Tổng quan về tín dụng ngân hàng.
1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm tín dụng.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu là Nợ, Có và Trung gian. Có nghĩa là ngân hàng thường xuyên nhận
tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu
tư thu lợi nhuận. Thông thường lượng vốn tự có của ngân hàng thường rất
nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các khách hàng, do đó ngân hàng thương
mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Nguồn vốn mà
ngân hàng có và huy động được là cơ sở để ngân hàng thương mại đầu tư lại
cho nền kinh tế. Đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Khái niệm tín dụng: Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng ngân hàng là
quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân
hàng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng
trong thời gian nhất định và ngược lại khách hàng cũng có nhiệm vụ phải
hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng khi đến đáo hạn của khoản tín dụng đó.
1.1.2. . Những đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức
là cho vay (bằng tiền) và cho thuê tài chính. Tức là ngân hàng dùng tiền huy
động được, nguồn vốn tự có của mình để thực hiện các dự án đầu tư, cho
vay đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhằm đạt được mục địch
cuối cùng của mình là thu được lợi nhuận.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả: hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng
nhất thực hiện mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Để thu hồi được nợ
ngân hàng phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và khả năng của
khách hàng, từ đó áp dụng các biện pháp cho thích hợp. Nếu khách hàng
được xếp vào hạng tín nhiệm cao như có phẩm chất tốt trong kinh doanh,
có khả năng tài chính tốt, chấp hành tốt các hợp đồng tín dụng trong quá
khứ và có triển vọng trong thời gian tới thì ngân hàng sẽ áp dụng hình thức
tín dụng không cần bảo đảm. Ngược lại, nếu khách hàng không đạt được
những tiêu chuẩn như trên thì ngân hàng sẽ áp dụng hình thức tín dụng có
bảo đảm.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Lãi suất
danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ
lạm phát).
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được giải ngân trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Khi ngân hàng giải ngân cho một doanh nghiệp,
cá nhân hay một tổ chức kinh tế nào đó một khoản tín dụng trong một thời
hạn nhất định thì khi đến kỳ đáo hạn thì người vay phải hoàn trả lại cho
Ngân hàng cả vốn và lãi.
1.1.3. . Quy trình tín dụng ngân hàng:
Hoạt động kinh doanh ngân hàng trong những năm gần đây đã có nhiều
thay đổi. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh doanh ngân
hàng đã có những bước phát triển mới. Với phương pháp công nghệ hiện đại,
ngân hàng đã tiếp cận các khách hàng của mình với chi phí giao dịch thấp và
cung cấp được nhiều loại hình sản phẩm và dịch vụ tài chính hơn so với trước.
Tuy nhiên sự mở rộng hoạt động luôn tiềm ẩn những rủi ro, vì vậy cần có các
biện pháp để hạn chế và kiểm soát rủi ro. Mội trong những biện pháp đó là
thiết lập một quy trình tín dụng chặt chẽ để hướng dẫn các nhân viên tín dụng
và các bộ phận có liên quan thực hành việc cho vay nhằm đạt được hiệu quả
cao nhất.
Tuy nhiên, với mỗi ngân hàng khác nhau, với mỗi loại khách hàng khác
nhau, với mỗi thời kỳ khác nhau thì quy trình tín dụng được áp dụng là khác
nhau. Nhưng nhìn chung quy trình tín dụng bao gồm các bước sau.
Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Trong tập hồ sơ này khách hàng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần
thiết liên quan đến việc xin cấp tín dụng bao gồm:
- Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng:
• Giấy tờ chứng nhận tư cách pháp nhân: giấy phép thành lập, đăng
kí kinh doanh, quyết định bổ nhiềm giám đốc, điều lệ hoạt động...
(đối với các doanh nghiệp).
• Đơn đề nghị cấp tín dụng của khách hàng
• Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch vay, trả nợ
• Báo cáo tài chính thời điểm gần nhất
• Hợp đồng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh cùng các giấy tờ gốc có
liên quan đến sở hữu tài sản đảm bảo
• Các giấy tờ khác có liên quan
Trong giai đoạn này số lượng giấy tờ trong tập hồ sơ nhiều hay ít phụ
thuộc vào một số yếu tố sau.
- Loại khách hàng:
Ngân hàng thường xuyên phân biệt hai nhóm khách hàng: khách hàng đã
thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng và khách hàng quan hệ lần đầu tiên.
Thông thường, khách hàng quan hệ lần đầu với ngân hàng phải cung cấp một
số lượng đáng kể dữ liệu thông tin về bản thân mình.
Tuy nhiên, loại chủ thể cũng ảnh hưởng đến số lượng giấy tơ trong hồ sơ
như: là cá nhân thì vấn đề sẽ đơn giản hơn rất nhiều so với khách hàng là
doanh nghiệp, trong khi đó khách hàng doanh nghiệp thì lại còn phụ thuộc vào
loại hình doanh nghiệp: công ty tư nhân, công ty trách nhiêm hưu hạn, công ty
cổ phần, công ty liên doanh....
- Loại và kỹ thuật cấp tín dụng
Đối với khách hàng có tín nhiệm chưa cao hay chưa an toàn thì ngân hàng
sẽ áp dụng loại tín dụng có baỏ đảm và tuỳ theo loại hình bảo đảm mà lượng
giấy tờ pháp lý có liên quan đến bảo đảm tín dụng cũng khác nhau.
+ Quy mô tín dụng
+ Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng còn phụ thuộc vào qui mô nhu cầu về vốn tín
dụng của khách hàng. Tức là, yêu cầu về thông tin từ hồ sơ tín dụng sẽ lớn hơn
khi mà qui mô tín dụng được cấp lớn.
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiên tại và tiềm tàng của khách
hàng về sử dụng vốn. Mục đích của việc phân tích tín dụng là tìm kiếm những
tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng và tìm cách hạn chế các rủi ro
đó, cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa. Mặt khác, phân tích tín dụng
giúp ngân hàng kiểm tra tính chính xác của các thông tin do khách hàng cung
cấp từ đó có nhận định đúng về khách hàng.
Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng từ các nguồn:
+ Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng
+ Hồ sơ lưu trữ tại ngân hàng, hoặc từ các ngân hàng khác, đặc biệt từ
trung tâm phòng ngừa rủi ro của hệ thống các định chế tài chính trung gian.
+ Các cơ quan chức năng: thuế, pháp luật...
+ Các ấn bản kinh tế, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng
khác.
+ Trực tiếp phỏng vấn khách hàng cũng như nhân viên của khách hàng.
Thông tin để phâp tích tín dụng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc thành đạt của giai đoạn này. Để có được thông tin chính xác đầy đủ ngân
hàng đã tạo thông tin, tức thu thập thông tin sơ cấp (tức là những thông tin
chưa được tiết lộ rộng rãi). Đây là nét đặc thù của hoạt động kinh doanh trong
nghề ngân hàng so với các ngành nghề kinh doanh khá.
Nội dung phâp tích tín dụng:
+ Phân tích phi tài chính là phâp tích các yếu tố ít hoặc không liên quan
tới vấn đề tài chính cuả khách hàng một cách trực tiếp. Nó bao gồm: phân tích
kiểm tra tính pháp lý của khách hàng, phân tích tính cách của khách hàng, uy
tín của khách hàng trong kinh doanh, khả năng và uy tín của hội đồng quản trị
và ban điều hành, nghiên cứu triển vọng của khách hàng đặc biệt là trên
thương trường xu hướng phát triển của ngành/vùng và các chiến lược phát
triển của ngành trong thời gian tới....
+ Phân tích tài chính: là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo về
tài chính trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và dự đoán các
trường hợp xấu có thể xẩy ra, làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Nó
bao gồm: phân tích hệ số tài chính, phân tích lưu chuyển tiền tệ, phân tích các
dự báo tài chính. Thực chất ở đây là ngân hàng đi xác định về số lượng của
nhu cầu vay vốn tín dụng (quy mô tín dụng) hợp lý của khách hàng.
Bên cạnh đó, trong quá trình phân tích tài chính, ngân hàng cũng sẽ xác
định thời hạn hợp lý cho khoản vay (thời hạn cho vay được coi là khoản thời
gian từ lần đầu phát tiền vay (giải ngân) cho đến khi khách hàng thanh toán
xong khoản tiền vay cả gốc và lãi). Cơ sở để xác định thời hạn cho vay là tính
chất luân chuyển vốn của phương án sản xuất kinh doanh và phương án tài
chính hoặc chu kỳ ngân quỹ của khách hàng. Hơn nữa thời hạn cho vay không
được vượt quá thời hạn tối đa, mà ngân hàng qui định cho từng loại đối tượng
vay cũng như mỗi ngành, nghề của khách hàng.
Tổ chức việc phân tích tín dụng:
Phân tích tín dụng là một khâu rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến việc ra
quyết định tín dụng chính xác hay không, vì vậy phải phân định rõ trách nhiệm
của những người tham gia vào giai đoạn này.
+ Cách thứ nhất là giao cho một hay một số người thực hiện toàn bộ các
nội dung phân tích: cách này có ưu điểm là quá trình phân tích được liên tục,
có hệ thống, tiện lợi trong những trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng nhỏ,
sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc phân tích. Nhưng nó mang tính
chủ quan cao do phụ thuộc vào trình độ, bản lĩnh của người phân tích.
+ Cách thứ hai: chuyên môn hóa các nội dung phân tích, và giao cho
những chuyên gia đảm nhiêm. Cách này có ưu điểm là chuyên môn hoá cao,
tránh được những sai sót do khiếm khuyết trong nghiệp vụ, đặc biệt như các
mảng phân tích thủ tục pháp lý của hồ sơ vay và tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó
cách này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cá nhân hoặc phòng ban
tham gia phân tích để đảm bảo tính hợp lý.
+ Tính hệ thống và kịp thời. Để có tính hợp lý các nhà quản trị phải biết
cách vận dụng trong từng điều kiện cụ thể. Việc mỗi nhân viên hay nhiều người
cùng tham gia vào thực hiện một nội dung phân tích tuỳ thuộc vào quy mô của
nhu cầu đề nghị cấp tín dụng, cung như mực độ phức tạp của việc phân tích
như: nhu cầu tài trợ dài hạn thường đòi hỏi độ an toàn cao hơn khoản ngắn
hạn nên cần thiết phải xử lý một lượng lớn thông tin. Do đó sự tham gia của
nhiều người trong thẩm định là rất cần thiết, bảo đảm tính chính xác, khách
quan và nhanh chóng.
Bước 3: Quyết định tín dụng:
Ra quyết định tín dụng như thế nào? chấp thuận hay không chấp thuận là
công việc cực kỳ quan trọng. No không những ảnh hưởng đến tiến trình hoạt
động của khách hàng, mà nó còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng.
Trong thực tế ngân hàng rất sợ gặp hai loại sai lầm:
+ Thứ nhất: là ra quyết định chấp thuận mà sau đó khách hàng lại không
có khả năng trả nợ. Trường hợp này ngân hàgn có thể bị giảm bớt lợi nhuận,
thậm chí mất vốn, giảm uy tín.
+ Thứ hai: là quyết định không chấp thuận khách hàng có khả năng hoàn
trả vốn tín dụng đúng hạn. Trong trường hợp này thiệt hại từ phía ngân hàng
cũng đáng kể: tức là ngân hàng mất cơ hội tăng thu nhập, mất đi một khách
hàng - cơ hội mở rộng ảnh hưởng/ thị phần của mình và tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Các cơ sở để ra quyết định trong giai đoạn này là:
+ Các thông tin từ giai đoạn trước chuyển sang.
+ Thông tin cập nhật từ thị trường, các cơ quan có liên quan.
+ Chính sách tín dụng của ngân hàng, những quy định hoạt động tín dụng
của nhà nước.
+ Nguồn cho vay của ngân hàng khi ra quyết định
+ Kết quả thẩm định bảo đảm tín dụng, thường ngân hàng chỉ thẩm định
bảo đảm tín dụng trong trường hợp xét thấy có thể chấp nhận yêu cầu tín
dụng của khách hàn, vì chi phí cho việc này rất là tốn kém cho cả ngân hàng và
khách hàng.
Quyền phán quyết tín dụng ở ngân hàng thường do những nhân viên có
trình độ, có kinh nghiệm và có uy tín tại ngân hàng. Việc phân công, phân
nhiệm vụ phụ thuộc vào chính sách và phương pháp quản trị của mỗi ngân
hàng. Có thể tập trung quyền ra quyết định tín dụng cho một người (giám đốc)
hay tập thể (hội đồng quản trị...). Cách này có lợi thế là dễ điều hành vốn, dễ
điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo mục tiêu sẵn. Tuy nhiên sẽ rất khó khăn nếu
ngân hàng có một số lượng khách hàng xin cấp tín dụng cùng một lúc và nó
cũng rất dẫn đến việc tiêu cực (quan liêu), nó cũng có thể tạo ra tính ỷ lại cho
các nhân viên cấp dưới khi tham gia thẩm định đặc biệt là không phân rõ ràng
được trách nhiệm của các cá nhân tham gia vào quá trình thành quyết tín
dụng do vậy cách này chỉ thích hợp với các ngân hàng nhỏ, khách hàng không
quá nhiều và đội ngũ nhân sự có trình độ thấp, thiếu kinh nghiệm.
Cách thứ hai, thường gặp trong hoạt động tín dụng ngày nay là cách
phân quyền bằng quy định các cức phán quyết tín dụng cho từng nhân viên.
Trong luật tổ chức tín dụng của Việt nam cũng quy định về nguyên tắc phân
định trách nhiệm ở điều 53 có nêu mức phán quyết phụ thuộc vào:
+ Kinh nghiệm của nhân viên
+ Thời hạn cấp tín dụng
+ Loại cho vay: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, có bảo đảm/ không có bảo
đảm
+ Đồng tiền cấp (nội tệ hay ngoại tệ)
Đối với cách phân quyền này nhà quản trị phải xác định rõ kinh nghiệm
và trình độ của các nhân viên tham gia vào giai đoạn này. Từ đó quy định số
tiền tối đa mà họ có quyền quyết định. Mức độ phán quyết sẽ tăng lên theo
trình độ của các nhân viên. Phân quyền phán quyết sẽ phát huy tính độc lập và
tự chịu trách nhiệm của các nhân viên, giảm sức ép lên nhà quản trị, giảm thời
gian lưu trữ hồ sơ, tạo cơ sở kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng.
Những khoản tín dụng lớn thường được hội đồng tín dụng xem xét và quyết
định. Hội đồng tín dụng gồm những người có kinh nghiệm, năng lực trong tín
dụng ngân hàng.
Trước khi kết thúc giai đoạn này, nhà quản trị còn phải tính giá cả, chi
phí cho khoản tín dụng này nếu được chấp thuận, định lượng những rủi ro có
thể xảy ra để dự kiến thu nhập có được từ khoản tín dụng này. Về nguyên tắc,
trên cơ sở lãi suất cơ bản tại ngân hàng (là lãi cho vay ngắn hạn áp dụng với
khách hàng đạt tiêu chuẩn cao nhất) và loại rủi ro khách hàng được đánh giá
ở giai đoạn trước, trong quá trình cập nhật thông tin mà người có thâmư
quyền sẽ ra quyết định về lãi suất áp dụng với khoản tín dụng đó. Việc áp dụng
lãi suất thả nổi hay cố định phụ thuộc vào chính sách quản trị rủi ro của ngân
hàng. Thường lãi suất cố định được áp dụng với khoản tín dụng ngắn hạn.
Kết thúc giai đoạn này được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả
ra quyết định tín dụng
+ Nếu từ chối ngân hàng phải có văn bản thông báo và nêu lý do từ chối,
và người ra quyết định tín dụng phải ghi ý kiến từ chối lên giấy đề nghị cấp tín
dụng.
+ Nếu chấp thuận ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng cùng với hợp
đồng có liên quan tới bảo đảm tín dụng nếu có.
Bước 4:
Giải ngân: là nghiệp vụ áp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng
đã cam kết theo hợp đồng.
Giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của tín dụng gắn liền vận
động của hàng hoá. Hay nói cách khác, việc phát tiền vay phải có hàng hoá đối
ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng.
Mặc dù giải ngân là cấp tiền cho người đi vay, nhưng phương thức giải
ngân phụ thuộc vào nội dugn cam kết của hợp đồng tín dụng. Theo tính chất
nghiệp vụ, giải ngân có thể chia làm hai loại:
+ Thứ nhất - giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền thuần tuý. Theo loại này thì
ngân hàng chỉ thuần tuý cấp tiền cho khách hàng trong phạm vi mức tín dụng
đã ký kết mà không đòi hỏi thêm những điều kiện đặc biệt nào. Loại giải ngân
này thường được áp dụng trong cho vay tiêu dùng (thông qua thẻ tín dụng...)
hay cho vay hộ sản xuất với mức tín dụng cấp không lớn.
+ Thứ hai - giải ngân là quyết định cho vay phu kèm theo với việc cấp tiền.
Khi hợp đồng tín dụng có quy định những điều kiện ràng buộc cho việc giải
ngân, thì có thể xảy ra các tình huống sau:
• Ngân hàng có thể từ chối cấp tiền vay mặc đù đã ký hợp đồng tín dụng.
Đó là những trường hợp ngân hàng thoả thuận những điều kiện để
đảm bảo môi trường tốt cho khoản tín dụng. Như những vấn đề có liên
quan đến chính sách đầu tư, thuế có liên quan đến doanh nghiệp và lĩnh
vực kinh doanh của họ, hay những điều kiện về vốn đối ứng.
• Ngân hàng chỉ cấp tiền vay theo các quy định của hợp đồng tín dụng,
đây là những trường hợp cấp vốn theo nhãng điều khoản ràng buộc
trong hợp đồng. Trong trường hợp những điều kiện ràng buộc đã nêu
trong hợp đồng chưa được thực hiện thì việc giải ngân cũng chưa được
tiến hành.
Phương pháp giải ngân:
+ Trong cho vay để mua tồn kho, máy móc thiết bị hay các tài sản khác
phương pháp giải ngân của ngân hàng là trả thẳng cho đơn vị bán dựa trên cơ
sở các chứng từ cung cấp hàng hóa. Đây là phương pháp giải ngân cơ bản của
ngân hàng. Phương pháp này sẽ gặp rủi ro khi chững từ mua hàng khống. Để
hạn chế, ngân hàng phải kiểm tra chứng từ và các thông tin khác có liên quan.
+ Khi cho vay để thực hiện các dự án đầu tư, việc giải ngân căn cứ vào
khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Việc phát tiền vay dựa trên cơ sở biên bản
nghiệp thu hoàn thành công trình, hoặc hạn mục công trình. Nếu đó là một
công ty bên ngoài nhận thầu thì việc giải ngân được trả thẳng cho đơn vị thi
công.
+ Đối với các kỹ thuật chiết khấu, factoring, cho vay theo tỷ lệ hàng tồn
kho, khoản phải thu, việc giải ngân được thực hiện bằng cách chuyển vào tài
khoản tiền gửi thanh toán của người đi vay.
+ Trong cho vay để mua hàng nông sản, thuỷ hải sản của cá nhân và hộ
gia đình ngân hàng giải ngân theo tiến trình mua hàng. Cơ sở của việc giải
ngân dưa theo mức độ tồn kho hàng hoá và biên bản kiểm tra tồn kho của
ngân hàng.
Ngoài ra, đối với khoản cho vay nhỏ của ngân hàng sẽ giải ngân bằng
tiền mặt như cho vay hộ nông dân hay cho vay cá thể buôn bán tại chợ...
Cơ sở để ngân hàng thực hiện việc giải ngân là kế hoạch sử dụng vốn tín
dụng đã được nêu trong hợp đồng tín dụng. Về nguyên tắc nhân viên giải ngân
không phải là người ra quyết định tín dụng để bảo đảm an toàn và dễ kiểm
soát.
Bước 5: Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
+ Giai đoạn giám sát tín dụng sẽ được tiếp nối với mục tiêu theo dõi, đánh
giá mức độ chấp hành hợp đồng tín dụng của khách hàng và kịp thời có các xử
lý thích hợp.
Mục tiêu của giám sát tín dụng là kiểm tra việc thực hiện các điều khoản
đã cam kết theo hợp đồng tín dụng
• Khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không?
• Kiểm soát mức độ rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình sử dụng
vốn tín dụng
• Theo dõi thực hiện các khoản cụ thdẻ đã thoả thuận trong hợp đồng,
kịp thời phát hiện những vi phạm và có cách xử lý thích hợp.
• Theo dõi và ghi nhân việc thực hiện quy trình tín dụng của các bộ phân,
cá nhân có liên quan tại ngân hàng.
Phương pháp giám sát:
1. Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng: qua hoạt
động của tài khoản tiền gửi và tài khoản vay sẽ phản ánh tình hình tiêu thụ sản
phẩm, lưu chuyển tiện tệ, sử dụng vốn vay và trả nợ. Việc biến động bất
thường của tài khoản sẽ phản ánh những khó khăn trong quản trị tài chính,
như khi tài khoản vãng lai luôn dư nợ là dấu hiệu khách hàng có khó khăn
trong cho trả, qua đó ngân hàng sẽ là tuỳ theo các dấu hiệu mà có hướng kiểm
soát trọng tâm.
2. Phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ: đối với khách hàng vay
thường xuyên (thấu chi, thẻ tín dụng ...) hoặc thời gian vay tương đối dài ngân
hàng sẽ yêu cầu gởi báo cáo tài chính định kỳ để ngân hàng phân tích kịp thời,
phát hiện được những thay đổi đáng chú ý trong khả năng trả nợ của khách
hàng.
3. Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động kinh doanh/ nơi cư trú
của khách hàng đi vay: khi viếng thăm khách hàng trong thời gian vay vốn sẽ
cho chúng ta những thông tin bổ ích, như sự duy trì ý muốn trả nợ của khách
hàng, thực trạng tổ chức sản xuất kinh doanh, thực trạng dự trữ tồn kho, chất
lượng tài sản bảo đảm.
4. Kiểm tra các bảo đảm tiền vay: Đối với tài sản thế chấp ngân hàng
kiểm tra việc sử dụng tài sản hợp lý đúng như cam kết trong hợp đồng. Việc
kiểm tra được thực hiện bằng cách kiểm tra tại chỗ hiện trạng của tài sản và
thông qua các báo cáo thường kỳ của khách hàng về tình trạng của tài sản. Khi
kiểm soát nhân viên giám sát phải làm báo cáo công việc và nếu thấy những
dấu hiệu vi phạm phải trình quản trị để có biện pháp kịp thời xử lý ngăn chặn.
Trong trường hợp tài sản bị rủi ro như cháy, sạt lở, giá trị thường biến động
mạnh thì ngân hàng phải kịp thời điều chỉnh hợp đồng cho phù hợp với điều
kiện mới.
Đối với tài sản cầm cố ngân hàng cần phân biệt: chấp hữu hay vật hữu.
Nếu cầm cố tài sản chấp hữu những tài sản bảo đảm vẫn do khách hàng vay sử
dụng và khai thác (dây chuyền sản xuất, máy móc phương tiện vận tải...) ngân
hàng kiển tra tương tự như với tài sản thế chấp. Bên cạnh đó cần quan tâm
đến vấn đề an toàn tài sản như phòng cháy, chống trộm cắp, đóng bảo hiểm...
Nếu là cầm cố vật hữu đặc biệt tại kho của khách hàng hoặc của bên thứ ba,
ngân hàng phải chú ý đến tính bảo toàn và giá trị và toàn vẹn về vật chất.
Đối với bảo đảm bằng bảo lãnh ngân hàng cần thu thập những thông tin
có liên quan đến người bảo lãnh đặc biệt là về uy tín của họ. Nhìn chung người