Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Các giải pháp góp phần bảo đảm an toàn tín dụng đối với KTNQD tại NHCT Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.19 KB, 7 trang )

Các giải pháp góp phần bảo đảm an toàn tín dụng đối với KTNQD
tại NHCT Đống Đa
I/ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHCT ĐỐNG ĐA:
1/ Chú trọng hơn nữa công tác thẩm định khách hàng.
Nhận thấy mối quan tâm hàng đầu của các NHTM và khả năng trả nợ và
lãi vay đúng hạn là kết quả kinh doanh của người vay chứ không phải là việc
phát mại tài sản để thu hồi nợ. Đó là: Khi cấp phát tiền vay, cán bộ tín dụng nên
tiến hành phân tích tín dụng kỹ lưỡng đối với khách hàng. Đặc biệt cần nghiên
cứu kỹ càng các trình độ, kinh tế, kỹ thuật, năng động sáng tạo của người giám
đốc.
Ngoài những việc lập hồ sơ theo dõi việc cho vay vốn và trả nợ của khách
hàng cán bộ tín dụng nên định kỳ kết hợp với các bộ thông tin phân tích rủi ro,
phân loại, đánh giá đúng mức độ tín nhiệm của từng khách hàng. Việc làm này
thường xuyên sẽ giúp cán bộ tín dụng sâu sát được tình hình sản xuất kinh
doanh và tài chính của đơn vị vay vốn... Trên cơ sở đó, mở rộng hình thức cho
vay tín chấp đối với khách hàng có kết quả kinh doanh tốt, có thu nhập ổn định,
đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.
2/ Cần đảm bảo tài sản thế chấp có đầy đủ điều kiện pháp lý cần
thiết:
a/ Giấy tờ sở hữu tài sản thế chấp.
Trong số những tài sản là nhà cửa mà khách hàng muốn dùng để thế chấp
vay vốn nhưng không đủ giấy tờ sở hữu gốc, có thể có những nhà cửa chính
phủ nhưng do giấy tờ bị mất, do thừa kế, mua đi bán lại nhiều lần, cơi nới. ..
Những trường hợp này về nguyên tắc ngân hàng không giải quyết trong khi
nhu cầu cần vốn của họ là rất cần thiết, mặc dầu tài sản này thực sự là của họ
và có giá trị cao nhưng ngân hàng không thể phát mại tài sản thế chấp được
và không tránh được rủi ro trong trường hợp khách hàng đem tài sản thế chấp
ở ngân hàng khác.
Để tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đáp ứng nhu cầu
vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, UBND thành phố Hà Nội cần sớm
phối hợp với các ngành liên quan tổ chức một cuộc tổng điều tra thống kê về


nhà ở của dân, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu để hợp pháp hoá tài sản của
họ giúp họ có đủ thủ tục pháp lý khi làm hồ sơ vay vốn ngân hàng.
b. Tài sản thế chấp phải có điều kiện bảo đảm an toàn:
Do đặc điểm của hình thức thế chấp là tài sản thế chấp vẫn cho người đi
vay bảo quản sử dụng, nên ngân hàng cần có những quy định để bảo đảm an
toàn vốn cho ngân hàng. Toàn bộ công trình được sửa chữa nâng cấp xây dựng
trên diện tích mặt bằng của ngôi nhà đã thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp
vay vốn ngân hàng theo điều kiện mà khách hàng đã cam kết.
Đối với những tài sản là động sản như xe máy, phương tiện vận tải...
Ngân hàng phải yêu cầu có bảo hiểm. Cán bộ tín dụng nên kiểm tra đánh
giá tài sản thế chấp trong từng trường hợp cụ thể để yêu cầu mức bảo hiểm
phù hợp. Trên thực tế khách hàng rất ngại mua bảo hiểm vì sợ tốn thêm 1
khoản tiền nữa làm cho chi phí vay vốn ngân hàng trở nên cao hơn. Do đó ngân
hàng có thể yêu cầu khách hàng chỉ cần mua bảo hiểm phần tài sản tương ứng
với số tiền vay để bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng.
Ngoài ra trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay của ngân hàng, cán
bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra việc bảo quản và sử dụng tài sản thế
chấp để kịp thời có biện pháp xử lý trong trường hợp bên vay vốn vi phạm cam
kết.
3/ Mở rộng hình thức bảo đảm tín dụng:
Để giúp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn trung và dài hạn để
đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, ngân hàng nên mở rộng hình thức tín dụng
thuê mua.
Tín dụng thuê mua là loại tín dụng trung và dài hạn, không phải nhận
bằng tiền mà là tài sản, phương thức thanh toán là trả dần (trả góp) khi thanh
toán lại chủ yếu dưới hình thức tiền tệ. Tín dụng thuê mua được đảm bảo chắc
chắn, an toàn hơn hình thức thế chấp tài sản. Người thuê mua sau thời gian sử
dụng có thể mua lại. Đặc điểm nổi bật của loại tín dụng thuê mua là máy móc,
thiết bị phù hợp theo yêu cầu cảu sử dụng của người thuê, nên các nhà doanh
nghiệp phát huy được tính sáng tạo và bảo đảm chất lượng sản phẩm làm ra,

khả năng tiêu thụ nhanh nên sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Các doanh
nghiệp có thể đầu tư đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất mà không cần có vốn
tự có tham gia như cho vay trung và dài hạn thông thường. Trong khi đó, để
một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có đủ tài sản thế chấp là
hai điều kiện khó khi cần vay trung và dài hạn nhằm hiện đại hoá máy móc
thiết bị, cải tiến dây chuyền sản xuất.
Việc áp dụng phương thức tín dụng thuê mua có thể giải quyết phần khó
khăn khi vay trung và dài hạn. Vì dưới phương thức thuê mua này chỉ cần
doanh nghiệp sản xuât kinh doanh có hiệu quả, điều kiện thế chấp được đặt ở
hàng thứ yếu vì bản chất của phương thức tín dụng thuê mua đã bao hàm tài
sản thế chấp ở trong hợp đồng thuê mua. Đây là phương thức bảo đảm chặt
chẽ, vừa có lợi cho doanh nghiệp, vừa an toàn vốn vay cho ngân hàng. Tuy
nhiên để phương thức này được mở rộng thì đòi hỏi phải có vốn dài hạn, mà
huy động vốn ở ngân hàng lại đa phần là ngắn hạn. Do vậy ngân hàng nên cải
tiến công tác huy động vốn, để đáp ứng được nhu cầu vay trung dài hạn của
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4. Tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất và con người.
Việc mở rộng quan hệ tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dẫn
tới hàng ngàn khách hàng quan hệ với ngân hàng, do đó ngân hàng phải quản
lý một khối lượng lớn hồ sơ, ngân hàng cần nhanh chóng đưa chương trình
quản lý hồ sơ vay vốn của khách hàng vào xử lý trên hệ thống máy vi tính.
Thiết bị này sẽ bảo đảm và cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết giúp cán
bộ tín dụng trong việc kiểm tra, đánh giá chính xác khách hàng để có biện pháp
cho vay thích hợp. Trình độ của cán bộ ngân hàng còn chưa đáp ứng cho yêu
cầu của phát triển hoạt động ngân hàng hiện nay và trong tương lai. Kinh
doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các cán bộ tín dụng ngân hàng không
chỉ giỏi việc chuyên môn mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực như pháp luật,
kinh tế, xã hội. Hiện nay ngân hàng đã có chương trình đào tạo lại cán bộ, tuy
nhiên để đáp ứng kịp thời yêu cầu hiện đại hoá ngân hàng, đòi hỏi mỗi người
phải tự trau dồi kiến thức để nâng cao trình độ.

Mức thâm nhập của tín dụng ngân hàng vào khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh còn hạn chế. Do đó ngân hàng cần phải sớm đưa ra các phương thức để
phát huy tính năng động sáng tạo, động viên tinh thần dám nghĩ, dám làm,
dám chịu. Đồng thời cần có sự khuyến khích bằng lợi ích vật chất xứng đáng
cho những cán bộ tín dụng cho vay có hiệu quả.
II/ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM:
1/ Việc định giá tài sản thế chấp phải xác thực.
Trong quy định 1187/NHCT - TD ngày 10/10/1997 của Ngân hàng công
thương Việt Nam có hướng dẫn căn cứ định giá đối với những tài sản thế chấp
là nhà cửa, vật kiến trúc và quyền sử dụng đất theo giá thị trường, nhưng
không vượt quá khung giá theo quy định của cơ quan thuế, tài chính, xây dựng
của địa phương và đảm bảo nếu phát mại phải thu hồi được gốc và lãi. Tuy
nhiên khung giá Nhà nước hiện hành là thấp. Nếu mọi trường hợp đều áp
dụng chặt chẽ như vậy sẽ dẫn đến cho vay được ít nhất hoặc mất khách hàng.
Do vậy ngân hàng Công thương Việt Nam xây dựng một biểu giá phù hợp dựa
vào giá cả thị trường và khung giá Nhà nước để là căn cứ cho cán bộ tín dụng
định giá tài sản.
Đề nghị Ngân hàng Công thương Trung ương cho phép định giá thêm "giá
trị quyền thuế đất" bằng 50% giá quy định hiện hành tại khung giá Nhà nước
trong trường hợp tài sản thế chấp là nhà xưởng xây dựng trên đất thuê của
Nhà nước vì trong chỉ thị 18 Thủ tướng cho phép được chuyển quyền thuê đất
sang người mua trong trường hợp phát mại tài sản thế chấp.
2/ Cần lập các chương trình thông tin tín dụng để phòng ngừa rủi
ro ở các địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng vay.
Lập chương trình phòng ngừa rủi ro theo các dạng như tập hợp những
người cùng họ tên, cùng chứng minh thư, cùng địa chỉ dùng tài sản vay nhiều
nơi để có biện pháp ngăn ngừa rủi ro xảy ra.
3/ Cần hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng:
Kinh doanh tiền tệ thường đi đôi với rủi ro lớn. Do đó để giảm bớt rủi ro
cho hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường,

nên hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng. Nguồn thu của quỹ là một tỷ lệ nhất
định của phần vốn được bảo hiểm và bảo đảm đủ để bảo tồn, tăng trưởng quỹ
nhằm bù đắp những rủi ro mất mát có thể xảy ra cho người đi vay và người
cho vay.
III/ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC
1/ Nhà nước sớm ban hành chính sách cụ thể về việc cho thuê đất hoặc có
thể giao đất trong một thời gian dài để ổn định đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh yên tâm đầu tư vốn kinh doanh.
Đương nhiên mọi vấn đề xây dựng nhà máy, lắp đặt dây chuyền công
nghệ có liên quan đến môi trường, cảnh quan phải được các cấp có thẩm
quyền phê duyệt quy hoạch và cho phép xây, làm được như vậy chính là tạo
môi trường lành mạnh giúp các tổ chức tín dụng yên tâm đầu tư hỗ trợ phát
triển nền kinh tế ngoài quốc doanh.
2/ Ngân hàng nhà nước sớm trình lên chính phủ và quốc hội về việc ban
hành luật thế chấp tài sản và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền
sở hữu tài sản, đặc biệt về nhà cửa, máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất.
Ngoài ra do thiếu môi trường pháp lý an toàn đã khiến cho hoạt động tín dụng
của ngân hàng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh luật thế chấp, Quốc
hội cần tiếp tục cho ra đời một số đạo luật có liên quan đến hoạt động của
ngân hàng như luật thương mại, luật bảo lãnh. Trên cơ sở được pháp luật ủng
hộ, tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình.
3/ Nhà nước phải có 1 quy định buộc các ngân hàng thương mại, tổ chức
tín dụng và công ty tài chính chịu sự giám sát của hệ thống kiểm toán quốc gia.
Hơn nữa phải có công ty chuyên trách kiểm toán riêng cho ngành ngân hàng.
Kết quả kiểm toán nhất thiết phải được thông báo công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng và phải chịu trách nhiệm về kết quả công bố đó.
4/ Cần có các công ty dịch vụ đánh giá tài sản thế chấp vốn vay. Công ty
dịch vụ đánh giá tài sản hoàn toàn chịu trách nhiệm vật chất về việc đánh giá
sai tài sản thế chấp. Việc này ta mới có công chứng xác nhận quyền ở hữu của
chủ tài sản mà thôi.

5/ Tại quy định 198/QĐ - NH4 ngày 19/6/1997 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước và các văn bản hướng dẫn của Tổng giám đốc các ngân hàng
thương mại đều quy định một trong các điều kiện cho vay vốn của doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của Nhà
nước. Tuy nhiên qua thực tế thanh tra kiểm tra của các cấp, các ngành đều
tổng kết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa chấp hành nghiêm túc. Điều
này thể hiện rõ nhất qua thu nhập phản ánh tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều thấy rõ có lãi song thông tin ngành thuế
hoặc ngược lại hoặc kêu lỗ không có nguồn để nộp thuế đây là nghịch lý khó
chấp nhận nên theo tôi thanh tra ngân hàng Nhà nước kết hợp với bộ Tài
chính có biện pháp chặt chẽ để buộc các doanh nghiệp này tuân theo đúng chế

×