Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

THỰC TRẠNG CPH CÁC DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.59 KB, 34 trang )

THỰC TRẠNG CPH CÁC DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
I. THỰC TRẠNG DNNN TRƯỚC KHI TIẾN HÀNH CPH..
1.Đánh giá tình hình DNNN trước khi CPH.
Các DNNN ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc và năm
1975 ở miền Nam. Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây
dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các DNNN ở Việt Nam còn tồn tại
nhiều mặt yếu kém . Biểu hiện:
- Quy mô DN phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao
động và mức độ tích luỹ vốn. Theo báo cáo của Bộ Tài chính về các chỉ tiêu chủ
yếu năm 1992 thì cả nước có trên 2/3 tổng số DNNN có số lượng lao động
dưới 200 người, chỉ có 4% so với DN có số lao động trên 100 người. Số lao
động trong khu vực DNNN chiếm một tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động
xã hội – khoảng 5 đến 6%.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Trừ một số rất ít ( 18% ) số
DNNN được đầu tư mới đây ( sau 1986 ), phần lớn các DNNN được thành lập
khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Theo báo cáo điều tra của Bộ Khoa học –
Công nghệ và môi trường thì trình độ công nghệ trong các DNNN của Việt Nam
kém các nước từ 3 đến 4 thế hệ. Các DN còn sử dụng trang bị kỹ thuật từ 1939
và trước đó. Mặt khác, đại bộ phận DNNN được xây dựng bằng kỹ thuật của
nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của các doanh nghiệp thấp. Vì vậy khi
chuyển sang kinh tế thị trường, các DNNN khó có khả năng cạnh tranh cả
trong nước và quốc tế.
- Việc phân bố còn bất hợp lý về ngành và vùng.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, các DNNN không còn được bao cấp
mọi mặt như trước nữa. Đã thế lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh
quyết liệt nên nhiều DNNN không trụ nổi, buộc phải phá sản, giải thể, đặc biệt
trong những năm gần đây chúng ta đã tiến hành cải cách DNNN. Chuyển đổi
cơ chế đã làm cho DNNN năng động hơn, hiệu quả hơn. Số lượng DNNN trước
1989 là 12.084 đến ngày 1/4/1994 còn 6.264 DNNN nhưng tỷ trọng GDP của
khu vực kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân lại tăng lên, từ 37,6%
năm 1986 tăng lên 43,3% năm 1995, năm 2000 khoảng 39%; đồng thời mức


GDP của khu vực kinh tế Nhà nước cũng tăng trưởng với nhịp độ cao, trong 5
năm 1991-1995, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực DNNN đạt
11,7%, trong đó của toàn bộ nền kinh tế quốc dân chỉ là 8,2%.
Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế .
Tốc độ tăng
trưởng kinh
tế
1976-1980
1981-1985 1986-1990 1991-1997
bình quân
hàng năm
(%)
0,4 6,4 3 7,8-8,5
Tỷ trọng kinh
tế quốc doanh
1986 1990 1995 2000
Trong GDP
(%)
37,6 34,1 43,3 39
( Theo số liệu của Cục thống kê )
Sau 10 năm đổi mới, các DNNN đã và đang chuyển biến khá căn bản.
Nhưng nhìn chung các DNNN vẫn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp,
nhiều DN vẫn làm ăn thua lỗ triền miên, hoạt động cầm chừng; sự đóng góp
của DNNN cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho
nó cũng như với tiềm lực của DNNN; tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn
đang diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với DNNN còn quá yếu
kém, đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông lỏng quản lý tài chính làm Nhà
nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu, tình trạng phân hoá, chênh lệch
trong thu nhập ngày càng tăng ( có nhiều DN thu nhập bình quân trên 1 triệu
đồng /người/tháng,trong khi đó nhiều DN công nhân không được đảm bảo

mức lương tối thiểu ).
2. Nguyên nhân của thực trạng.
Do sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ
trong điều kiện chiến tranh kéo dài, của tư tưởng không đúng của mô hình
CNXH trước đây. Trong tư duy cũng như trong thực tiễn xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của CNXH trước đây, người ta thường xem nhẹ các quy luật kinh
tế khách quan của thị trường, coi kinh tế thị trường là riêng có của CNTB. Từ
đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các DN mang tính hình thức,
các DN thực chất chỉ là người sản xuất, “gia công” cho Nhà nước chứ không
phải là một cơ sở kinh doanh, không có quyền tự chủ kinh doanh. Trong điều
kiện như vậy rõ ràng DNNN rất xa lạ với mô hình DN theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
Do sự yếu kém của nền kinh tế, chủ yếu là LLSX. Sự yếu kém của LLSX ở
nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém lạc hậu của kết cấu hạ tầng
của toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi DN. Đây là lực cản hàng đầu đối với
sự cất cánh mỗi DN cũng như của cả nền kinh tế. Trình độ kết cấu hạ tầng và
dịch vụ của nước ta chỉ ở dưới mức trung bình so với các nước đang phát
triển. Sự yếu kém của nến kinh tế còn thể hiện ở chỗ chưa có tích luỹ nội bộ,
chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Khả năng vay vốn nước
ngoài cũng không phải là thuận lợi bởi lẽ ta còn nợ lớn, khó có khả năng trả
trong thời gian nhất định. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh của các DN còn quá
thấp, lãi suất kinh doanh còn quá cao trong khi khả năng cạnh tranh của sản
phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của DN Việt Nam trên thị trường thế giới
còn yếu kém.
Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung, đối với DN nói
riêng nhìn chung còn nhiều yếu kém. Hệ thống pháp luật , chính sách quản lý
chưa hoàn chỉnh, phần lớn vẫn là các văn bản pháp quy dưới luật, có nhiều quy
định mâu thuẫn nhau. Chưa tổ chức kịp thời hệ thống toà án kinh tế nhằm
đảm bảo nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế . Trong hoạt động quản lý Nhà nước,
tệ cửa quyền, thủ tục quản lý hành chính quá phiền hà đối với DN và công dân

còn phổ biến. Trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa phân định rõ chức
năng quản lý Nhà nước với hoạt động quản lý kinh doanh của DN. Chưa xác
định danh mục ngành nghề, quy mô kinh tế Nhà nước trong cơ cấu hợp lý của
nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay. Đối với DNNN, chưa xác định rõ đại
diện chủ sở hữu Nhà nước, chưa có quy chế phù hợp về giám đốc, tập thể công
nhân, viên chức, về sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong DN. Việc làm thí điểm
HĐQT chưa tổng kết, nghiên cứu để có kết luận rõ sự cần thiết, phạm vi ứng
dụng, quy chế tổ chức và hoạt động của HĐQT đối với DNNN. Trong qúa trình
chuyển đổi cơ chế quản lý , nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi thời song chưa
được huỷ bỏ, những văn bản mới có nhiều sơ hở nhưng không kịp thời sửa đổi
nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích trước mắt, cục bộ, ngành, gây nhiều tiêu cực,
vô hiệu hoá những quy định mới đúng đắn của Nhà nước. Một số công tác đặc
biệt quan trọng về quản lý đối với DN như quản lý tài chính , kế toán, kiểm
toán, thanh tra, giám sát thi hành pháp luật chưa chuyển biến kịp trong môi
trường kinh doanh mới có lúc buông lỏng nên Nhà nước không nắm được thực
trạng tài chính , hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp . Ngược lại, có nơi có
lúc lại có quá nhiều cơ quan thanh tra, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp
một cách tuỳ tiện.
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước chậm
và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các DNNN. Về
mặt pháp lý, tài sản , tiền vốn trong các DNNN thuộc sở hữu toàn dân nhưng
trên thực tế , tính chất toàn dân của sở hữu trong các DNNN bị hao mòn một
cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế
không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các DNNN thờ
ơ và xa cách đối với sở hữu toàn dân. Quan niệm sở hữu này không phải là của
ai cả đã bám rễ ngày càng sâu trong suy nghĩ và hành động của họ.Tình hình
không rõ ai là chủ sở hữu đích thực là nguyên nhân tham nhũng của những kẻ
có chức quyền và sự lãnh đạm, thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ cương và kỷ luật
của người lao động, của sự giảm sút về năng suất, chất lượng và hiệu quả,
thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập… trong các DNNN. Thêm vào đó,

một bộ phận cán bộ quản lý,đặc biệt là giám đốc trong các DNNN không thạo
kinh doanh , không có đủ kiến thức và kinh nghiệm cần thiết về quản lý nền
kinh tế thị trường, thiếu năng động và không dám mạo hiểm trong kinh doanh.
Bởi vì họ chưa bao giờ được đào tạo một cách có hệ thống . Việc trao cho giám
đốc nhiều quyền lực , đặc biệt là quyền lực của chủ sở hữu trong khi không có
cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu những hoạt động của họ đã là một trong
những nguyên nhân cơ bản của tình hình lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng
tài sản , tiền vốn của Nhà nước.
Tóm lại, các DNNN ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng
góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình
chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản
DNNN. Đây là một mâu thuẫn lớn song bắt buộc phải kiên quyết đổi mới, phải
có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở. Do đó với mục tiêu
và quan điểm đổi mới DNNN, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương chuyển một
số DNNN sang CTCP và coi giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH là để nâng cao
hiệu quả hoạt động của các DNNN.
II. TÌNH HÌNH CPH CÁC DNNN TỪ 1991 ĐẾN NAY.
1. Mục tiêu cổ phần hoá.
Mục tiêu CPH DNNN là một vấn đề luôn luôn được Đảng và Chính phủ
quan tâm nghiên cứu xác định. Đại hội Đảng lần thứ VIII chủ trương “Triển
khai tích cực và vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm
động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản Nhà nước
ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá”.
Nghị định 28/ CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về “Chuyển một số
DNNN thành CTCP” khẳng định: “CPH DNNN là huy động vốn của công nhân
viên chức trong DN , cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước để đổi mới đầu
tư công nghệ, phát triển doanh nghiệp và tạo điều kiện cho những người góp
vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ phần được nâng cao vai

trò làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả”.
Theo “Đề án thí điểm chuyển một số DNNN sang CTCP” ban hành theo
Quyết định 202-HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) thì mục tiêu của CPH bao gồm:
- Chuyển một phần quyền sở hữu tài sản của Nhà nước thành sở hữu của
các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
- Huy động một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu
tư cho sản xuất kinh doanh.
- Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp .
Với ba mục tiêu trên có thể thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong các DNNN cần được giải quyết một cách cơ bản. CPH là một biện pháp
hữu hiệu để giải quyết vấn đề cơ bản này, đồng thời tạo ra một mô hình doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường và đáp ứng yêu cầu
của kinh doanh hiện đại. So với mục tiêu CPH của nhiều nước trên thế giới,
mục tiêu đặt ra ở nước ta được lựa chọn cơ bản và khiêm tốn hơn, không đặt
ra quá nhiều và quá cao như ở một số nước. Tuy nhiên, nếu thực hiện được
mục tiêu nêu trên thì sẽ tạo điều kiện để thực hiện các mục tiêu khác như: giảm
gánh nặng trợ cấp từ ngân sách Nhà nước, thu hút được các nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường, hình thành TTCK và sở giao dịch chứng khoán.
Để đẩy mạnh CPH các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
chúng, ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ra quyết định số 44/1998/NĐ-CP “Về
chuyển một số DNNN thành CTCP” nhằm hai mục tiêu sau:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự ; thay đổi phương thức quản
lý , tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản

Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh
tế của đất nước.
Qua những văn bản cơ bản trên có thể khẳng định các mục tiêu của CPH
đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng coi huy
động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò
làm chủ thực sự, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả
là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở vị trí ngang bằng nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những
điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc CNH- HĐH đất nước.
Đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao hiệu quả cạnh tranh, mở rộng
sản xuất kinh doanh của các DN. Hiện nay vốn kinh doanh đang là một trong
những vấn đề nan giải của các DN. Để huy động vốn, doanh nghiệp phải đảm
bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả được coi là
điều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển DN như một mục
tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc CPH xuất phát từ yêu cầu giải quyết khó
khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn DN. Điều đó đến lượt mình, có thể
lại gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao động không
thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình. Trong cơ chế
thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN nằm ở
sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tài sản
của DN, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm
vốn từ CPH là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của DN, người
chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở DN quản lý điều hành hoạt động
kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là
phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà thôi.
Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy động đó mà cũng không
thể mang lại hiệu quả mong muốn.
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu CPH là thúc đẩy nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của
những người chủ sở hữu tài sản . Huy động thêm vốn bằng bán cổ phần và

phát hành cổ phiếu là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích
thực của doanh nghiệp , nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ
thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và vốn huy động thêm.
2. Tiến trình CPH ở Việt Nam.
2.1. Giai đoạn 1: Thí điểm CPH từ 1992 đến tháng 5 /1996.
a) Chủ trương thực hiện CPH của Đảng và Nhà nước.
Một trong những nội dung của đổi mới quản lý kinh tế , thực hiện quyền
tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp là việc thí điểm chuyển một số DNNN
thành CTCP theo Quyết định 143/HĐBT ngày 10/5/1992.
Ngày 8/6/1992, Chính phủ đã có Quyết định 202/HĐBT về việc " Tiếp
tục thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP " và Chỉ thị 84/TTg ngày
4/3/1993 nhằm xúc tiến thực hiện thí điểm, CPH DNNN và các biện pháp đa
dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII tháng 11/1994,
Đảng chỉ đạo “Để thu hút thêm vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực,
thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả cần thực hiện các hình thức CPH có mức độ
thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh , trong đó sở hữu Nhà
nước chiếm tỷ lệ cổ phiếu chi phối”.
Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo
của DNNN (số 10/NQ-TW ngày 17/3/1995 ) ghi: “Thực hiện từng bước vững
chắc việc CPH một bộ phận DNNN không cần Nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ
tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho công
nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo thêm động lực bên trong trực
tiếp thúc đẩy và phát triển và bán cổ phiếu cho tổ chức hay cá nhân ngoài
doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh”.
a) Nội dung của các chủ trương.
Thứ nhất, phải phân biệt CPH và tư nhân hoá:
- CPH là một quá trình chuyển DNNN thành CTCP, từ doanh nghiệp một
chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang doanh nghiệp nhiều sở hữu là các cổ
đông trong đó Nhà nước là cổ đông nắm giữ cổ phần chi phối.

- Tư nhân hóa là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay tư nhân.
Thứ hai, mục tiêu của việc CPH trong giai đoạn thí điểm là:
- Chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành sở hữu các cổ đông nhầm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
- Phải huy động được khối lượng vốn lớn nhất định ở trong và ngoài
nước.
- Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp .
Thứ ba, DN được chọn làm thí điểm CPH là những doanh nghiệp:
- Có quy mô vừa.
- Đang kinh doanh có lãi hoặc trước mắt đang gặp khó khăn nhưng có
triển vọng sẽ hoạt động tốt.
- Không thuộc diện những DNNN cần phải giữ 100% vốn.
Thứ tư, đối tượng bán cổ phần theo thứ tự ưu tiên như sau:
- Cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp .
- Các tổ chức kinh tế xã hội trong nước.
- Các cá nhân trong nước.
Thứ năm, việc xác định giá trị doanh nghiệp được tiến hành trên cơ sở
số liệu của văn bản giao vốn và hệ số bảo toàn vốn qua các năm và giá trị tăng
thêm do các yếu tố lợi thế mang lại. Các khoản thua lỗ, nợ nần, hàng hoá tồn
kho kém, mất phẩm chất…không được đưa vào giá trị doanh nghiệp bán cổ
phần và giao cho doanh nghiệp tự xử lý trước khi tiến hành thí điểm CPH.
Thứ sáu, doanh nghiệp thí điểm CPH được ưu đãi giảm 50% thuế lợi tức
trong hai năm kể từ khi thực hiện CPH.
Thứ bảy, người lao động trong DNNN chuyển sang CTCP được ưu đãi
trong việc mua cổ phần trả chậm không quá 12 tháng và được chia phúc lợi,
khen thưởng ( nếu còn dư tại thời điểm CPH ) để mua cổ phần trên nguyên tắc
công bằng và tương xứng với mức độ đóng góp.
c) Quá trình thực hiện CPH.
Thực hiện Quyết định số 202/CT, các bộ, ngành đã hướng dẫn DNNN
đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang CTCP. Trên cơ sở số lượng DNNN đã

đăng ký, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ra
Quyết định số 203/C T ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí
điểm chuyển thành CTCP là :
- Nhà máy Xà bông miền Nam ( thuộc Liên hiệp Công ty bột giặt miền
Nam, Tổng công ty hoá chất II, Bộ Công nghiệp nặng ).
- Nhà máy diêm Thống nhất ( thuộc Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu
giấy gỗ diêm, Bộ Công nghiệp nhẹ).
- Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc ( thuộc Công ty chăn
nuôi và thức ăn gia súc I , Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm ).
- Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình ( thuộc Tổng công ty dịch vụ, sản xuất
và xuất nhập khẩu lâm sản III, Bộ Lâm nghiệp ).
- Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng ( Bộ Thương mại và du lịch ).
- Xí nghiệp sản xuất bao bì ( thuộc Công ty kinh doanh và chế biến lương
thực Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội ).
- Xí nghiệp may mặc ( thuộc Công ty dệt da may Legamex, UBND thành
phố Hồ Chí Minh ).
Sau một thời gian làm thử , 7 DNNN được Chính phủ chọn thí điểm đều
xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH .
Trong hơn 30 DNNN đã đăng ký với Bộ Tài chính để thực hiện CPH theo
Chỉ thị số 84/Tgg ngày 4/3/1993, thì sau 4 năm thực hiện Quyết định số
202/CT , có 5 DNNN chuyển thành CTCP là :
- Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển ( Bộ Giao thông vận tải ).
- Công ty cổ phần cơ điện lạnh ( Thành phố Hồ Chí Minh ).
- Công ty cổ phần giấy Hiệp An ( Bộ Công Nghiệp ).
- Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An ( Tỉnh Long An ).
- Công ty cổ phần và chế biến thức ăn gia súc ( Bộ Nông Nghiệp ).
2.2. Giai đoạn 2: Mở rộng CPH ( từ 5/1996 đến 6/1998 ).
a) Chủ trương thực hiện CPH của Đảng và Nhà nước.
- Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000 và năm
1996, Đảng ta đã khẳng định CPH phải giữ vững định hướng XHCN và phải

phân loại DNNN để CPH.
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tháng
6/1996 nêu phương hướng chỉ đạo : “Tổng kết kinh nghiệm hoàn chỉnh khuôn
khổ pháp lý đẻ triển khai tích cực, vững chắc việc CPH DNNN nhằm tạo thêm
động lực mới trong quản lý , huy động thêm vốn theo yêu cầu phát triển và
điều chỉnh cơ cấu DNNN”.
- Theo thông báo số 63-TB/TW ngày 4/4/1997 của Bộ Chính trị là: “CPH
phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN, nhằm huy động thêm vốn, của
cải bên trong và bên ngoài để DN đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá
công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động phát triển sản xuất , tăng
thêm khả năng cạnh tranh, tích luỹ cho DN, đóng góp cho ngân sách và thu
nhập của người lao động. CPH phải làm cho tiềm lực kinh tế của Nhà nước
ngày càng tăng lên, hiệu quả hoạt động của DN ngày càng cao, góp phần đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN. CPH DNNN phải gắn liền
với cơ chế quản lý để tạo động lực, phát huy mạnh hơn vai trò làm chủ và tính
năng động, sáng tạo của người lao động trong quản lý DN, đồng thời phải đảm
bảo vai trò quản lý của Nhà nước trên cơ sở giữ số cổ phần cần thiết chi phối
của Nhà nước tại DN”.
Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số DNNN thành
CTCP thay cho Quyết định 202/CT ( năm 1992 ) với các quy định cụ thể, rõ
ràng, đầy đủ hơn.
Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997 sửa đổi một số điều của Nghị định
28/CT và Chỉ thị 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thúc
đẩy triển khai vững chắc công tác CPH.
b) Nội dung của các chủ trương.
Thực hiện CPH đối với DNNN có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động sản xuất
kinh doanh có hiệu quả và không thuộc đối tượng Nhà nước cần giữ 100%
vốn.
Đối tượng bán cổ phần như trước song xoá bỏ trình tự ưu tiên bắt buộc.
CPH được tiến hành theo 3 hình thức:

- Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu
theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển.
- Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp .
- Trích một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH.
Giá trị doanh nghiệp CPH được xác định theo nguyên tắc giá thực tế mà
người mua, người bán có thể chấp nhận được. Cho phép loại trừ các khoản lỗ
ra khỏi giá trị DN CPH và tính đến các chi phí cần thiết cho triển khai CPH.
Những ưu đãi cho doanh nghiệp thực hiện CPH:
- Được giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển
sang hoạt động theo Luật Công ty.
- Được miễn , giảm thuế trước bạ đối với việc chuyển những tài sản của
DNNN CPH thành sở hữu của CTCP.
- Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại của Nhà nước theo cơ
chế và lãi suất đã áp dụng cho DNNN.
- Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo các chế độ quy định của
Nhà nước.
- Được chủ động sử dụng số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng và quỹ
phúc lợi chia cho công nhân viên chức đang làm việc để mua cổ phiếu.
Những ưu đãi cho người lao động trong các DN thực hiện CPH là:
- Được Nhà nước cấp một số cổ phầnđể hưởng cổ tức.
- Được mua chịu trong 5 năm một số cổ phần lớn với lãi suất 4% / năm
( tổng mức mua chịu không quá 15-20% giá trị doanh nghiệp ).
- Được hưởng trợ cấp thôi việc, mất việc nếu không bố trí được việc làm.
c) Quá trình thực hiện CPH.
Hơn 200 DN đã đăng ký thực hiện CPH, chiếm trên 3% số DNNN. Trong
số này, một số DN đang tiến hành ở các bước xác định giá trị DN, kiểm toán…Ở
giai đoạn này, diện DN được CPH đã mở rộng với 3 Bộ, Tổng công ty và 11 tỉnh
thành phố. Quy mô DN CPH cũng lớn hơn giai đoạn thí điểm. Hầu hết ở các
DN, Nhà nước nắm giữ cổ phần và cổ đông là người lao động trong công ty sở
hữu từ 10-70% số cổ phiếu.

Thực hiện Nghị định số 28/CP, công tác CPH DNNN đã được quan tâm
hơn, các ngành , các cấp đã thực hiện được một số việc như sau:
- Củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa
phương. Tính đến tháng 3/1998 đã có:
+ Ban chỉ đạo Trung ương về CPH do Bộ trưởng Bộ Tài chính làm
trưởng ban và một số ngành làm thành viên: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Lao

×