn 65,4% (34 bệnh nhân), tỷ lệ HBeAg (-) tăng lên
34,6% (18 bệnh nhân).
3.2.3. Đặc điểm về lượng HBV DNA
Bảng 3.7. Đặc điểm về lượng HBV DNA
Số lượng bản
sao DNA/ml

Lần 2


Lần 1
Số
lượng

%

> 108 đến 1010

8

> 106 đến 108

Trung
bình

Số
lượng

%

15,4

0

0

24

46,2


2

3,8

> 104 đến 106

19

36,5

3

5,8

> 3x102 đến 104

1

1,9

21

40,4

Dưới ngưỡng
(≤ 3x102)

0

_


7

13,5

Âm tính

0

_

19

36,5

Tổng

52

100,0

52

100,0

6,7x107

Trung
vị


4,3x106

Trung
bình

p
Trung
vị

1,4 x 106 262,8

0,005

Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,005) về tỷ lệ giảm số bản copy của virus viêm
gan B trong máu qua 2 lần theo dõi.

108

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019


Bệnh viện Trung ương Huế
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân VGVR
B mạn
4.1.1. Tỷ lệ VGVR B mạn phân bố theo tuổi,
giới: Cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội thì
nhận thức của con người ngày càng cao và bệnh tật
thường được đẩy lùi nhờ tuyên truyền dịch tễ cũng
như các biện pháp phòng chống và điều trị có hiệu

quả, nhất là với bệnh VGVR B. Sự ra đời của các loại
vắc xin hữu hiệu, kết hợp các loại thuốc kháng vi rút
hiện có là các yếu tố đóng góp quan trọng trong sự
đẩy lùi bệnh VGB. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy, tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
VGVR B là 41,7 ± 15,1 tuổi, Kết quả này tương tự
kết quả của tác giả Ibtehaj Alharbi1 và cs trên 133
bệnh nhân có thời gian theo dõi trung bình là 4 năm
có tuổi trung bình là 45,2 ± 14,4 tuổi. VGVR B mạn
có thể gặp ở cả hai giới nam và nữ. Trong đó, tỷ lệ
nữ giới là 55,8%, tỷ lệ nam giới là 44,2%. Trong khi
đó, tỷ lệ VGVR B mạn ở nam lại cao hơn nữ trong
một nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Nguyên
Huyền và cs (2015) với tỷ lệ nam là 74,4% và nữ là
25,6% [8], hay trong nghiên cứu về đáp ứng lâm
sàng, sinh hóa và vi rút sau 12 tháng điều trị tenofovir
trên bệnh nhân viêm gan B mạn tính với tỷ lệ nam
giới là 61,3%, tỷ lệ nữ là 38,7% theo nghiên cứu của
Trần Văn Huy và cs (2012) [7].
4.1.2. Đặc điểm về nghề nghiệp: Khi phân tích
tỷ lệ bệnh nhân VGVR B mạn theo nghề nghiệp
cho thấy nghề nghiệp có tỷ lệ cao nhất là lao động
chân tay (46,2%). Kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Đức Cường với tỷ lệ nhiễm
HBsAg cao ở nhóm đối tượng có trình độ học vấn
thấp (17,34%), nhóm có trình độ học vấn cao chiếm
tỷ lệ thấp (7,63%) [2]. Theo chúng tôi thì điều kiện
kinh tế và sự hiểu biết về hậu quả của nhiễm vi rút
viêm gan B có ảnh hưởng tới ý thức phòng bệnh của
các đối tượng này.

4.1.3. Đặc điểm về thời gian phát hiện: Đa số
bệnh nhân đến khám và điều trị bệnh VGVR B mạn
có thời gian phát hiện kéo dài. Kết quả này tương tự

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019

kết quả của tác giả Lê Văn An, với tỷ lệ phát hiện
bệnh cao nhất là từ trên 2 năm đến 5 năm chiếm
36,8%, tỷ lệ thấp nhất là thời gian phát hiện ngắn
từ 6 tháng đến dưới 1 năm chỉ chiếm 3,5% [1]. Với
tình hình quản lý viêm gan vi rút nước ta còn nhiều
hạn chế cộng với ý thức người dân chưa cao trong
kiểm tra chăm sóc sức khỏe dẫn đến việc phát hiện
muộn VGVR B.
4.1.4. Đặc điểm về lý do phát hiện bị VGVR B
mạn: Về phương diện lâm sàng thì VGVR B thường
có triệu chứng không điển hình, âm thầm, nhẹ nhàng,
không có triệu chứng hoặc chỉ hơi mệt, chán ăn, khó
chịu hạ sườn phải, vàng da kín đáo, tiểu vàng… Kết
quả của chúng tôi thu được ở Bảng 3.3 cho thấy đa
số bệnh nhân VGVR B phát hiện lúc đi kiểm tra sức
khỏe (73,1%), hay lúc đi kiểm tra máu để tiêm chủng
HBV (17,3%), chỉ rất ít bệnh nhân có triệu chứng
như sốt (1,9%) hay các biểu hiện khác, điều này phù
hợp với diễn tiến của bệnh [5].
4.1.5. Đặc điểm về các yếu tố liên quan: Có
nhiều yếu tố liên quan đến nhiễm vi rút viêm gan
B, trong đó tỷ lệ cao nhất 71,2% những bệnh nhân
được hỏi cho rằng không rõ về điều này. Theo Hauri
thì trên toàn thế giới, người ta cho rằng 21 triệu ca

nhiễm HBV hàng năm (khoảng 32% ca nhiễm mới)
là kết quả của sự ô nhiễm trong việc tiêm truyền.
Theo Jafari năm 2012, một phân tích tổng hợp của
32 nghiên cứu cũng cho thấy nguy cơ nhiễm HBV
tăng lên ở những người có tiền sử xăm hình. Ngoài
ra, ở nhiều châu Á các nước Thái Bình Dương, tái
sử dụng dao cạo râu trong tiệm hớt tóc để giảm chi
phí không phải là hiếm. Vì vậy, giáo dục công chúng
về rủi ro này và hướng dẫn cho người dân về thực
hành an toàn là điều cần thiết.
4.1.6. Đặc điểm về tiền sử gia đình: Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân
bị VGVR B có tiền sử gia đình mắc bệnh là 28,8%
thấp hơn tỷ lệ bệnh nhân không có tiền sử gia đình
mắc bệnh là 71,2% (Bảng 3.4).
4.2. Một số biểu hiện lâm sàng: Số lượng bệnh
nhân có biểu hiện mệt mỏi chiếm tỷ lệ cao trong nhóm

109


Nghiên cứu một số chỉ số vi rút ở bệnh nhân
Bệnhviêm
việngan
Trung
vi rút
ương
B mạn
Huế
nghiên cứu của chúng tôi, điều này phù hợp với nhận

xét “Mệt mỏi là triệu chứng phổ biến” [13]. Cũng
trên đối tượng là 68 bệnh nhân VGVR B mạn, tác
giả Phạm Bá Hiền cũng có kết quả các triệu chứng
lâm sàng của bệnh nhân này như sau: mệt mỏi
(77,78%), tiểu vàng (47,22%), đau hạ sườn phải
(41,67%). Kết quả trên có tỷ lệ khá cao so với kết
quả của chúng tôi [3].
4.3. Sự thay đổi các chỉ số vi rút ở bệnh nhân
VGVR B mạn
4.3.1. Về các dấu ấn nhiễm HBV của nhóm bệnh
nhân nghiên cứu: Tất cả 52 bệnh nhân nghiên cứu
đều có HBsAg (+) ở cả 2 lần xét nghiệm (100%). Tuy
nhiên, qua các lần theo dõi về sau một số bệnh nhân
có thể giảm lượng HBV DNA và HBsAg có thể âm
tính. Với thời gian theo dõi ngắn, chỉ từ trong khoảng
3 tháng đến dưới 1 năm, các bệnh nhân nghiên cứu
của chúng tôi chưa có bệnh nào có HBsAg trở về âm
tính, để có được điều này cần thiết phải tuân thủ điều
trị chặt chẽ kết hợp với thời gian điều trị lâu dài [4].
Có 67,3% số bệnh nhân nghiên cứu có HBeAg
(+) ở lần xét nghiệm thứ nhất, nhưng chỉ có 65,4%
bệnh nhân có HBeAg (+) ở lần xét nghiệm thứ 2. Ở
những bệnh nhân VGVR B cấp thì sự hồi phục của
bệnh đi kèm với mất HBeAg rồi đến mất HBsAg,
khi HBeAg và HBsAg kéo dài trên 6 tháng thì bệnh
chuyển qua mạn tính. Ở một số bệnh nhân VGVR
B mạn, có thể có sự xuất hiện biến chủng đột biến
tiền lõi, trong trường hợp này HBeAg không được
tổng hợp nhưng sự nhân lên của vi rút vẫn dược tiếp
tục, chứng minh bằng sự hiện diện của HBV DNA

trong huyết thanh [6]. Có 100% bệnh nhân có HBV
DNA (+) ở lần xét nghiệm thứ nhất, tỷ lệ này chỉ còn
55,7% ở lần xét nghiệm thứ 2.
Cũng đã có những minh chứng về mối liên quan
giữa các dấu ấn nhiễm HBV với mức độ biểu hiện
của bệnh. Theo Tai-Chung Tseng và cs, bệnh nhân
viêm gan B mãn tính có tải lượng virus càng cao thì
nguy cơ mắc bệnh xơ gan và ung thư biểu mô tế bào
gan càng cao. Theo đó, ở những bệnh nhân có tải
lượng virus thấp, kháng nguyên bề mặt viêm gan B

110

là HBsAg đã được chứng minh để dự đoán sự phát
triển HCC. Mối quan hệ giữa mức độ HBsAg và sự
phát triển của VGVR B có HBeAg (-), viêm gan và
xơ gan cũng đã được nghiên cứu. Và tỷ lệ viêm gan
với HBeAg (-) cũng đã giảm xuống 1,1% ở những
bệnh nhân có nồng độ HBV DNA thấp.
4.3.2. Về đặc điểm chỉ số HBeAg qua hai lần
xét nghiệm theo dõi: Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy trong 52 bệnh nhân thuộc nhóm
nghiên cứu ở lần xét nghiệm thứ nhất có 35 bệnh
nhân có HBeAg (+), chiếm 67,3%, 17 bệnh nhân
có HBeAg (-), chiếm 32,7%; ở lần xét nghiệm thứ
hai đã có sự thay đổi về số lượng HBeAg (+) là 34
bệnh nhân chiếm tỷ lệ 65,4%, HBeAg (-) là 18 bệnh
nhân chiếm tỷ lệ là 34,6%. Kết quả này tương tự với
nghiên cứu của Lê Văn An và cs với tỷ lệ HBeAg (+)
là 85,7% [1]. Theo Phan Từ Khánh Phương và cs thì

tỷ lệ HBeAg (+) là 45,9%, HBeAg (-) là 54,1% [8].
Dù các kết quả có khác nhau nhưng có thể thấy tỷ
lệ VGVR B mạn có HBeAg (-) là khá cao. Đối với
thông số HBeAg trong số bệnh nhân theo dõi cho
thấy ít có thay đổi qua 2 lần xét nghiệm. Sự thay đổi
từ dương tính chuyển qua âm tính chỉ thấy ở 1 bệnh
nhân có lượng DNA máu thấp với lượng HBV DNA
máu lần đầu có nồng độ 8,07 x 104 bản sao/ml, bệnh
nhân này dùng liệu trình Usatenvir 300 300mg và
sau đó chuyển qua SaVi Tenofovir 300 300mg và xét
nghiệm theo dõi vào 6 tháng sau HBV DNA trở về
dương tính dưới ngưỡng.
4.3.3. Về lượng HBV DNA của lần xét nghiệm
thứ nhất: Lượng HBV DNA xét nghiệm lần thứ nhất
có ý nghĩa giúp bác sĩ lâm sàng quyết định điều trị
kháng vi rút, và đó cũng là thông số giá trị làm quy
chiếu để so sánh khả năng đáp ứng điều trị kháng
vi rút trong những xét nghiệm theo dõi được thực
hiện trong các thời điểm sau đó. Trong nghiên cứu
thực hiện định lượng HBV DNA trên 52 bệnh nhân
VGVR B mạn, kết quả có 100% bệnh nhân HBV
DNA (+). Điều này cho thấy ở tất cả bệnh nhân bị
viêm gan mạn này đang có vi rút HBV nhân lên với
các mức độ khác nhau. Với các tỷ lệ của các nhóm

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019


Bệnh viện Trung ương Huế
có lượng HBV DNA khác nhau như vậy đã phản ánh

rằng ở lần định lượng HBV DNA thứ nhất lượng
HBV DNA trong máu của các đối tượng nghiên cứu
thay đổi và phân bố trong một giới hạn khá rộng từ
trên 102 đến 1010 bản sao/ml máu. Do các đối tượng
bệnh nhân của chúng tôi không được theo dõi chặt
chẽ trước khi đưa vào nghiên cứu nên có thể các đối
tượng này đã có sử dụng thuốc kháng vi rút trước đó
hoặc chưa được sử dụng nhưng lượng HBV DNA lúc
đưa vào nghiên cứu, ở lần xét nghiệm đầu tiên cũng
đang ở mức cao như kết quả của một số nghiên cứu
khác khi định lượng HBV DNA trên bệnh nhân chưa
được điều trị. Trong một nghiên cứu của Jardi khi
phân tích định lượng HBV DNA trên 8 bệnh nhân
viêm gan HBV mạn và theo dõi trong vòng 3 năm
thì lượng HBV DNA với mẫu nghiệm lấy ở các thời
điểm khởi đầu trước khi dùng thuốc kháng vi rút có
lượng HBV DNA trong huyết thanh khá thay đổi từ
4,5x106 đến 2,2x109 bản sao/ml.
4.3.4. Về lượng HBV DNA của lần xét nghiệm
thứ hai: Ở xét nghiệm lần 2, có một tỷ lệ cao bệnh
nhân có cung lượng HBV DNA rất thấp, đặc biệt
có đến 13,5% bệnh nhân có cung lượng HBV
DNA dưới ngưỡng xác định và 36,5% bệnh nhân
có lượng HBV DNA âm tính. Điều này chứng tỏ
rằng nhiều bệnh nhân có đáp ứng với liệu trình
điều trị thuốc kháng vi rút - cung lượng HBV DNA
từ cao giảm thấp dần sau thời gian dùng thuốc,
nhiều bệnh nhân từ nồng độ có thể định lượng
được giảm xuống dưới ngưỡng hay trở về âm tính.
Trong nghiên cứu của Phạm Bá Hiền và CS, số

bệnh nhân ở cả hai nhóm nghiên cứu là sau 3 tháng
và sau 6 tháng điều trị đều có lượng HBV DNA
của lần xét nghiệm thứ 2 giảm so với lần 1. Cụ
thể, sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân ở 2 nhóm
không phát hiện được vi rút trong máu lần lượt là
36,11% và 56,25%, sau 6 tháng điều trị tỷ lệ này là
77,78% và 81,25% [3]. Kết quả này khá phù hợp
với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
4.3.5. Về lượng HBV DNA qua hai lần xét
nghiệm theo dõi: Lượng HBV DNA trung bình

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019

lần xét nghiệm 1 và lần xét nghiệm 2 lần lượt là
6,7x107±1,6x108 bản sao/ml, 1,4x106±7,3x106 bản
sao/ml. Kết quả cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p = 0,005 về tỷ lệ giảm số bản sao
của vi rút viêm gan B trong máu sau sử dụng thuốc.
Trong nghiên cứu này các số liệu về điều trị kháng
vi rút (loại thuốc, thời gian dùng thuốc) được thu
thập chỉ qua hỏi và ghi lại thông tin từ người bệnh,
việc dùng thuốc của bệnh nhân không được kiểm
soát chặt chẽ. Do vậy chúng tôi chỉ sử dụng các
thông tin thu thập được này nhằm mục đích xem xét
sự ảnh hưởng của liệu trình điều trị đến sự biến đổi
giảm hay tăng lượng HBV DNA qua các lần thực
hiện PCR định lượng HBV DNA. Nghiên cứu của
chúng tôi không có mục đích nhằm khảo sát hiệu
quả điều trị của một liệu trình thuốc kháng vi rút
hay khảo sát tính chất đề kháng của vi rút HBV với

một loại thuốc kháng vi rút khi theo dõi sự giảm hay
tăng lượng HBV DNA máu. Muốn có được nghiên
cứu như vậy cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bác
sĩ điều trị và các nhà nghiên cứu ở trong phòng thí
nghiệm, đồng thời cần có một thiết kế nghiên cứu,
trong đó các liệu trình điều trị thuốc kháng vi rút
dùng cho bệnh nhân được kiểm soát một cách chặt
chẽ và ghi lại một cách chi tiết về liều lượng, cách
thức sử dụng và thời gian sử dụng của bệnh nhân.
Với sự thay đổi về lượng HBV DNA qua 2 lần
theo dõi bằng kỹ thuật PCR ở những bệnh nhân
dùng thuốc kháng vi rút ta có thể nhận thấy nếu
bệnh nhân điều trị được theo dõi một cách chặt chẽ
và có kế hoạch định kỳ kiểm tra lượng HBV DNA
thì có thể đánh giá được sự đáp ứng tốt của vi rút
HBV với một liệu trình điều trị hoặc có sự đề kháng
thuốc của vi rút HBV ở bệnh nhân hay không.
V. KẾT LUẬN
1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu: Tỷ lệ cao nhất là độ tuổi từ 15-40 tuổi
(46,2%), thấp nhất là độ tuổi > 55 (19,2%); Nam
giới 44,2%, nữ giới 55,8%. Tỷ lệ cao nhất gặp ở
nhóm lao động chân tay (46,2%); Thời gian phát

111


Nghiên cứu một số chỉ số vi rút ở bệnh nhân
Bệnhviêm
việngan

Trung
vi rút
ương
B mạn
Huế
hiện bệnh chủ yếu sau > 2-5 năm (53,8%); Phát hiện
bệnh chủ yếu là khi đi kiểm tra sức khỏe (73,1%),
yếu tố liên quan chủ yếu là bệnh nhân không rõ
(71,2%), đa số bệnh nhân có người thân trong gia
đình không bị nhiễm VRVG B (71,2%).
2. Đặc điểm lâm sàng: Triệu chứng thường gặp
khi đến điều trị là mệt mỏi (51,9%), chán ăn (17,3%),
đau hạ sườn phải (11,5%), tiểu vàng (7,7%), vàng da
(5,8%), sốt (1,9%).
3. Một số chỉ số vi rút

- Không có bệnh nhân nào mất HBsAg trong thời
gian điều trị 3 tháng, 6 tháng.
- Tất cả (100%) bệnh nhân được xét nghiệm định
lượng DNA đều có HBV DNA trong huyết thanh.
- Có trung bình lượng HBV DNA của lần xét
nghiệm thứ nhất là 6,7x107 DNA/ml và giảm còn
1,4x106 DNA/ml trong lần xét nghiệm thứ hai.
- Tỷ lệ nhóm có lượng HBV DNA không xác
định được ở xét nghiệm lần 2 cao hơn (36,5%) so
với xét nghiệm lần đầu (0%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn An (2010), Định lượng HBV DNA bằng
kỹ thuật Realtime PCR để chẩn đoán HBV và

theo dõi điều trị ở bệnh nhân viêm gan mạn có
dùng thuốc kháng virus, Tạp chí Y Dược học,
Trường Đại học Y Dược Huế, tr. 64–70.
2. Nguyễn Đức Cường, Đỗ Quốc Tiệp (2017),
Thực trạng nhiễm virus viêm gan B trong cộng
đồng dân cư tỉnh Quảng Bình năm 2017, Tạp chí
thông tin khoa học và công nghệ Quảng Bình.
3. Phạm Bá Hiền (2015), Đánh giá hiệu quả điều
trị của Tenofovir và Entecavir trên lâm sàng, cận
lâm sàng ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính,
Tạp chí truyền nhiễm Việt Nam, số 4, tr. 28–32.
4. Trần Văn Huy (2017), Bệnh học gan mật tụy,
Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 1-15
5. Trần Văn Huy (2017), Bệnh học nội khoa, Nhà
xuất bản Đại học Huế, tr. 270–390.

112

6. Trần Văn Huy (2017), Điều trị xơ hóa gan và xơ
gan do virus viêm gan B, Nhà xuất bản Đại học
Huế, tr. 9-25.
7. Trần Văn Huy, Nguyễn Hoài Phong (2012),
Nghiên cứu đáp ứng lâm sàng, sinh hóa và
virus sau 12 tháng điều trị Tenofovir trên bệnh
nhân viêm gan B mạn tính, Tạp chí Y Dược học
- Trường Đại học Y Dược Huế, số 11, tr. 15–21.
8. Nguyễn Nguyên Huyền (2015), Hiệu quả điều
trị Lamivudine trên bệnh nhi viêm gan vi rút B
mạn tại bệnh viện bệnh nhiệt đới Trung ương,
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam, tr. 7–13.

9. Al-Sadeq D.W., Taleb S.A., Zaied R.E (2019),
“Hepatitis B virus molecular epidemiology,
host-virus interaction, coinfection, and
laboratory diagnosis in the MENA region: An
update”, Pathogens, 2019, 8, 63, pp. 1-22.

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019



×